Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của một số dòng lúa thuần và ảnh hương của một số biện pháp kỹ thuật đến năng suất dòng lúa clo2 tại t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 109 trang )

..

đại học thái nguyên
tr-ờng đại học nông lâm

V KHC MINH

NGHIấN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
CỦA MỘT SỐ DÒNG LÚA THUẦN VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐỄN NĂNG SUẤT
DỊNG LÚA CLO2 TẠI TỈNH VĨNH PHÚC
chuyªn ngành: trồng trọt
MÃ số: 60.62.01
luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Trần Ngọc Ngoạn

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2008


LUẬN VĂN ĐƯỢC HỒN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM THÁI NGUYÊN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Ngọc Ngoạn

Người phản biện:
Phản biện 1:
PGS.TS Nguyễn Thị Lẫm
Phản biện 2:
PGS.TS Dương Văn Sơn


Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn cấp Nhà nước tại
Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên.
Vào hồi: 7h30’ ngày 31 tháng 11 năm 2008.

Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm học liệu Đại Học Thái Nguyên,
Thư viện Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên.

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2008


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Lúa gạo là cây lƣơng thực quan trọng đối với con ngƣời. Trên thế giới có
khoảng một nửa dân số sử dụng lúa gạo và các sản phẩm chế biến từ lúa gạo cho
nhu cầu lƣơng thực hàng ngày. Châu Á là nơi sản xuất và cũng là nơi tiêu thụ
đến 90% sản lƣợng gạo trên thế giới. Trong tƣơng lai xu thế sử dụng lúa gạo để
ăn sẽ cịn tăng hơn vì đây là loại lƣơng thực dễ bảo quản, dễ chế biến và cho
năng lƣợng khá cao. Theo tính tốn của Peng et al (1999), đến năm 2030 sản
lƣợng lúa của thế giới phải đạt 800 triệu tấn mới có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu
lƣơng thực của con ngƣời.
Một trong những thành tựu khoa học ở thập kỷ 70 - 90 (thế kỷ XX) trong
lĩnh vực Nông nghiệp là lai tạo, chọn lọc thành cơng hàng ngàn giống lúa mới có
năng suất cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu và đảm bảo an ninh lƣơng thực và xu
hƣớng này luôn đƣợc các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, khi xã
hội càng phát triển thì nhu cầu lƣơng thực và chất lƣợng lƣơng thực của con
ngƣời sẽ càng tăng. Vì vậy, xu thế nghiên cứu và chọn tạo các giống lúa đặc sản,
chất lƣợng cao đã đƣợc các nhà khoa học nghiên cứu cách đây 2 thập kỷ và cũng
đã chọn tạo đƣợc nhiều giống lúa chất lƣợng cao, nhƣng khi tạo đƣợc giống lúa
có chất lƣợng cao thì năng suất lại là yếu tố hạn chế.
Nhƣ đa số các nƣớc ở Châu Á, trƣớc thập kỷ 90 của thế kỷ XX Việt Nam

cũng xuất phát từ một nƣớc thiếu lƣợng thực, nhờ ứng dụng mạnh mẽ những thành
tựu về giống và khoa học kỹ thuật nên đã giải quyết đƣợc vấn đề thiếu lƣơng thực,
có phần tích luỹ và trở thành nƣớc đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Công tác cải tiến các giống lúa theo hƣớng chất lƣợng cũng đã đƣợc các nhà khoa
học Việt Nam nghiên cứu, chọn tạo song vẫn có hạn chế chung về năng suất.
Với vị trí địa lý thuận lợi, Vĩnh Phúc đã đƣợc Chính phủ xác định là một
trong 8 tỉnh nằm trong vùng kinh tế phát triển Bắc Bộ; là vùng trọng điểm phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

triển cơng nghiệp của các tỉnh phía Bắc và chƣơng trình du lịch của tỉnh đƣợc đƣa
vào đầu tƣ nhƣ các khu du lịch trọng điểm quốc gia. Những năm gần đây, nhờ
phát triển sản xuất công nghiệp, nguồn thu cho ngân sách tăng nhanh đã tạo điều
kiện thuận lợi trong việc thực hiện các chính sách, đầu tƣ cho sản xuất nơng
nghiệp. Các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn, đặc biệt
là những cơ chế, chính sách riêng của tỉnh hỗ trợ trực tiếp cho nông dân đƣợc
triển khai thực hiện trong thời gian qua đã trở thành động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển; từng bƣớc thực hiện cơng nghiệp hố - hiện đại hố nơng nghiệp, nơng
thơn; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp theo hƣớng
sản xuất hàng hoá và giá trị cao; tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nơng dân;
góp phần xố đói giảm nghèo; xây dựng nông thôn mới (Nghị quyết 03NQ/TU,
2006) [6].
Đối với cây lúa, tuy diện tích gieo trồng có giảm dần qua các năm do nhu
cầu sử dụng đất chuyên dùng, nhƣng theo tinh thần Nghị quyết 03 của Ban chấp
hành tỉnh Đảng bộ về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông
dân đến năm 2010 và giai đoạn 2011 đến năm 2020, diện tích đất trồng lúa của

tỉnh sẽ ổn định 65 - 67 ngàn ha/năm. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trong sản xuất lúa
ở Vĩnh Phúc là phải đảm bảo an ninh lƣơng thực trên địa bàn vì vậy yêu cầu về
sản lƣợng ngày càng tăng để đáp ứng đủ nhu cầu về lƣơng thực khi dân số gia
tăng; Đồng thời phải thay đổi bộ giống có chất lƣợng thấp nhƣ hiện tại bằng
những giống có chất lƣợng cao để đáp ứng nhu cầu về chất lƣợng lƣơng thực và
nâng cao giá trị thu nhập trên 01 ha đất canh tác.
Những năm gần đây, nhờ áp dụng thành tựu về giống và nhiều tiến bộ kỹ
thuật mới trong sản xuất nên năng suất lúa của Vĩnh Phúc không ngừng tăng qua
các năm, năng suất bình quân từ 42,2 tạ/ha năm 2001 tăng lên 50,53 tạ/ha năm
2005 và năm 2008 ƣớc đạt 52,00 tạ/ha. Đồng thời với việc áp dụng những giống
mới vào sản xuất đảm bảo an ninh lƣơng thực trên địa bàn, tỉnh cũng đầu tƣ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

mạnh cho công tác nghiên cứu, thử nghiệm, chọn lọc những giống lúa có chất
lƣợng cao để mở rộng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và nâng cao giá
trị thu nhập cho nông dân (Sở Nông nghiệp&PTNT, 2008) [7].
Nhƣ vậy, vấn đề đặt ra cho công tác chọn tạo các giống lúa mới có chất
lƣợng cao, năng suất khá trong giai đoạn hiện nay ở Vĩnh Phúc nói riêng và cả
nƣớc nói chung là hƣớng cần đƣợc quan tâm hàng đầu trong công tác chọn tạo ra
giống lúa. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng và ý nghĩa của việc này, chúng tôi
chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển của một số dòng
lúa thuần và ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến năng suất dòng
lúa CL02 tại tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục tiêu của đề tài:
Lựa chọn đƣợc giống lúa có năng suất, chất lƣợng tốt và hiệu quả kinh tế cao

