Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bảy kỳ quan thế giới cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.99 KB, 9 trang )

Hải đăng Alêchxanđri

Bài 1

Tháp đèn biển được xây dựng xong năm 285 tr.CN trên đảo Pharôt
(Pharos) ở Alêchxanđri (Alexandrie) – thành phố cảng đầu tiên của Ai Cập,
trên đường biển qua lại của tàu thuyền người Phênixi (Phénicie) đi từ Tyrơ
(Tyr) và từ Xyđông (Sydon) về hướng bờ biển Châu Phi; tác giả là kiến trúc
sư người Hi Lạp Xôxtơratut ở Xniđut (Sostratus of Cnidus). Đó là một tháp
ba tầng, cao 130 m. Tầng dưới là một toà nhà, mỗi chiều dài 30 m xây
bằng những viên đá vôi lớn. Tầng hai xây theo kiểu lầu bát giác bằng đá
hoa cương. Tầng ba dặt ngọn đèn hình trụ có vòm che. Trên nóc vòm là
tượng thần biển Pôxâyđông (Poséidon) bằng đồng cao 7 m, vòm có những
cột đá hoa cương đỡ, không có tường bao quanh để ánh sáng của đèn
chiếu khắp nơi nhờ một hệ thống mặt gương bằng kim khí phản chiếu, vì
thế ở cách xa 60 km người đi biển vẫn trông thấy. Năm 1302, do động đất, Hải đăng Alêchxanđri đã bị sập
đổ. Tên đảo Pharôt, nơi đặt ngọn hải đăng đầu tiên của nhân loại, đã trở thành một danh từ chung trong một
số ngôn ngữ ở Châu Âu (như Ph. Phare, N. fara: đèn chiếu).

(Theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”, tập 2, xuất bản năm 2002, và “Grand dictionnaire encyclopédique
Larousse”).

Bài 2

Trong 7 kỳ quan cổ đại có một kỳ quan không chỉ mang giá trị nghệ thuật
mà còn có giá trị sử dụng hữu ích. Ðó là ngọn hải đăng khổng lồ Alexandria
được dựng trên đảo Pharos cổ xưa thuộc vùng Naukratis, nay là một đồi đất
nhô ra biển của cảng Alexandria. Ðối với người thủy thủ ngọn hải đăng này
tượng trưng cho sự bình yên khi họ ra khơi. Ðối với các nhà kiến trúc, nó
còn mang nhiều ý nghĩa quan trọng nhất là thời bấy giờ nó là ngôi nhà cao
nhất trên hành tinh. Về khoa học, chính chiếc gương thần bí của ngọn hải


đăng luôn luôn cuốn hút sự suy nghĩ của những người thích tìm hiểu, bởi độ
phản chiếu của chiếc gương này phát ra rất xa, cách nó trên 50km ở ngoài
khơi vẫn thấy được ánh đèn.

Ngọn hải đăng này do vua Ptolemy Soter khởi dựng vào năm 290 trước CN, do kiến trúc sư Sotratus thiết kế
xây dựng và được hoàn thành trong thời kỳ trị vì của vua Ptolemy Philadelphus.Trong nhiều thế kỷ, ngọn hải
đăng Alexandria có khi còn được gọi là Pharos, dùng để cho tàu biển ra vào cảng. Nó được đốt lửa vào ban
đêm, còn ban ngày nó phản xạ ánh nắng mật trời.

Năm 965 sau CN một trận động đất xảy ra ở Alexandria khiến nó bị hư hại. Tiếp đó là 2 trận động đất năm
1302 và 1323 đã làm cho công trình này bị hư hỏng nặng và đổ nát. Theo sử sách ghi chép lại thì lớp ngoài
của ngọn hải đăng xây bằng đà cẳm trắng. Trong tập ghi chép của học giả A rập ông Abou Haggay Al
Andaloussi khi đến thăm ngọn hải đăng năm 1166, thì nó gồm 3 tầng. Tầng dưới cùng có dạng hình vuông,
cao 55,9m và có một cột lõi hình trụ tròn. Tầng giữa có hình bát giác với chiều dài mỗi cạnh là 18,30m, cao
27,45m. Chiều cao tính từ nền móng lên đỉnh đo được 117m. Lõi hình trụ tròn bên trong dùng làm ống dẫn
nhiên cho việc đốt lửa. Ở đỉnh tháp đặt chiếc gương phản chiếu ánh sáng.

Năm 1480 dưới thời Sultan Mamellouk, ông đã cho xây trên khu đất trước đây của ngọn hải đăng đổ nát này
một pháo đài quân sự. Ðến đây lịch sử ngọn hải đăng khổng lồ vĩnh viễn khép lại, mặc dù không còn tồn tại
nhưng nó có tác động đến nhiều lãnh vực. Trong kiến trúc ngọn hải đăng Alexandria được xem là một kiểu
mẫu để tạo dựng nhiều phiên bản khác dọc theo vùng Ðịa Trung Hải thời bấy giờ. Ngọn hải đăng Alexandria
được xếp vào kỳ quan cuối cùng trong 7 kỳ quan cổ đại của thế giới đã biến khỏi mặt đất.

