Tải bản đầy đủ (.ppt) (46 trang)

benh lao va nhung dieu can biet ve benh lao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 46 trang )


Bệnh Lao và những
điều cần biết về căn
bệnh này


Năm 1819, một người Pháp tên là René Laennec (1781-
1826) phát minh ra ống nghe, đăng lần đầu tiên trên báo
chuyên luận về ống nghe bệnh. Ông áp dụng phương
pháp của mình cho căn bịnh đang gặm mòn ông để rồi 7
năm sau ông mất, lúc 45 tuổi: đó là bệnh lao. Bịnh này do
ông lỡ cắt trúng tay khi giải phẫu tử thi người chết vì bịnh
lao để khám nghiệm.

Bệnh lao được biết từ thời thượng cổ, có tên là "phtisie"
(tiếng Hy Lạp phtio nghĩa là "tôi giết"). Bệnh nổ ra tại Anh
quốc giữa thế kỷ thứ 18, rồi lan tràn khắp Âu châu. Đó là
căn bệnh nghiêm trọng nhất của thế kỷ 19 đã ám ảnh các
nhà văn và y sĩ. Bệnh này thường thấy ở thanh niên, làm
họ chết sau 18 tháng đến 2 năm. Sự tác hại của nó rất
lớn: mặc dù điều kiện sống có tốt hơn nghĩa là con người
có sức chống bệnh cao hơn, nhưng năm 1900 nó là
nguyên nhân của 12% số người chết ở nước Pháp


Cho dù bệnh lao có thể tấn công tất cả mọi cơ quan, từ
màng não cho tới ruột non đi qua xương, thận, tử cung,
thì bệnh lao phổi chiếm đến 80%. Laennec đã chứng
minh tính riêng biệt của bệnh ở những giai đoạn khác
nhau và phân biệt dạng lao phổi khác với những sự
nhiễm trùng phổi khác.



Những tác giả ở thế kỷ thứ 19 đã diễn tả chu kỳ của bệnh
này: bệnh nhân ốm yếu dần, thỉnh thoảng ho khan, khạc
đờm, đổ mồ hôi rất nhiều về đêm, cảm thấy đau giữa vai
và lồng ngực, rối loạn tiêu hóa và thân nhiệt lên ban đêm.
Khi khám phổi, y sĩ nghe thấy tiếng khô và ráp, tiếng ran
nổ nhẹ, tiếng rắc. Vài tháng sau, bắt đầu ho thường
xuyên và đau. Đờm màu xanh với những mảnh đặc
trắng. Bệnh nhân ói mửa, ăn mất ngon, sốt. Tiêu chảy
làm bệnh nhân càng yếu hơn. Ống nghe bệnh bằng một
dụng cụ quí báu mới phát minh, nghe phổi truyền tiếng
òng ọc như từ "bình bị rạn nứt" hay tiếng ồ ồ từ "đáy
hang" (theo lời của Laennec).


Trong pha đầu, khi khám nghiệm tử thi,
ông thấy thấy những hột nửa trong nửa
đục nhỏ bằng hột kê cho tới lớn bằng hột
đậu tràn lan trong phổi. Sau đó những hột
nào trở thành mềm thì đổi ra màu trăng
trắng, như "một viên phó mát bị ngón tay
đè nát". Chính thứ này bắt bệnh nhân
khạc một cách khó nhọc. Bên cạnh các
hột này là những lỗ hổng lớn cỡ hột hạnh
nhân có khi to bằng nắm tay có chứa hoặc
không chứa một chất lỏng. Phổi bị tàn
phá, không thể chứa đầy không khí.


Trong suốt một thế kỷ, gánh nặng này qui tụ quanh nó

nhiều ảo giác. Vào năm 1840, đó là căn bệnh lãng mạn,
yếu ớt nhưng tỉnh táo. Sau đó đến triều đại Napoléon,
người ta tưởng rằng đó là bệnh của những tinh hoa, từ
Aiglon, con trai của Napoléon đệ nhất cho tới Chopin và
nhất là bệnh của bà Beaumont do Chateaubriand miêu tả
cho tới bà Marie Duplessis, mẫu đàn bà Trà hoa nữ
(Dame aux Camélias) của Alexandre Dumas fils (1824-
1895) và Traviata của Juiseppe Verdi (1813-1901).

Vào cuối thế kỷ thì họ khám phá ra rằng chính những
người nghèo mới bị lao nhiều nhất. Những nhà đạo đức
học cho rằng bệnh này xảy ra cho những người nghiện
rượu hoặc có cuộc sống thác loạn. Họ cho rằng thành
phố là nơi gom tụ những sự xấu xa nên đã sinh ra căn
bệnh ác hại này. Nhưng nó không chừa ngay cả tận cùng
thôn quê.

Từ năm 1865 người ta mới biết bệnh lao truyền nhiễm.
Giới trưởng giả hốt hoảng, đuổi ngay người hầu khi thấy
họ bắt đầu ho.