phù hợp với điều kiện sinh thái, khả năng đầu tƣ thâm canh và tập quán canh tác của
địa phƣơng. Từ đó góp phần bổ xung vào cơ cấu giống cây trồng nói chung và làm
phong phú bộ giống lúa chất lƣợng cao cũng nhƣ các giải pháp kỹ thuật trong thâm
canh lúa ở Vĩnh Phúc.
3. Yêu cầu của đề tài:
- Đánh giá khả năng sinh trƣởng, phát triển của các dòng, giống lúa chất lƣợng.
- Đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh của các dòng, giống lúa chất lƣợng.
- Đánh giá khả năng cho năng suất của các dòng, giống lúa thí nghiệm.
- Tính hiệu quả kinh tế của dòng lúa chất lƣợng so với giống đối chứng.
- Đánh giá sơ bộ chất lƣợng gạo bằng phƣơng pháp cảm quan và kết hợp
với các chỉ tiêu quan sát.
- Đánh giá sự ảnh hƣởng của một số biện pháp kỹ thuật đến dịng lúa có
triển vọng.
- Từ kết quả của vụ mùa 2007, lựa chọn giống có triển vọng, phù hợp với
điều kiện địa phƣơng để mở rộng diện tích gieo cấy ở vụ xuân 2008.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC.
Trong sản xuất nông nghiệp, giống cây trồng là yếu tố quan trọng hàng
đầu. Đặc tính của giống, yếu tố môi trƣờng sinh thái và kỹ thuật canh tác quyết
định đến năng suất. Kiểu gen tốt chỉ đƣợc biểu hiện trong một phạm vi nhất định
của môi trƣờng. Những giống đƣợc so sánh qua một loạt mơi trƣờng thì biểu
hiện năng suất thƣờng khác nhau. Vì vậy, tính ổn định và thích nghi của giống

với mơi trƣờng thƣờng đƣợc sử dụng để đánh giá giống.
Mặc dù hầu hết các nƣớc trên Thế giới đều nghiên cứu phát triển giống
cây trồng nói chung và giống lúa nói riêng nhƣng chƣa bao giờ đáp ứng đủ cho
nhu cầu sản xuất. Viện nghiên cứu lúa quốc tế International Rice Research
Institute đã có chƣơng trình nghiên cứu lâu dài về lúa, các vấn đề về chọn giống,
tạo giống nhằm đƣa ra những giống có đặc trƣng chính nhƣ: thời gian sinh
trƣởng, tính chống sâu, bệnh hại, chất lƣợng gạo, tính mẫn cảm với quang chu kỳ
thích hợp nhất với những vùng trồng lúa khác nhau.
Giống lúa mới đƣợc coi là tốt thì phải có độ thuần cao, thể hiện đầy đủ các yếu
tố di truyền của giống đó, khả năng chống chịu tốt với các điều kiện ngoại cảnh bất
thuận của từng vùng khí hậu, đồng thời chịu thâm canh, kháng sâu bệnh hại, cho
năng suất cao, phẩm chất tốt và ổn định qua nhiều thế hệ. Muốn phát huy hết tiềm
năng năng suất của một giống tốt đó phải sử dụng chúng hợp lý, phù hợp với đất đai,
điều kiện khí hậu và kinh tế xã hội của vùng đó.
Các giống khác nhau có khả năng phản ứng với điều kiện sinh thái ở mỗi
vùng khác nhau. Do đó, để xác định đƣợc một số giống tốt cho từng vùng sản
xuất nông nghiệp là việc làm cần thiết và địi hỏi có thời gian nhất định. Bởi vậy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5

việc xác định tính thích nghi của một giống mới trƣớc khi đƣa ra sản xuất trên
diện rộng thì giống đó phải đƣợc trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau. Mục
đích là để đánh giá tính khác biệt, độ đồng đều, tính ổn định, khả năng thích ứng,
khả năng chống chịu sâu bệnh cũng nhƣ điều kiện bất thuận và khả năng cho
năng suất chất lƣợng, hiệu quả kinh tế của giống đó.
* Giống lúa là tiền đề của năng suất và phẩm chất. Một giống lúa tốt cần

thoả mãn một số yêu cầu sau:
- Sinh trƣởng, phát triển tốt trong điều kiện khí hậu đất đai và điều kiện
canh tác tại địa phƣơng.
- Cho năng suất cao, ổn định qua các năm khác nhau trong giới hạn biến
động của thời tiết.
- Có khả năng chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất thuận và sâu bệnh.
- Có chất lƣợng đáp ứng yêu cầu sử dụng.
* Tất cả các giống lúa trƣớc khi đƣa ra khuyến cáo sản xuất đại trà, c ần
phải qua khảo nghiệm và khu vực hố.
* Trong sản xuất, lƣu thơng và tiêu thụ lúa gạo thì chất lƣợng gạo quyết
định phần lớn giá cả trên thị trƣờng. Theo IRRI (1996) [9] thì những yếu tố
quyết định chất lƣợng gạo bao gồm:
- Diện mạo chung: Các yếu tố cấu thành diện mạo của hạt gồm kích thƣớc
và hình dạng hạt; độ đồng đều, độ bóng, độ bạc bụng, màu sắc hạt; tỷ lệ hạt bị
hƣ, bị gãy ... đƣợc đánh giá chủ quan bằng mắt thƣờng.
- Đặc điểm của hạt gạo: Loại hình của hạt đƣợc dựa trên 3 tiêu chuẩn là:
Dài, rộng và trọng lƣợng. Mỗi giống có thể căn cứ 3 tiêu chuẩn này để xếp loại.
Kích thƣớc và hình dạng hạt là tiêu chuẩn chất lƣợng đầu tiên mà những nhà
chọn lọc giống quan tâm trong phát triển giống mới. Sự chọn lọc giống mang
tính di truyền cao nhằm loại trừ những đặc tính khơng mong muốn của hạt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

- Nội nhũ, độ bóng và độ bạc bụng: Độ bạc bụng là đặc điểm khơng mong
muốn, nó làm giảm năng suất xay trà bởi những hạt bạc bụng thƣờng yếu và dễ
vỡ. Độ bạc bụng gạo ở nƣớc ta thƣờng phụ thuộc và một số yếu tố nhƣ: Thu

hoạch ở ẩm độ q cao, chín khơng đều trong cùng bơng lúa, nhiệt độ cao trong
lúa chín và một phần là do những yếu tố di truyền của giống.
- Màu sắc: Màu sắc đƣợc sử dụng nhƣ là một tiêu chuẩn chất lƣợng gạo ở
Mỹ. Gạo sẽ mất tính hấp dẫn khi thấy những hạt màu xám hoặc đỏ làm màu sắc
hoặc diện mạo chung của gạo thay đổi.
- Chất lƣợng xay trà: Đây là tiêu chuẩn quan trọng của gạo, giá trị của
năng suất xay trà là tỷ lệ gạo nguyên, gạo gãy và tấm; trong đó tỷ lệ gạo gãy và
tấm chiếm khoảng 30 - 50 khối lƣợng toàn bộ hạt.
- Chế biến: Những đặc điểm về xay trà và nấu ăn có tính quyết định hầu
hết giá trị kinh tế của gạt gạo. Chất lƣợng cơm ngon liên quan đến mùi thơm, độ
dẻo, vị ngọt, độ sáng của cơm. Đó chính là tiêu chuẩn cho sự đánh giá phẩm
chất hạt gạo.
* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá về chất lƣợng gạo của Thế giới và Việt Nam
(Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2000) [1] đề cập đến 4 loại chất lƣợng:
- Chất lƣợng xay xát: Là tỷ lệ gạo lật và gạo xát tính theo % trọng lƣợng
thóc; Tỷ lệ gạo nguyên tính theo % trọng lƣợng của gạo xát.
- Chất lƣợng thƣơng trƣờng: Đƣợc xem xét các chỉ tiêu nhƣ hình dáng, độ
bóng và độ trong của hạt.
- Chất lƣợng nấu nƣớng: Một trong những chỉ tiêu quan trọng của chất
lƣợng nấu nƣớng là độ hoá hồ của tinh bột gạo. Ngoài hàm lƣợng amyloza là chỉ
tiêu xác định chất lƣợng nấu nƣớng và chất lƣợng công nghệ của hạt. Các giống
có hàm lƣợng amyloza = 20 % là thấp, từ 20 - 25 % là trung bình, và = 25 % là
hàm lƣợng amyloza cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7