Kim tự tháp Kêôp

Bài 1

Kim tự tháp là công trình có hình chóp, đáy vuông, thường là lăng mộ của các vua Ai Cập cổ đại. Có ba kim
tự tháp lớn: Kêôp (khéops hoặc Chéops), Kêphren (Khéphren) và Mykêrinôt (Mykérynos). Các kim tự tháp
được xây bằng những phiến đá lớn, mỗi tháp gồm hàng triệu phiến trung bình nặng 2,5 tấn… Kích thước

của tháp chứa nhiều phép tính kì diệu: lấy chu vi đáy chia cho hai lần chiều cao của tháp sẽ được số P =
3,14; chiều cao của tháp đúng bằng bán kính của hình tròn có chu vi bằng chu vi của đáy tháp, vv... Trong
lòng tháp có phòng đặt quan tài chứa xác ướp của vua Ai Cập. Phòng có kích thước 10,47 x 5,23 m, thông
với bên ngoài bằng một đường hầm rất hẹp (cao 1 m, ngang 1,05 m) và cửa ở lưng chừng tháp tại độ cao
17,42 m.

Kim tự tháp Kêôp là kim tự tháp lớn nhất trong số kim tự tháp, được xây dựng trên cao nguyên Ghizê
(Gizeh; Ai Cập). Tháp cao 146,60 m (nay chỉ còn khoảng 137 m), mỗi cạnh đáy dài 231 m, được xây dựng
trong 40 năm, gồm 2, 3 triệu phiến đá lớn (mỗi phiến trung bình nặng 2, 5 tấn, những phiến ở đáy nặng 55
tấn), được mài nhẵn và xếp chồng khít lên nhau. Trong kim tự tháp có nhiều phòng, hầm và hành lang kiên
cố. Hiện nay, thi hài Kêôp không còn.

Kêôp là vua Ai Cập cổ đại, con trai của Xnêfru (Snefrou; vua Ai Cập), pharaông thứ hai của triều đại thứ tư
thời Cổ vương quốc (khoảng năm 2600 tCn.). Ông nổi tiếng là do đã chủ trì việc xây dựng kim tự tháp Kêôp
làm lăng mộ của mình.

Theo nguồn thông tin ít ỏi liên quan đến Ai Cập cổ đại, Kêôp đã xây dựng được một vương quốc hùng mạnh
của giới tăng lữ trong thời đại mà Hêliôpôlit (Héliopolis – một trung tâm tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời) bắt
đầu đóng vai trò là một thủ đô tôn giáo, bên cạnh Memphit (Memphis) là một thủ đô chính trị.

(Theo “Từ điển bách khoa Việt Nam” tập 2, xuất bản năm 2002 và “Grand dictionnaire encyclopédique
Larousse”).

Bài 2

Man fears Time, yet Time fears the Pyramids (ngạn ngữ Ả rập)

Khu mộ cổ Gizah thuộc quần thể di tích Memphis - cố đô của nước Ai Cập thống nhất cổ đại, ngày nay là
ngoại ô thành phố Cairo. Tại đây có 3 Đại Kim Tự Tháp xây thành hàng theo hướng Đông Bắc - Tây Nam.
Trái với quan niệm thông thường, chỉ có Đại Kim Tự Tháp của Khufu chứ không phải tất cả 3 Đại KTT này,

là kỳ quan thế giới.

Tháp là một khối đặc, chứa trên 2 triệu phiến đá, mỗi phiến nặng trung
bình 2,5 tấn. Đến bây giờ, dù có nhiều giả thuyết đặt ra, song người ta vẫn
chưa biết thực sự làm cách nào mà những người Ai Cập cổ đại có thể xếp
được những khối đá to nặng để tạo nên một công trình đồ sộ như vậy.
Phải mười vạn người thợ xây cất trong 20 năm mới xong. (Người ta từng
cho rằng, đá từ 3 Đại Kim Tự Tháp này đủ để xây nên bức tường cao 3m,
dày 0,3m xung quanh nước Pháp !!!).

Trong tháp có những hành lang dài hàng trăm mét, đưa đến những phòng trang hoàng rực rỡ và dẫn tới
trung tâm tháp - nơi đặt quan tài nhà vua, làm bằng đá granit đỏ. Trước tháp là một quái vật đầu người,
mình sư tử (nhân sư), đục ngay trong đá, cao hàng chục mét.