Các nghiệp đoàn khám phá rằng gánh nặng này
do cảnh nghèo và sự bóc lột: năm 1901,
Ferdinand Pelloutier nhấn mạnh là bệnh phtisie
giết gấp 4 lần những người ở quận 15, lúc đó là
quận nghèo, hơn là khu Opéra...

Con đường dài dẫn tới thuốc trị


Mặc dù có những tiến bộ thực tiễn về hiểu biết
ăn bệnh, nhưng các y sĩ vẫn chưa có khí giới.
Để chữa trị , họ chữa trị người giàu có bằng
cách khuyên họ ăn uống tẩm bổ, nghỉ ngơi, hít
thở gió biển, tới Madère, Naples hay đến miền
Nam nước Pháp.


Đến giữa thế kỷ, Hermann Brehmer và Peter
Dettweiler chế ra sanatorium, kéo người bệnh
ra khỏi thế giới trong kéo dài cho tới hàng năm
và gây cảm hứng sáng tác văn chương nơi đó
có quyển tiểu thuyết của Thomas Mann La
montagne magique (Núi thần diệu).

Năm 1884, hy vọng lớn lao đã đến khi nhà khoa
học Đức Robert Koch (1843-1910) khám phá ra
trực khuẩn bệnh lao. Tuy nhiên phải đợi dến
năm 1921 hai nhà bác học Albert Calmette
(1863-1933) và Camille Guérin (1872-1961) cô
lập được trực khuẩn vô hại, nghĩa là sự chủng
ngừa, thuốc chủng B.C.G. (Baccillus Calmette
Guérin)


Lúc đầu người ta chỉ chủng ngừa bịnh, sau đó
phổ biến rộng rãi và cuối cùng hầu hết một nước
đều bắt buộc phải chủng ngừa bệnh lao. Tuy
nhiên những người đã bịnh vẫn chưa có thuốc
chữa cho đến thời kỳ Thế giới Chiến tranh lần

thứ Hai, các loại thuốc trị được chế tạo có hiệu
nghiệm như streptomycine, isoniazide hay
rimifon.

Trong những năm 50, bệnh lao đã được đẩy lùi
trong những nước kỹ nghệ hóa. Các nhà điều
dưỡng vắng dần. Con người đã quên đi sự sợ
hãi khi nghe tên bệnh. Tuy nhiên bệnh lao vẫn
tiếp tục hoành hành nhất là tại các nước thuộc
thế giới thứ ba mà mỗi năm giết khoảng 2-3 triệu
người.


Lao là tình trạng nhiễm vi khuẩn Mycobacterium
tuberculosis, thường gặp nhất ở phổi nhưng cũng có thể
ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (lao màng não),
hệ bạch huyết, hệ tuần hoàn (lao kê), hệ niệu dục, xương
và khớp.

Hiện nay lao là bệnh nhiễm khuẩn chính và thường gặp
nhất, ảnh hưởng đến 2 tỉ người tức 1/3 dân số, với 9 triệu
ca mới mỗi năm, gây 2 triệu người tử vong, hầu hết ở các
nước đang phát triển.

Hầu hết (90%) các trường hợp nhiễm khuẩn lao là tiềm
ẩn không triệu chứng. 10% những người này trong cuộc
đời họ sẽ tiến triển thành bệnh lao có triệu chứng, và nếu
không điều trị, nó sẽ giết 50% số nạn nhân. Lao là một
trong 3 bệnh truyền nhiễm gây tử vong cao nhất trên thế
giới: HIV/AIDS giết 3 triệu người mỗi năm, lao giết 2 triệu,

và sốt rét giết 1 triệu.


Sự sao lãng trong các chương trình kiểm soát lao, sự
bùng phát của đại dịch HIV/AIDS và việc di dân đã khiến
lao trỗi dậy. Các chủng lao kháng đa thuốc (MDR,
multiple drug resistant) đang tăng. Năm 1993,
Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố tình trạng khẩn cấp toàn
cầu đối với lao.


Vi khuẩn

Tác nhân gây bệnh lao, Mycobacterium tuberculosis
(MTB), là vi khuẩn hiếu khí. Vi khuẩn này phân chia mỗi
16 đến 20 giờ, rất chậm so với thời gian phân chia tính
bằng phút của các vi khuẩn khác (trong số các vi khuẩn
phân chia nhanh nhất là một chủng E. coli, có thể phân
chia mỗi 20 phút). MTB không được phân loại
Gram dương hay Gram âm vì chúng không có đặc tính
hoá học này, mặc dù thành tế bào có chứa peptidoglycan.
Trên mẫu nhuộm Gram, nó nhuộm Gram dương rất yếu
hoặc là không biểu hiện gì cả. Trực khuẩn lao có hình
dạng giống que nhỏ, có thể chịu đựng được
chất sát khuẩn yếu và sống sót trong trạng thái khô trong
nhiều tuần nhưng, trong điều kiện tự nhiên, chỉ có thể
phát triển trong sinh vật ký chủ (cấy M. tuberculosis in
vitro cần thời gian dài để lấy có kết quả, nhưng ngày nay
là công việc bình thường ở phòng xét nghiệm).




×