- Chất lƣợng dinh dƣỡng của lúa gạo:
Hàm lƣợng protein là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lƣợng dinh
dƣỡng của lúa gạo, tỷ lệ protein trong hạt gạo biến đổi từ 7% - 10% tuỳ thuộc
vào giống và điều kiện gieo cấy.
Từ điều kiện thực tế địa phƣơng, là tỉnh có cả đồng bằng, trung du và miền
núi, có tiểu vùng khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu Bắc Bộ, hệ thống
thuỷ lợi tƣơng đối hồn chỉnh, trình độ dân trí khá, thuận lợi cho việc phát triển
sản xuất các giống lúa chất lƣợng cao tham gia vào thị trƣờng. Do đó trong
những năm gần đây, diện tích gieo trồng một số giống lúa có chất lƣợng cao nhƣ
HT1, N46, Nghi Hƣơng 2308... đã đƣợc đƣa vào gieo trồng ở nhiều địa phƣơng
trong tỉnh với diện tích ngày một tăng. Tuy nhiên chƣa có một nghiên cứu nào ở
trong tỉnh đề cập đến hiệu quả và những hạn chế của các giống lúa này, đồng
thời cũng cần bổ sung một số giống lúa mới chất lƣợng cao vào sản xuất nhằm
đa dạng cơ cấu giống lúa chất lƣợng cao góp phần tăng năng suất, chất lƣợng và
hiệu quả kinh tế từ sản xuất lúa.
1.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ NGHIÊN CỨU LÚA TRÊN THẾ GIỚI.
1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ, xuất khẩu gạo trên thế giới.
Lúa là một trong những cây ngũ cốc có lịch sử lâu đời, trải qua một qúa
trình biến đổi và chọn lọc từ cây lúa dại thành cây lúa ngày nay. Trên thế giới có
trên một trăm nƣớc trồng lúa (ở hầu hết các châu lục), với tổng diện tích thu
hoạch là 156,9 triệu ha. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo vẫn tập trung chủ yếu ở các
nƣớc châu Á nơi chiếm tới 90% diện tích gieo trồng cũng nhƣ lƣợng sản xuất ra
(FAOSTAT, 2008) [24]. Trong đó Ấn Độ là nƣớc có diện tích thu hoạch lúa lớn
nhất (khoảng 43 triệu ha), tiếp đến là Trung Quốc khoảng 29 triệu ha (Ghost,
R.L, 1998) [26].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





8

Biểu 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của toàn Thế giới
giai đoạn từ năm 1961 đến năm 2007
Năm

Diện tích
( triệu ha )

Năng suất
( Tạ/ha)

Sản lƣợng
( Triệu tấn)

1961

115,50

18,7

215,65

1970

133,10

23,8

316,38


1980

144,67

27,4

396,87

1990

146,98

35,3

518,23

2000

154,11

38,9

598,97

2001

151,97

39,4


598,03

2002

147,69

39,1

577,99

2003

149,20

39,1

583,00

2004

151,02

40,3

608,37

2005

153,78


40,2

618,53

2006

156,30

41,21

644,1

2007

156,95

41,50

651,7

( Nguồn: FAOSTAT, 2008)[24]
Theo tổng hợp trên ta thấy, về diện tích canh tác lúa có xu hƣớng tăng.
Song tăng mạnh nhất là vào các thập kỷ 60 - 70 của thế kỷ XX, sau đó tăng chậm
dần và có xu hƣớng ổn định vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Về năng suất
lúa trên đơn vị diện tích cũng có chiều hƣớng tƣơng tự. Trong 4 thập kỷ cuối của
thế kỷ 20 năng suất lúa tăng gấp 2 lần, tăng từ 18,7 tạ/ha (năm 1961) lên 38,9
tạ/ha (năm 2000), sau đó năng suất lúa vẫn tăng nhƣng chậm dần. Điều đó có thể
lý giải là do giai đoạn từ 1961 - 2000 cuộc cách mạng xanh về giống lúa, kỹ
thuật canh tác lúa có nhiều cải tiến, phân hố học và thuốc trừ sâu, bệnh đƣợc sử

dụng phổ biến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

Từ đầu của thế kỷ XXI, do nhận thức đƣợc những tác động trái của phân
bón và thuốc bảo vệ thực vật hố học nên ngƣời ta có xu hƣớng hạn chế sử dụng
các chất hoá học tổng hợp trong thâm canh lúa, chú trọng chỉ tiêu chất lƣợng hơn
là số lƣợng làm cho năng suất lúa có xu hƣớng chững lại hoặc tăng chút ít. Tuy
nhiên, ở những nƣớc có nền khoa học kỹ thuật và kinh tế phát triển, năng suất
lúa vẫn cao hơn.
Biểu 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của 10 nước có sản lượng
lúa hàng đầu Thế giới năm 2007
Tên nƣớc

Diện tích
( Triệu ha)

Năng suất
( Tạ/ha)

Sản lƣợng
(triệu tấn)

Trung Quốc

29,49


63,41

187,04

Ấn Độ

44,00

32,07

141,13

Inđônêxia

12,16

46,89

57,04

Băngladesh

11,20

38,84

43,5

Việt Nam


7,30

48,68

35,56

Thái Lan

10,36

26,91

27,87

Myanma

0,82

39,76

32,61

Philippin

4,25

37,64

16,00


Braxin

2,90

38,20

11,09

Nhật Bản

1,67

65,37

10,97

(Nguồn: FAO STAT, 2008) [24]
Trong 10 nƣớc trồng lúa (biểu 1.2) có sản lƣợng trên 10 triệu tấn/năm đã
có 9 nƣớc nằm ở châu Á, chỉ có một đại diện của châu Mỹ đó là Braxin (Nam
Mỹ). Trung Quốc và Nhật Bản là 2 nƣớc có năng suất cao vƣợt trội, đạt 63,41
tạ/ha (Trung Quốc) và 65,37 tạ/ha (Nhật Bản). Điều đó có thể lý giải là vì Trung
Quốc là nƣớc đi đầu trong lĩnh vực phát triển lúa lai và ngƣời dân nƣớc này có
tinh thần lao động cần cù, có trình độ thâm canh cao. Cịn Nhật Bản là nƣớc có
trình độ khoa học kỹ thuật cao, đầu tƣ lớn (Nguyễn Hữu Hồng, 1993) [14]. Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