Khi Napoleon xâm chiếm Ai Cập năm 1798, niềm kiêu hãnh của ông đã
được thể hiện qua câu nói nổi tiếng :

"Soldats! Du haut de cé Pyramides, 40 siècles nous contemplent"

(Hỡi các chiến sĩ, từ đỉnh những kim tự tháp này, 40 thế kỷ đang nhìn vào chúng ta!)


Ngày nay, đứng trước những ngọn tháp cao ngất giữa chốn sa mạc mênh mông, người ta không khỏi thấy
choáng ngợp, nửa thán phục, nửa ghê rợn, tưởng như lạc vào thế giới thần linh và trong lòng gợi lên biết
bao niềm hoài cổ...

Lăng Môdôlơ

Bài 1


Lăng mộ vua Môdôlơ (Mausole, Mausolus) - một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại, xây dựng vào khoảng
năm 350 tr.CN. ở thành phố Halicacnaxơ (Halicarnasse), thủ đô Vương quốc Cari (Carie) nằm ở Tây Á, sát
biển Êgiê (Égée). Công trình bắt đầu khởi dựng lúc vua Môdôlơ còn sống, nhằm thể hiện sự phồn vinh và
hùng mạnh của đất nước mình sau khi đã thống nhất được Vương quốc Cari. Công việc còn dở dang thì
nhà vua băng hà, hoàng hậu Actêmit II (Artémise II)đã tiếp tục và hoàn thành công trình, làm rạng rỡ tên tuổi
nhà vua qua kiệt tác kiến trúc này. Công trình được xây dựng bằng đá, dưới sự chỉ dẫn của các kiến trúc sư
Pytêôt (Pythéos) và Xatyarôt (Satyaros), phần điêu khắc do Xcôpat (Scopas), Bryaxit (Bryaxis), Lêôkharêt
(Léokharês) và Timôtêôt (Timotheos) đảm nhiệm. Công trình có hình khối, gồm ba phần: dưới cùng là phần
đế – tầng để thi hài mà dưới chân cũng là một hệ bậc tam cấp; phần giữa bên trong là phòng tế lễ và bên
ngoài có hàng cột bao quanh, có tượng trang trí; phần trên cùng là khối mái có dạng kim tự tháp gồm 24
bậc, được kết thúc ở đỉnh bằng một cụm tượng (tượng Môdôlơ và Actêmit). Công trình bị huỷ hoại dần do
thời gian, chiến tranh và động đất, đến thế kỉ 16 thì sụp đổ hoàn toàn (khi quân Thổ Nhĩ Kì xâm lăng vùng
này). Ngành khảo cổ học đã bỏ nhiều công sức thu nhặt các di vật của công trình quan trọng này và cũng có
nhiều dự án phục chế, trong đó dự án của Kiêcsơn (làm những năm 1923 – 28) được coi là chân thực nhất.
Lăng môdôlơ chẳng những là một kiệt tác của kiến trúc cổ mà còn là một mẫu mực cho loại hình lăng mộ, từ
đó từ Môdôlơ trở thành danh từ chung để chỉ lăng mộ của các bậc vĩ nhân, các vua chúa (Ph. Mausolée; A.
Mausoleum; N. Mavzolej).

(Theo “Từ điển bách khoa Việt Nam” tập 2, xuất bản năm 2002, và “Grand dictionnaire encyclopédique
Larousse”).

Bài 2

I have lying, over me in Halicarnassus, a gigantic monument such as no other dead person has, adorned in
the finest way with statues of horses and men carved most realistically from the best quality marble. (King
Maussollos - Lucian's Dialogues of the Dead)

Tương tự như Kim Tự Tháp Ai Cập, kỳ quan lần này cũng lại là nơi chôn cất một vị vua - Mausolus. Bạn có
thấy thú vị không, khi biết rằng, chữ "mausoleum" (lăng tẩm, lăng mộ) trong tiếng Anh có nguồn gốc từ
Mausolus - tên vị vua xứ Caria này?


Đế quốc Ba Tư từng bá chủ những vùng lãnh thổ Mesopotamia, Bắc Ấn Độ, Syria, Ai Cập và Tiểu Á. Vua Ba
Tư không thể kiểm soát đế quốc rộng lớn của mình mà không có sự giúp đỡ của những Satrans (giống như
là thống đốc, tỉnh trưởng hay vua của những vương quốc nhỏ phụ thuộc). Mausolus là một "Satran" như thế,
ông cai quản vương quốc nhỏ Caria phía Tây Tiểu Á. Nằm xa kinh đô Ba Tư nên trên thực tế, nó như một
nước tự trị. Mausolus dời thủ phủ về Halicarnassus, thành phố trên bờ biển Aegean miền Địa Trung Hải (nay
là thành phố Bodrum, phía Tây Nam Thổ Nhĩ Kỳ).

