Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Nguồn nhân lực để đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 168 trang )

..

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐỨC HI

NGUồN NHÂN LựC Để đổi mới
mô hình Tăng trưởng kinh tÕ ë ViÖt Nam

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐỨC HI

NGUồN NHÂN LựC Để đổi mới
mô hình Tăng trưởng kinh tÕ ë ViÖt Nam

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 62 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. ĐOÀN XUÂN THỦY
2. GS.TS. CHU VĂN CẤP

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Đức Hải


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

7

1.1. Các nghiên cứu về nguồn nhân lực và các mơ hình tăng trưởng kinh tế

7

1.2. Những kết quả rút ra từ các cơng trình khoa học nêu trên và "khoảng trống"
cần tiếp tục nghiên cứu


24

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ NGUỒN
NHÂN LỰC ĐỂ ĐỔI MỚI MƠ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

30

2.1. Những vấn đề lý luận về mô hình tăng trưởng kinh tế và nguồn nhân lực
của mơ hình tăng trưởng kinh tế

30

2.2. Đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế và yêu cầu về nguồn nhân lực

44

2.3. Kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế của một số nước Đông Á và bài học cho Việt Nam

53

Chương 3: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG MƠ HÌNH TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ HIỆN CÓ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2016

70

3.1. Đánh giá khái qt mơ hình tăng trưởng kinh tế từ đổi mới đến nay
(chủ yếu từ 2001 đến nay)

70


3.2. Thực trạng nguồn nhân lực - yếu tố đầu vào của mơ hình tăng trưởng
kinh tế giai đoạn 2001-2016

75

Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ ĐỔI MỚI MƠ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2017-2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

110

4.1. Bối cảnh, quan điểm, phương hướng và mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030

110

4.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực để đổi mới mơ hình tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam

121

KẾT LUẬN

148

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AEC
ASEAN
CDCCKT
CDCCLĐ
CIEM
CNH, HĐH
FDI
GDNN
GDP
HDI
ILO
MHTT
MHTTKT
NLĐ
NNL
NNLCLC
NSLĐ
PPP
PTNNL
TFP
TPP
TTKT
UNDP
VCCI
WB
WEF

Cộng đồng ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu lao động
Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giáo dục nghề nghiệp
Tổng sản phẩm quốc nội
Chỉ số phát triển con người
Tổ chức Lao động quốc tế
Mơ hình tăng trưởng
Mơ hình tăng trưởng kinh tế
Người lao động
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực chất lượng cao
Năng suất lao động
Ngang giá sức mua
Phát triển nguồn nhân lực
Năng suất nhân tố tổng hợp
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Tăng trưởng kinh tế
Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc
Phịng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Ngân hàng thế giới
Diễn đàn Kinh tế thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực trong từng giai đoạn của nền
kinh tế
Bảng 3.1: Dân số trung bình của Việt Nam qua các năm
Bảng 3.2: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
Bảng 3.3: Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động
Bảng 3.4: HDI của Việt Nam và một số nước giai đoạn 1990-2015
Bảng 3.5: Chỉ số HDI và các chỉ số thành phần của Việt Nam so với một số
nước ASEAN và châu Á, năm 2015
Bảng 3.6: Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên
Bảng 3.7: Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp
Bảng 3.8: Tỷ lệ dân số đi học đúng tuổi
Bảng 3.9: Cơ cấu lao động có việc làm theo trình độ học vấn năm 2016
Bảng 3.10: Tỷ lệ lao động có việc làm đã qua đào tạo (có chứng chỉ nghề từ 3
tháng trở lên) phân theo vùng
Bảng 3.11: Tỷ lệ lao động có việc làm đã qua đào tạo ở các vùng phân theo
trình độ chun mơn kỹ thuật năm 2016
Bảng 3.12: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế phân
theo nhóm ngành tại thời điểm 1/7 hàng năm
Bảng 3.13: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo
phân theo giới tính, khu vực và trình độ chun mơn kỹ thuật
Bảng 3.14: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo theo vùng
Bảng 3.15: Cơ cấu nguồn nhân lực có trình độ chun mơn kỹ thuật phân
theo ngành kinh tế
Bảng 3.16: Cơ cấu lao động có việc làm phân theo nhóm ngành kinh tế
Bảng 3.17: Cơ cấu lao động phân theo nam, nữ và thành thị, nông thôn
Bảng 3.18: Năng suất lao động xã hội phân theo khu vực kinh tế giai đoạn
2005-2015 (Giá so sánh năm 2010)
Bảng 3.19: So sánh năng lực cạnh tranh của nhân lực Việt Nam với một số
quốc gia Đông Á năm 2016
Bảng 3.20: Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động

Bảng 4.1: Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển nhân lực thời kỳ 2011-2020
Bảng 4.2: Dự báo tỷ lệ lao động qua đào tạo bậc cao đẳng và đại học trở lên
theo các vùng