10

Nam ta cũng là nƣớc có năng suất lúa cao đứng hàng thứ 3 trong 10 nƣớc trồng
lúa chính đạt 48,68 tạ/ha. Thái Lan tuy là nƣớc xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế
giới trong nhiều năm liên tục, song năng suất chỉ đạt 26,91 tạ/ha, bởi vì Thái Lan
chú trọng nhiều hơn đến canh tác các giống lúa dài ngày, chất lƣợng cao (Bùi
Huy Đáp, 1999) [11].
Theo dự báo của các nhà khoa học thì sản lƣợng lúa sẽ tăng chậm và có xu
hƣớng chững lại vì diện tích trồng lúa ngày càng thu hẹp do tốc độ đô thị hoá gia
tăng (Beachel, H.M 1972) [21]. Giá lúa tăng chậm trong khi đó giá vật tƣ đầu
vào tăng cao khơng khuyến khích nơng dân trồng lúa, hệ số sử dụng ruộng đất
khó có thể tăng cao hơn nữa (ví dụ ở Việt Nam nhiều nơi đã trồng tới 3 vụ
lúa/năm), nơng dân chuyển diện tích trồng lúa sang trồng các cây khác và ni
trồng thuỷ sản có hiệu quả kinh tế cao hơn hoặc chuyển sang trồng các giống lúa
có chất lƣợng cao mặc dù năng suất thấp hơn.
Theo Bộ Nông nghiệp & PTNT, thị trƣờng xuất nhập khẩu gạo trên Thế
giới trong thời gian gần đây nhƣ sau:
- Xuất khẩu: Giai đoạn 1995-2004, lƣợng gạo xuất khẩu trên Thế giới
hàng năm khoảng 23- 25 triệu tấn/năm (chiếm trên 6% tổng sản lƣợng gạo), bình
quân tăng 3%/năm. Năm 2007 mức xuất khẩu gạo đạt mức 30,2 triệu tấn (tăng
3,4% so với năm 2006). Châu Á chiếm 77% lƣợng gạo xuất khẩu của Thế giới.
Có trên 20 nƣớc tham gia xuất khẩu gạo. Bảy nƣớc xuất khẩu gạo chủ lực gồm:
Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Ấn Độ, Pakistan, Mianma, Trung Quốc chiếm 85%
tổng khối lƣợng gạo xuất khẩu trên toàn Thế giới.
- Nhập khẩu: Hiện nay có khoảng 80 nƣớc và vùng lãnh thổ nhập khẩu gạo,
trong đó chủ lực là các nƣớc thuộc Châu Á nhƣ: Philippines, Indonesia, Banglades;
khu vực Châu Phi, Trung Đông và một số các nƣớc thuộc khu vực Trung Mỹ lƣợng
gạo nhập khẩu khá lớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





11

- Giá gạo thị trƣờng Thế giới: giai đoạn 1995-2000 diễn biến trong khoảng
220-250 USD/tấn (loại 25% tấm); giai đoạn 2001-2005 giá gạo thế giới xuống
thấp dao động trong khoảng 160-200 USD/tấn. Từ 2006 trở lại đây giá gạo liên
tục tăng, đặc biệt cuối 2007 đến nay giá gạo tăng kỷ lục do nguồn cung bị hạn
chế, hiện nay giá gạo giao dịch trên thị trƣờng thế giới trong khoảng 800 -1.000
USD/tấn. Theo dự báo giá gạo còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Dự báo tình hình sản xuất và tiêu thụ gạo trên thế giới đến năm 2020 (Bộ
Nông nghiệp & PTNT, 2008) [4]:
- Trong 10 năm tới, sản xuất lúa gạo Trên thế giới tăng chậm do hạn chế việc
mở rộng diện tích gieo cấy, một số nƣớc có diện tích lúa lớn có xu hƣớng giảm và
năng suất lúa kém ổn định khi phải chịu ảnh hƣởng của thiên tai dịch bệnh.
+ Diện tích sản xuất lúa: Trong 10 năm tới, dự báo diện tích trồng lúa sẽ
khơng có khả năng tăng nhiều và ở mức khoảng 151,5 triệu ha. Hầu hết các nƣớc
Châu Á đều khơng có hoặc có rất ít khả năng mở rộng diện tích đất trồng lúa. Một
số nƣớc nhƣ Thái Lan, Inđơnesia, Tiểu vùng Saharan của châu Phi có thể mở rộng
một phần diện tích trồng lúa nhƣng cũng chỉ bù vào phần diện tích đất lúa sẽ bị thu
hẹp của các nƣớc có diện tích lớn nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ do thiếu nguồn nƣớc và
nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích khác. Mặt khác, theo dự báo biến đổi khí hậu
và nguy cơ mực nƣớc biển dâng cao sẽ dẫn đến một phần diện tích đất nơng nghiệp
vùng ven biển, chủ yếu là đất trồng lúa sẽ bị ngập hoặc nhiễm mặn.
+ Về sản lƣợng gạo: Theo Bộ Nơng nghiệp Mỹ, sản lƣợng gạo tồn cầu năm
2008 ƣớc đạt khoảng 420,8 triệu tấn. Dự báo trong 10 năm tới nếu khơng có những
đột biến về thiên tai và sâu bệnh hại trên quy mô lớn, sản lƣợng gạo tăng bình quân
khoảng 0,6%/năm, đạt mức khoảng 440,2 triệu tấn vào năm 2017. Yếu tố để tăng sản
lƣợng gạo trong 10 năm tới chủ yếu là tăng năng suất dựa trên cơ sở phát triển thủy

lợi, áp dụng giống tốt và cải tiến kỹ thuật canh tác lúa. Tuy nhiên việc thâm canh tăng
năng suất lúa phụ thuộc nhiều vào nỗ lực của Chính phủ các nƣớc trong việc đầu tƣ
phát triển thủy lợi, sản xuất và cung ứng đủ nguồn phân bón, vật tƣ sản xuất khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

- Tiêu dùng gạo trên thế giới tiếp tục tăng do tăng dân số, đặc biệt ở Châu Á,
Châu Phi là khu vực sử dụng nhiều lúa gạo, khu vực Tây bán cầu và Trung Đông
tăng mức tiêu thụ gạo trên đầu ngƣời.
+ Dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, nhu cầu gạo năm 2008 khoảng 424,5 triệu
tấn, tăng 1% so với năm trƣớc và so với nguồn cung thiếu hụt khoảng 4 triệu tấn, do đó
dự báo giá gạo trên thế giới sẽ tiếp tục tăng và đứng ở mức cao trong thời gian dài.
Trong 10 năm tới dự báo mức tiêu dùng gạo Thế giới tăng bình quân 0,6%/năm và dự
kiến tổng mức tiêu dùng gạo khoảng 441,2 triệu tấn năm 2017, trong đó: Gạo dùng
làm lƣơng thực khoảng 406,8 triệu tấn (92,2%), gạo dữ trữ có xu hƣớng giảm chỉ còn
khoảng 72,7 triệu tấn năm 2017 và giảm 4,5 triệu tấn so với hiện nay.
+ Trong giai đoạn 2007 - 2017, tiêu dùng gạo thế giới tăng phần lớn là do
nhu cầu nhập khẩu tăng ở Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Philippines và tiểu vùng
Sahara của châu Phi (chiếm khoảng 2/3 mức tăng cầu toàn thế giới), một số nƣớc
Tây bán cầu tăng lƣợng gạo nhập khẩu nhƣ: Braxin, Cuba.
- Nhiều quốc gia xuất khẩu gạo lớn giảm lƣợng gạo xuất khẩu, trong khi nhu
cầu nhập khẩu gạo tăng, nguồn cung thị trƣờng gạo sẽ thiếu hụt so với cầu, giá gạo
trên thị trƣờng Thế giới giữ ở mức cao: Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ,
thƣơng mại gạo toàn cầu năm 2008 dự kiến khoảng 29,38 triệu tấn, giảm 1,3 triệu
tấn so với năm 2007. Dự báo lƣợng gạo thƣơng mại trên Thế giới trong thập kỷ tới
sẽ tăng bình quân 2,4%/ năm và sẽ đạt mức 35 triệu tấn vào năm 2017. Tuy nhiên,

trƣớc nguy cơ khủng hoảng lƣơng thực toàn cầu, để đảm bảo an ninh lƣơng thực
trong nƣớc, một số nƣớc nhƣ Trung Quốc, Ấn độ, Pakistan, Mỹ... giảm lƣợng gạo
xuất khẩu, trong khi nhiều nƣớc tăng lƣợng nhập khẩu nhƣ Philippine, Indonesia,
Bangladesh và tiểu vùng Saharan của Châu Phi, Trung đông, một số nƣớc Tây bán
cầu thiếu hụt nguồn cung sẽ làm cho giá gạo thế giới duy trì giữ ở mức cao trong
trung và dài hạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