Mausolus biết nói tiếng Hy Lạp và rất ngưỡng mộ Hy Lạp về văn hóa và thể chế chính trị. Ông đã lập nên
nhiều thành phố với kiến trúc Hy Lạp dọc bờ biển và khuyến khích truyền thống dân chủ của Hy Lạp ở xứ sở
mình.

Lăng mộ Mausolus đã được xây dựng từ khi vua còn sống. Sau 24 năm trị vì (377-353 tr.CN), Mausolus
mất. Hoàng hậu Artemisia, cũng chính là em gái ông, đã gửi thư đến Hy Lạp để tìm những nghệ sĩ tài năng
nhất thời bấy giờ, trong đó có Scopas, người từng giám sát việc tái thiết đền thờ nữ hoàng Artemis ở
Ephesus, và những nhà điêu khắc lừng danh như Bryaxins, Leocharé, Timotheus... cùng hàng trăm nghệ
nhân khác. Artemis mất 2 năm sau cái chết của chồng. Cả hai đều được chôn trong lăng mộ. Và đến năm
350 tr.CN, công trình mới thực sự hoàn thành.

Tượng thần Hêliot

Bài 1

Trong chuyện thần thoại Hi Lạp, Hêliôt là vị thần thời cổ Hi Lạp, hiện thân của Mặt Trời (Ph. Helios; tiếng Hi
Lạp: Hellos – có nghĩa là “Mặt Trời”). Hêliôt là con trai của thần Hypêriông (Hypérion) và thần Teia (Theia),
và là anh trai của nữ thần ánh sáng Êôt (Éos) và thần Mặt Trăng Xêlênê (Seléné). Thần biển Clymen
(Clymēne) có nhiều con trai, trong đó có con thần mã Phaêtông (Phaéton). Thần Hêliôt ngày nào cũng cưỡi
trên cỗ xe thần mã (cỗ xe bốn ngựa) với ánh vàng lấp lánh trên bầu trời đi suốt từ đông sang tây, và ban
đêm từ dưới đại dương đi lên, say sưa bay lượn vòng quanh cực bắc, đi giám sát loài người, cho nên chẳng
có việc gì xảy ra trên mặt đất mà thần không biết. Thần Hêliôt ưa thích lưu lại ở Êtiôpi (Éthiopie) hoặc trên

đảo Rôt (Rhodes) và chiếm hữu “đàn” chiên thánh. Những biểu hiện và tín ngưỡng của thần Hêliôt chiếm
một vị trí không lớn lắm và đã bị lu mờ một cách rõ nét bởi thần ánh sáng – thi ca Apôlông (Apollon). Thần
Hêliôt đã được tôn thờ ở đảo Rôt. Nhưng sớm nhất, chỉ đến đầu thế kỉ 5 tr.CN, Hêliôt mới được xem như vị
thần chính ở đảo này. Dân chúng trên đảo Rôt đã xem ông là vị thần che chở, bảo vệ họ; một pho tượng
khổng lồ – tượng thần Hêliôt với vành mũ vương miện tỏa tia đã được tạc và đặt tại cảng, nơi cử hành tế lễ
thần. Tín ngưỡng thần Hêliôt đã đạt được một tầm quan trọng mới, xứng với đạo một thần Mặt Trời, đó là lối
thoát của thuyết Platông (Platon) mới.

(Trần Thị Tuyên biên soạn, dựa theo ‘Grand dictionnaire encyclopédique Larousse” và “Britannica”).

Bài 2

Pho tượng nữ thần Tự Do mặc áo choàng, tay đưa ngọn đuốc lên cao tại
cảng New York, một hình ảnh biểu trưng của nước Mĩ có lẽ không mấy xa
lạ với chúng ta. Nhưng, điều mà ít ai biết chính là bức tượng nữ thần Tự Do
này còn có một tên gọi khác - "Modern Colossus" (Colossus = tượng khổng
lồ), như là âm vang gợi nhớ đến một bức tượng khổng lồ khác cùng kích cỡ
(khoảng 110 feet = 33m, cao tương đương một tòa nhà hiện đại với 10
tầng), đã tồn tại cách đây hơn 2000 năm, cũng ở ngõ vào của một cảng
biển sầm uất thời cổ đại và cũng là một biểu tượng của tự do : "Colossus of
Rhode" - Tượng khổng lồ ở đảo Rhode.

Đất nước Hy Lạp cổ đại bị chia cắt bởi nhiều thành bang nhỏ. Trên đảo Rhode bấy giờ có 3 thành bang :
Ialysos, Kamiros và Lindos. Năm 408 trước CN, các thành bang này kết hợp lại thành một lãnh thổ thống
nhất với thủ phủ tại Rhodes. Thành phố phát triển hưng thịnh và có mối quan hệ chặt chẽ về thương mại và
kinh tế với nước liên minh Ptolem
(*)
(Ai Cập) .


×