Phát biểu với các nhà lãnh đạo Thế giới tại Hội nghị thƣợng đỉnh lƣơng thực
ở Rome, Tổng thƣ ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon cho rằng: lƣơng thực của thế
giới cần phải tăng thêm 50% vào năm 2030 mới đáp ứng đƣợc nhu cầu sử dụng
lƣơng thực do dân số gia tăng ( 2008)[10].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu giống lúa trên thế giới.
Cây lúa có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, có khả năng thích nghi rộng nên
cây lúa có thể trồng ở nhiều vùng khí hậu khác nhau và đƣợc trồng ở nhiều nơi
trên thế giới. Mặc dù đến nay vẫn còn nhiều bất đồng về nguồn gốc xuất xứ của
cây lúa nhƣng đa số ý kiến đều cho rằng tổ tiên cây lúa có nguồn gốc ở khu vực
Vân Nam (Trung Quốc) và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Các tiêu bản
lúa dại và di chỉ khảo cổ đã chứng minh điều đó. Việt Nam có vinh dự đƣợc coi
là cái nơi của nền văn minh lúa nƣớc với lịch sử 4 nghìn năm.
1.2.2.1. Thu thập nguồn gen cây lúa và ứng dụng trong sản xuất
Từ những năm đầu của thế kỷ trƣớc trên Thế giới ngƣời ta quan tâm đến
việc bảo tồn nguồn gen nói chung và nguồn gen cây lúa nói riêng. Ở Liên Xô
(cũ), ngay từ những năm 1924 Viện nghiên cứu cây trồng đã đƣợc thành lập,
nhiệm vụ chính của Viện là thu nhập và đánh giá bảo tồn nguồn gen cây trồng.

Tổ chức Lƣơng thực và nông nghiệp Thế giới (FAO) đã tổng hợp các kết quả
nghiên cứu và đề ra phƣơng hƣớng thúc đẩy việc xây dựng ngân hàng gen phục
vụ cho việc giữ gìn tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của nhân
loại. Trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới đã hình thành nhiều tổ chức quốc tế,
đảm nhận việc thu thập tập đoàn giống trên Thế giới đồng thời cung cấp nguồn
gen để cải tạo giống lúa trồng (Trần Đình Long 1992) [16].
Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) thành lập năm 1960 đến năm 1962 đã
tiến hành thu thập nguồn gen cây lúa, năm 1977 chính thức khai trƣơng ngân
hàng gen, tại đây đã thu thập tập đoàn cây lúa từ 110 quốc gia trên Thế giới
trong bộ sƣu tập có hơn 80 nghìn mẫu, trong đó có các giống lúa trồng ở Châu Á
(O. sativa) chiếm đến 95% (Gomez, KA 1995) [27].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14

Với nguồn tài nguyên phong phú, cùng với đội ngũ các nhà khoa học
giầu trí tuệ và những phƣơng tiện nghiên cứu hiện đại IRRI đã thực hiện đƣợc
vai trò trung tâm trong cuộc cách mạng xanh, đã góp phần thúc đẩy việc sản
xuất nông nghiệp của nhiều quốc gia trồng lúa ở trên Thế giới. IRRI đã có quan
hệ chính thức với Việt Nam ta từ năm 1975 trong chƣơng trình thí nghiệm
giống quốc tế trƣớc đây và hiện nay là chƣơng trình đánh giá nguồn gen cây
lúa, trong quá trình hợp tác Việt Nam đã nhập đƣợc 279 tập đoàn lúa gồm hàng
ngàn mẫu giống, mang nhiều đặc điểm sinh học tốt, chống chịu sâu bệnh và
điều kiện ngoại cảnh bất thuận nhƣ nhiệt độ, nhiễm mặn, hạn hán, úng lụt vv..
(Shen,J.H, 2000) [30].
Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã lai tạo chọn lọc hàng trăm giống lúa tốt đƣợc
gieo trồng phổ biến trên Thế giới. Các giống lúa IR8, IR5, IR6, IR30 và những giống

lúa khác đã tạo ra sự nhảy vọt về năng suất. Các viện khác nhƣ IRAT, EAT,
ICRISAT. Cũng đã chọn lọc ra nhiều những giống lúa tốt phục vụ sản xuất.
Đến nay ngƣời ta đã ứng dụng rất thành công ƣu thế lai trong sản xuất lúa.
Trong lịch sử phát triển lúa lai, Trung Quốc là nƣớc đầu tiên sử dụng thành công
ƣu thế này. Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp
lai có ƣu thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ "3
dịng" đƣợc hồn thiện và đƣa vào sản xuất năm 1975. Năm 1996, Trung Quốc
lại thành cơng với qui trình sản xuất lúa lai "2 dòng". Chiến lƣợc nghiên cứu
phát triển lúa lai của Trung Quốc trong thế kỷ XXI là phát triển lúa lai "2 dòng",
tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai “1 dòng" và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng
năng suất và sản lƣợng lúa gạo của đất nƣớc.
Ở Thái Lan, từ năm 1950 đã thu nhập và làm thuần một số giống lúa địa
phƣơng, đƣa các giống lúa cổ truyền vào trồng ở miền Nam và miền Bắc của
nƣớc này. Hiện nay nƣớc này vẫn đang nghiên cứu và sử dụng rất nhiều các
giống lúa đƣợc chọn tạo từ các giống lúa cổ truyền nên chất lƣợng lúa của Thái
Lan thƣờng đứng đầu Thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




15

Ở Nhật Bản việc tạo ra nhiều giống đã tạo đƣợc bƣớc nhảy vọt về năng
suất lúa. Các nhà khoa học Nhật Bản đã tạo đƣợc giống lúa có tên Tomoaky
Sakamoto có bộ lá cứng, tiêu tố n ít phân bón nhƣng năng suất lại có thể tăng
đến 30% so với giống cũ.
Ở Mỹ, năm 1926 J.W Jones đã bắt đầu nêu vấn đề ƣu thế lai của lúa khi
khảo sát lúa ở Đài Loan. Có hai ngƣời tham gia vào đề xuất vấn đề sản xuất lúa
lai thƣơng phẩm là Stansent va Craiglules.

Các chuyên gia nông nghiệp Đài Loan cho biết đã nghiên cứu phát triển
thành công các giống lúa mới giàu dinh dƣỡng. Các giống này không phải là
biến đổi gen và có nhiều màu sắc khác nhau nhƣ đen, đỏ và vàng mà màu sắc
phụ thuộc vào hàm lƣợng dinh dƣỡng nhƣ Beta - carotene và Anthocyanins. Một
chất chống ơxy hố. Đây là kết quả nghiên cứu gần 9 năm thí nghiệm để kết luận
đột biến trên cây lúa với việc sử dụng các tác nhân hoá học.
Một số nƣớc có tốc độ thay đổi giống lúa mới khá nhanh nhƣ Philippin
20,6%, Hàn Quốc 16,1%, Ấn Độ 13,5%, Thái Lan 6,7%. Nhu cầu ngày càng
tăng về giống lúa khơng những về số lƣợng và cịn cả về chất lƣợng.
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu giống lúa có chất lượng trên Thế giới
Trong sản xuất nông nghiệp, giống là tƣ liệu sản xuất quan trọng khơng
kém gì đất đai, phân bón và cơng cụ sản xuất. Nếu khơng có giống thì khơng thể
sản xuất ra một loại nơng sản nào cả. Vì thế việc nghiên cứu chọn lọc, lai tạo
giống đã đƣợc các nhà khoa học, các viện nghiên cứu và các trƣờng đại học nông
nghiệp ƣu tiên hàng đầu. Vào đầu những năm 1960, viện nghiên cứu lúa gạo
quốc tế (IRRI) đã đƣợc thành lập tại Losbanos, Laguna, Philippin. Sau đó các
viện nghiên cứu nơng nghiệp quốc tế khác cũng đƣợc thành lập ở các châu lục và
tiểu vùng sinh thái khác nhau nhƣ IRAT, CIAT, ICRISAT (IRRI, 1997) [28]. Tại
các viện này việc chọn lọc và lai tạo các giống lúa cũng đƣợc ƣu tiên hàng đầu.
Chỉ tính riêng viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế ( IRRI) cũng đã lai tạo và đƣa ra
sản xuất hàng nghìn giống lúa các loại, trong đó tiêu biểu là các giống lúa nhƣ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

IR5, IR6, IR8, IR30, IR34, IR64, Jasmin... Đặc biệt là hai giống IR64 và Jasmin
là những giống có phẩm chất gạo tốt, đƣợc trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế

giới, trong đó có Việt Nam. Hiện nay viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu
chọn tạo ra các giống lúa có năng suất siêu cao (siêu lúa) có thể đạt 13 tấn/ vụ,
đồng thời tập trung vào nghiên cứu chọn tạo các giống lúa có chất lƣợng cao
(giàu vitamin A, giàu Protein, giàu Lisine, có mùi thơm...) để vừa hỗ trợ các
nƣớc giải quyết vấn đề an ninh lƣơng thực, vừa đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng
cao của ngƣời tiêu dùng (Cada, E.C, 1997) [22].
Trung Quốc là một nƣớc trồng lúa hàng đầu trên thế giới nên công tác
giống đã đƣợc chú trọng đặc biệt. Vào những năm 1960, 1970 của thế kỷ trƣớc,
Trung Quốc đã cho ra đời hàng loạt các giống lúa có năng suất cao, phẩm chất
tốt nhƣ: Đoàn kết, Bao Thai, Chân Châu lùn, Mộc Tuyền.... Các giống này cũng
đã nhập vào Việt Nam và cho tới nay nhiều giống vẫn đƣợc một số địa phƣơng
gieo trồng vì chất lƣợng gạo tốt, phù hợp với điều kiện gieo trồng và đất đai của
địa phƣơng. Bƣớc vào đầu những năm 1970, Trung Quốc đã thử nghiệm và lai
tạo thành công các giống lúa lai 3 dòng và gần đây là các giống lúa lai 2 dịng có
đặc tính ƣu việt hơn hẳn về năng suất, chất lƣợng và khả năng chống chịu sâu,
bệnh. Có thể nói Trung Quốc là nƣớc đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và
ứng dụng lúa lai ra sản xuất đại trà. Nhờ đó đã làm tăng năng suất, sản lƣợng lúa
của Trung Quốc lên gấp đơi trong vịng 3 thập kỷ qua, góp phần đảm bảo an ninh
lƣơng thực cho một nƣớc có hơn 1,3 tỷ dân. Các giống lúa lai có chất lƣợng nhƣ:
Bồi Tạp Sơn Thanh, Nghi Hƣơng 2308, Xuyên Hƣơng, Sán Ƣu Quế, Bắc Thơm
số 7 rất nổi tiếng ở Trung Quốc và ở các nƣớc láng giềng (Lin, SC 2001) [25].
Ấn Độ là một nƣớc trồng lúa với diện tích đứng đầu Thế giới. Và cũng là
một nƣớc đi đầu trong công cuộc cách mạng xanh về cải tiến giống lúa. Viện
nghiên cứu giống lúa Trung ƣơng của Ấn Độ đƣợc thành lập vào năm 1946 tại
Cuttuck bang Orisa đóng vai trị đầu tầu trong việc nghiên cứu, lai tạo các giống
lúa mới phục vụ cho sản xuất. Ngoài ra tại các bang của Ấn Độ đều có các cơ sở
nghiên cứu, trong đó các cơ sở quan trọng ở Madras heydrabat, Kerala, hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





17

Viện Nghiên cứu cây trồng cạn Á nhiệt đới (ICRISAT). Ấn Độ cũng là nƣớc có
những giống lúa chất lƣợng cao nổi tiếng trên thế giới nhƣ: Basmati, Brimphun
trong đó giống lúa Basmati có giá trị trên thị trƣờng tới 850 USD/ tấn, trong khi
giống gạo thơm Thái Lan nổi tiếng trên Thế giới cũng chỉ có giá trị 460 USD/tấn
(ICARD, 2003) [8]. Một trong những giống lúa chất lƣợng cao do các nhà khoa
học chọn tạo thành công đƣợc nhập về Việt Nam là giống BTE-1, giống này đã
đƣợc Bộ Nông nghiệp & PTNT Việt Nam công nhận năm 2007.
Nhật Bản là một trong 10 nƣớc trồng lúa có sản lƣợng hàng đầu thế giới,
tuy diện tích trồng lúa khơng lớn. Điều đó đƣợc lý giải là do năng suất lúa của
Nhật Bản cao nhất Thế giới. Ở Nhật Bản ngƣời ta chỉ trồng lúa 1 vụ/ năm, việc
gieo trồng lúa đƣợc tiến hành trong những điều kiện thời tiết thuận lợi nhất.
Công tác nghiên cứu và sản xuất giống lúa của Nhật Bản đƣợc đặc biệt chú trọng
vì ngƣời Nhật Bản giàu có, ít ăn cơm nên địi hỏi cơm phải ngon cịn giá bán có
cao thì họ vẫn chấp nhận. Thực tế giá gạo tại Nhật Bản vào loại cao nhất thế giới
từ 5 - 10 USD/kg. Để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng cao, các Viện và các Trạm
nghiên cứu giống lúa đƣợc thành lập ở hầu hết các tỉnh thành của Nhật Bản,
trong đó có các trung tâm quan trọng nhất đặt ở Sendai, Niigata, Nagoya,
Fukuoka, Kochi, Miyazaki, Sags,... là những nơi diện tích trồng lúa lớn. Các nhà
khoa học Nhật Bản cũng đã lai tạo và đƣa ra các giống lúa vừa có năng suất cao,
vừa có phẩm chất tốt nhƣ: Koshihikari, Sasanisiki, Nipponbare, Koenshu,
Minamisiki... đặc biệt Giáo Sƣ Tiến Sĩ E. Tsuzuki đã lai tạo đƣợc 2 giống lúa đặt
tên là Miyazaki 1 và Miyazaki 2. Giống Miyazaki 1 là kết quả lai tạo và chọn
lọc từ tổ hợp lai Koshihikari và Brimphun của Ấn Độ. Đây là giống lúa có mùi
thơm đặc biệt, chất lƣợng gạo ngon và năng suất cao, có giá trị bán cao trên thị
trƣờng. Giống Migazaki 2 là kết quả lai tạo giống Nipponbare và một giống lúa
khác của Ấn Độ, giống này có hàm lƣợng Lysin cũng rất cao (Nguyễn Hữu

Hồng, 1993) [14].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




18

Thái Lan là nƣớc xuất khẩu gạo hàng đầu Thế giới. Nƣớc này cũng đƣợc
thiên nhiên ƣu đãi với những vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu. Các trung tâm
nghiên cứu giống lúa đƣợc thành lập ở nhiều tỉnh và khu vực. Nhiệm vụ của các cơ
sở này là tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo ra các giống lúa tốt phục vụ cho nội
tiêu và đặc biệt là cho xuất khẩu để thu ngoại tệ. Tiêu chí chọn giống lúa của các
nhà khoa học Thái Lan là các giống phải có thời gian sinh trƣởng trung bình đến dài
ngày (vì phần lớn lúa ở Thái Lan chỉ trồng đƣợc 1 vụ/năm) hạt gạo dài và trong, ít
dập gãy khi xay sát, có hƣơng thơm, coi trọng chất lƣợng hơn là năng suất... điều
này cho chúng ta thấy tại sao giá gạo xuất khẩu của Thái Lan luôn cao hơn của Việt
Nam. Theo hƣớng này Thái Lan đã tạo ra các giống lúa chất lƣợng nổi tiếng Thế
giới, trong đó phải kể đến các giống nhƣ: Khao đomali, Jasmin (Hƣơng nhài). Các
giống này cũng đƣợc gieo trồng ở Việt Nam và một số nƣớc khác.
Ở khu vực Đông Á cịn có các nƣớc trồng lúa quan trọng khác nhƣ: Hàn Quốc,
Bắc Triều Tiên, Đài Loan. Các giống lúa ở đây thuộc loại hình Japonica, có hạt gạo
trịn, cơm dẻo và chất lƣợng cũng rất tốt. Các giống lúa nổi tiếng của khu vực này là
Tongil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang changi, Đee - Geo-Woo-Gen
(Đài Loan)... đặc biệt giống Đee - Geo-Woo-Gen là một trong những vật liệu khởi
đầu để tạo ra giống IR8 nổi tiếng một thời (Hoang, CH, 1999) [23].
Indonesia là nƣớc đứng thứ 4 trên thế giới về diện tích trồng lúa. Đây cũng
là nƣớc có rất nhiều giống lúa chất lƣợng cao, có nguồn gốc bản địa hoặc đƣợc
lai tạo tại các cơ sở nghiên cứu. Các giống lúa chất lƣợng cao của Indonesia

thƣờng dẻo, có mùi thơm. Các giống lúa chất lƣợng nổi tiếng của nƣớc này là
Peta, BenWan, Sigadis, Synthe, Pelita1-1 và Pelita1-2 (IRRI,... 1997) [28].
1.3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ NGHIÊN CỨU LÚA Ở TRONG
NƢỚC NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU TIÊU DÙNG VÀ XUẤT KHẨU.
1.3.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa trong nƣớc.
Nƣớc ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lƣợng bức xạ mặt trời
cao và đất đai phù hợp nên có thể trồng đƣợc nhiều vụ lúa trong năm và với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




19

nhiều giống lúa khác nhau. Sản xuất lúa gắn liền với sự phát triển nông nghiệp,
theo tài liệu khảo cổ học cho thấy lúa đƣợc trồng ở nƣớc ta cách đây 3.000 2.000 năm trƣớc Công nguyên.
Hiện nay, Việt nam là một nƣớc trồng lúa trọng điểm trên Thế giới, ngƣời
Việt Nam vẫn thƣờng tự hào về nền văn minh lúa nƣớc của đất nƣớc mình. Từ xa
xƣa cây lúa đã trở thành cây lƣơng thực chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống của ngƣời dân Việt Nam (Bùi Huy Đáp, 1999) [11]. Suốt từ Bắc đến Nam,
đâu đâu cũng thấy ngƣời dân trồng lúa, song diện tích tập trung chủ yếu ở hai
vùng châu thổ lớn đó là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.
Q trình khai hoang phục hố cùng với việc thâm canh tăng vụ đã đƣa tổng diện
tích lúa thu hoạch của nƣớc ta từ 4,74 triệu ha năm 1961 lên 7,67 triệu ha năm
2000, sau đó giảm dần xuống cịn 7,34 triệu ha vào năm 2003 (Nguyễn Thị Lẫm
và cộng sự 2003)[15]. Cùng thời gian đó năng suất và sản lƣợng lúa cũng tăng lên
rõ rệt nhờ vào công cuộc cải cách về giống lúa và ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật về phân bón, tƣới tiêu, phịng trừ sâu bệnh một cánh hợp lý, đồng bộ.
Tính từ năm 1961 đến năm 2005, năng suất lúa của nƣớc ta đã tăng lên 2,8 lần.
Giai đoạn tăng cao nhất là từ thập kỷ 80 đến nay. Điều này gắn liền với các tiến bộ

mới trong thâm canh tăng năng suất lúa đƣợc ứng dụng rộng rãi, trong thời gian
này và điều quan trọng hơn là việc chuyển đổi cơ chế quản lý đất đai, từ cơ chế
hợp tác sang tƣ nhân hố (khốn 10), lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ đã
khuyến khích ngƣời dân đầu tƣ, thâm canh sản xuất lúa. Sản lƣợng lúa của Việt
Nam cũng vì thế mà tăng liên tục từ 9,0 triệu tấn năm 1961 lên 35,9 triệu tấn năm
2007 (biểu 1.3). Từ một nƣớc thiếu ăn, phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn gạo/năm
trƣớc đây, Việt Nam đã vƣơn lên giải quyết an ninh lƣơng thực cho 83 triệu dân,
ngồi ra cịn xuất khẩu một lƣợng gạo lớn ra thị trƣờng Thế giới. Những năm gần
đây, nƣớc ta luôn đứng hàng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan) về lƣợng gạo xuất
khẩu (đạt 5,25 triệu tấn năm 2005) và sẽ ổn định vào những năm tiếp theo. Đây là
thành công lớn trong công tác chỉ đạo và phát triển sản xuất lúa của Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20

Biểu 1.3. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam
giai đoạn từ năm 1961 đến năm 2007
Năm

Diện tích
( triệu ha)

Năng suất
( tạ/ha)

Sản lƣợng
(triệu tấn)


1961

4,74

19,0

9,00

1970

4,72

21,5

10,17

1980

5,60

20,8

11,65

1990

6,04

31,81


19,2

1991

6,30

31,13

19,6

1992

6,48

33,34

21,6

1993

6,56

34,81

22,8

1994

6,60


35,66

23,5

1995

6,77

36,90

25,0

1996

7,00

37,69

26,4

1997

7,10

38,77

27,5

1998


7,36

39,59

29,1

1999

7,65

41,02

31,4

2000

7,67

42,43

32,5

2001

7,49

42,85

32,1


2002

7,50

45,90

34,4

2003

7,45

46,39

34,6

2004

7,45

48,55

36,1

2005

7,33

48,89


35,8

2006

7,32

48,94

35,8

2007

7,20
49,81
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2008) [5]

35,9

Nhìn chung ngành sản xuất lúa của nƣớc ta đến nay đã đạt đƣợc nhiều
thành tựu quan trọng. Tuy nhiên một điều đáng chú ý là trong những năm gần
đây, ngƣợc lại với quá trình khai hoang phục hố trong mấy thập kỷ trƣớc thì
q trình đơ thị hố, cơng nghiệp hố đã và đang làm giảm đáng kể diện tích đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21


nơng nghiệp nói chung và dành cho sản xuất nói riêng. Vì thế mặc dù việc thâm
canh tăng vụ rất đƣợc chú trọng, song tổng diện tích lúa thu hoạch hàng năm
trong khoảng thời gian từ 2001 - 2007 đang giảm dần.
Ngoài ra nếu so sánh với các nƣớc trồng lúa tiên tiến nhƣ Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan...thì năng suất lúa của Việt Nam vẫn cịn kém xa (Itoh
và cộng sự, 2000) [29]. Vì thế để đảm bảo an ninh lƣơng thực cho một quốc gia
đông dân cƣ nhƣ nƣớc ta và giữ vững vị thế là một nƣớc xuất khẩu lúa gạo hàng
đầu Thế giới thì điều kiện cần thiết là phải tiếp tục đầu tƣ thâm canh tăng vụ, lai
tạo và nhập khẩu các giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu tốt
với sâu, bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi. Để nâng cao giá trị xuất khẩu, Nhà
nƣớc Việt Nam cũng đã có chiến lƣợc phát triển 1 triệu ha lúa chất lƣợng cao phục
vụ cho công tác xuất khẩu (Báo Nhân Dân ngày 02/06/2004) [2].
Trƣớc đây chúng ta mới chú trọng về số lƣợng nhằm nhanh chóng giải
quyết sự thiếu hụt về lƣơng thực. Tuy nhiên khi chúng ta cơ bản đã giải quyết
vấn đề an ninh lƣơng thực và có dƣ thừa xuất khẩu với số lƣợng lớn trong 18
năm liên tục (tính đến năm 2007). Thị trƣờng xuất khẩu gạo mở rộng do Việt
Nam là thành viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) và uy tín lúa gạo
Việt Nam trên thị trƣờng Thế giới đƣợc cải thiện. Quá trình hội nhập sâu vào
kinh tế Thế giới và khu vực, bên cạnh thách thức, lúa gạo Việt Nam cũng có
nhiều cơ hội để mở rộng thị trƣờng xuất khẩu. Trong khi đó nhu cầu gạo trên thị
trƣờng Thế giới và khu vực 5 năm tới dự báo vẫn tiếp tục sôi động do cầu vẫn
tăng. Việt Nam và các nƣớc nhƣ Indonesia, philippin, Nhật Bản đã có sự phối
hợp trong các hoạt động xuất khẩu gạo giữa các nƣớc trên thị trƣờng Thế giới.
Điều kiện cơ bản của sản xuất lúa đến năm 2010 của Việt Nam là: Đất,
nƣớc, phân bón, giống, khoa học cơng nghệ, thị trƣờng tiêu thụ gạo khá đảm
bảo. Sản lƣợng phân bón sản xuất trong nƣớc đang tăng dần do các nhà máy sản
xuất phân đạm Phú Mỹ đã đi vào hoạt động, cơng trình khí-điện-đạm Cà Mau đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





22

vào hoạt động cùng với các nhà máy phân lân, supe phôt phát tăng công suất
đảm bảo ổn định nguồn cung cấp trong nƣớc; ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa
học kỹ thuật, nhất là giống mới vào sản xuất để thực hiện các biện pháp thâm
canh lúa nhằm tăng năng suất và chất lƣợng, giảm chi phí trung gian, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo trên thị trƣờng; Tổ chức quản lý nông nghiệp
không ngừng đổi mới và hồn thiện theo hƣớng phát huy vai trị tự chủ của kinh
tế hộ nông dân, tăng cƣờng sự hỗ trợ của nhà nƣớc, phù hợp với yêu cầu sản xuất
hàng hoá gắn với xuất khẩu gạo trong thời kỳ hội nhập; Quá trình hội nhập sâu
vào kinh tế thế giới và khu vực, bên cạnh thách thức, lúa gạo Việt Nam cũng có
nhiều cơ hội để mở rộng thị trƣờng xuất khẩu. Trong khi đó nhu cầu gạo trên thị
trƣờng và khu vực 5 năm tới dự báo vẫn tiếp tục sôi động do cầu vẫn tăng.
Những năm gần đây, Hiệp hội xuất khẩu gạo Thái Lan và Việt Nam đã có sự phối
hợp trong các hoạt động xuất khẩu gạo giữa 2 nƣớc trên thị trƣờng Thế giới và khu
vực, cũng tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi nƣớc.
Thách thức với Việt Nam là thành viên của WTO nên thị trƣờng nơng sản
nói chung, thị trƣờng lúa gạo Việt Nam nói riêng sẽ mở rộng cửa cho hàng nhập
khẩu từ các nƣớc. Hàng rào thuế quan và sự bảo hộ của Nhà nƣớc đối với sản
xuất và xuất khẩu gạo sẽ dần hạn chế và tiến tới bãi bỏ. Gạo Thái Lan, Mỹ,
Trung Quốc, Pakistan… và các nƣớc khác có chất lƣợng cao, giá rẻ hơn sẽ tràn
vào thị trƣờng Việt Nam với thuế nhập khẩu không đáng kể (94% hàng hoá Mỹ
nhập vào Việt Nam hƣởng thuế suất 15%, trong đó hàng lƣơng thực gạo, ngơ
khơng đáng kể). Do đó lúa gạo Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt
ngay trên sân nhà, trong khi đó cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, chế biến
gạo của ta còn lạc hậu.
Dân số Việt Nam vẫn tăng nhanh, trong khi quỹ đất dành cho trồng lúa có
hạn, năng suất lúa nhiều vùng, nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng, đã chạm trần

nên khả năng tăng năng suất là khó khăn. Trong khi đó tập quán sản xuất nhỏ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




23

quy mơ gia đình, tự cung tự cấp, chạy theo năng suất, xem nhẹ chất lƣợng gạo
vẫn phổ biến trong hầu hết các hộ trồng lúa của các vùng, trình độ dân trí, khoa
học cơng nghệ, kiến thức thị trƣờng của nơng dân trồng lúa vẫn cịn thấp.
Do diện tích đất lúa giảm nên diện tích gieo trồng lúa liên tục giảm từ năm
2001 đến nay: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích gieo trồng lúa cả năm
2007 đạt 7,2 triệu ha, so với năm 2000 giảm 466 nghìn ha, bình quân giảm 66,6
nghìn ha (0,81%)/năm. Diện tích gieo trồng lúa giảm nhiều từ năm 2003 trở lại đây,
bình quân giai đoạn từ 2003-2007 đạt 7,367 triệu ha, giảm 88 nghìn ha so với giai
đoạn 1997-2001 (1,1%); Các vùng có diện tích gieo trồng lúa giảm nhiều là vùng
Đơng Nam Bộ giảm 42 nghìn ha (9,2%), Dun Hải Nam trung bộ giảm 33,6 nghìn
ha (7,9%), Đồng bằng Sơng Hồng giảm 51 nghìn ha (4,2%), Đồng bằng Sơng Cửu
Long giảm 52 nghìn ha (0,2%). Trong khi đó các vùng Đơng Bắc, Tây Bắc và Tây
Ngun diện tích gieo trồng lúa tăng từ 11 đến 27% do tăng cƣờng thủy lợi. Tính
trên diện tích gieo trồng lúa giảm từ 2001- 2007, đã làm giảm sản lƣợng lúa mỗi
năm khoảng trên 300 nghìn tấn lúa, riêng từ năm 2003 trở lại đây mỗi năm làm
giảm khoảng 416 nghìn tấn lúa.
Vì thế chiến lƣợc sản xuất lúa của Việt Nam trong thời gian tới là: Phấn đấu
đạt và duy trì sản lƣợng lúa hàng năm là 40 triệu tấn/năm, đẩy mạnh sản xuất các
giống lúa có chất lƣợng cao, dành 1 triệu ha để sản xuất lúa phục vụ mục tiêu xuất
khẩu, duy trì sản lƣợng gạo xuất khẩu hàng năm từ 4-5 triệu tấn. Để đạt mục tiêu
này một mặt chúng ta phải đẩy mạnh đầu tƣ (phân bón, thuốc trừ cỏ, thuốc trừ sâu,
bệnh, thuỷ lợi, cơ giới hoá…) chuyển đổi cơ cấu giống theo hƣớng năng suất cao,

chất lƣợng tốt, chống chịu với các loại sâu, bệnh hại chính. Nhƣ vậy việc nghiên
cứu, chọn lọc, lai tạo và nhập khẩu các loại giống lúa có chất lƣợng cao phục vụ cho
yêu cầu của sản xuất là một nhiệm vụ sống cịn và phải đặt thành chƣơng trình cấp
quốc gia và phải huy động cả "4 nhà" (Nhà nƣớc, nhà Khoa học, nhà Nông và nhà
Doanh nghiệp) cùng tham gia thì mới hy vọng đạt kết quả nhƣ mong muốn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×