49
76
77
78
80
80
82
83
84
85
86
87
91
92
93
94
96
97
98
100
101
120
121


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
quan trọng: tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng hơn 4 lần kể từ năm 1990, thu
nhập bình quân đầu người tăng nhanh... Những thành tựu này một phần được
quyết định bởi mơ hình tăng trưởng kinh tế thời kỳ này phù hợp với điều kiện
của Việt Nam. Song cho đến nay, kinh tế Việt Nam có nhiều dấu hiệu bất ổn,
nền kinh tế duy trì quá lâu ở mơ hình "giá trị gia tăng thấp", dựa vào việc gia
tăng nhanh vốn đầu tư, lạm dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên và sản xuất
gia công lắp ráp, tận dụng lao động giá rẻ để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng
nhanh. Mơ hình tăng trưởng kinh tế (MHTTKT) ở Việt Nam hiện nay được
đánh giá là dàn trải theo chiều rộng, kém hiệu quả trong dài hạn, không thực sự
phát huy được các thế mạnh, các lợi thế của nền kinh tế. Vì thế, MHTTKT của
Việt Nam trong giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cần được
chuyển đổi với nội dung cơ bản là: sự kết hợp giữa tăng trưởng theo chiều rộng
với tăng trưởng theo chiều sâu, trong đó tăng trưởng theo chiều sâu là hướng đi
chủ đạo, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường
sinh thái.
Việc chuyển đổi thành công MHTTKT là điều kiện tiên quyết để Việt Nam
có thể thốt khỏi “bẫy thu nhập trung bình” và bước lên một nấc thang phát triển
cao hơn một cách bền vững.
Để thực hiện MHTTKT mới, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong
đó vấn đề quan trọng là phát triển nguồn lực con người, phát triển nguồn nhân lực,
chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Bởi:
- Nguồn nhân lực là một yếu tố đầu vào quan trọng của MHTTKT. Con
người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
- Nguồn nhân lực chất lượng cao - bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực
(NNL) có vai trò quyết định trong đổi mới MHTTKT: tạo lập các ngành, nghề
hiện đại, thúc đẩy phát triển ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất
lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT)



2
theo hướng hiện đại, đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý
nhà nước về kinh tế...
Trong khi đó, nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay có ưu thế về số lượng
nhưng chất lượng rất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và
hội nhập quốc tế. Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) đã coi sự yếu kém của
nguồn nhân lực Việt Nam là một trong các "điểm nghẽn" hay "rào cản" của sự
phát triển nhanh và bền vững. Đồng thời, Đại hội lần thứ XI cũng chỉ rõ: "Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ" là một đột phá
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Đại hội lần thứ
XII của Đảng (2016) nhấn mạnh: "Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến
lược.." trong đó có đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực.
Từ những căn cứ đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề "Nguồn nhân lực để
đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam", làm đề tài Luận án Tiến sĩ
kinh tế của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực để đổi mới
MHTTKT. Trên cơ sở đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trong MHTTKT hiện
có ở Việt Nam giai đoạn 2001-2016, Luận án đề xuất một số giải pháp phát triển
nguồn nhân lực (PTNNL), tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đổi
mới MHTTKT giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, hệ thống hóa, bổ sung những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn về nguồn nhân lực để đổi mới MHTTKT.
Hai là, đánh giá một cách khách quan thực trạng nguồn nhân lực - yếu tố

đầu vào của MHTTKT hiện có ở Việt Nam giai đoạn 2001-2016.
Ba là, đề xuất một số giải pháp mang tính tồn diện, đồng bộ nhằm
PTNNL, nhất là NNL chất lượng cao để đổi mới MHTTKT ở Việt Nam giai đoạn
2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030.


3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu nguồn nhân lực để đổi mới MHTTKT ở Việt Nam với
tư cách là một yếu tố của MHTTKT, là một trong các nguồn lực phát triển, đồng
thời là chủ thể sáng tạo và thực thi MHTTKT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu:
+ Sự tác động của nguồn nhân lực đến MHTTKT với hai khía cạnh: thứ
nhất, NNL là một yếu tố của MHTTKT đóng vai trị nguồn lực phát triển; thứ hai,
phát triển NNL là điều kiện quyết định để thực hiện đổi mới MHTTKT.
+ Mối quan hệ giữa đổi mới MHHHKT và phát triển NNL.
+ Đề xuất một số giải pháp ở tầm vĩ mô về PTNNL để đổi mới MHTTKT
giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
- Về không gian: trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
- Về thời gian: phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực - yếu tố đầu
vào của MHTTKT hiện có từ năm 2001 đến năm 2016. Các giải pháp PTNNL để
đổi mới MHTTKT được nghiên cứu trong giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến
năm 2030.
4. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận
- Tiếp cận kinh tế - xã hội
Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ: 1/ là
nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội và được hiểu theo hai

nghĩa: nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất
xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực
bao gồm tồn bộ dân cư có khả năng lao động (khơng có dị tật bẩm sinh); nghĩa
hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội; 2/ với tư cách là năng
lực và tính năng xã hội, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã


4
hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra giá trị vật chất và
tinh thần cho xã hội. Nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng này phải được chuyển
hóa thành vốn nhân lực để có hiệu quả, tức là phải nâng cao tính năng động xã hội
của con người thông qua giáo dục - đào tạo, thể chế, chính sách...
- Tiếp cận nguồn nhân lực theo cách là cơ sở tạo động lực cho mơ hình tăng
trưởng (MHTT), là nhân tố quyết định để đổi mới MHTT. Theo cách tiếp cận này,
Luận án làm rõ nguồn nhân lực là một trong các yếu tố của MHTT, đóng vai trị là
một nguồn lực phát triển; những yêu cầu của đổi mới MHTTKT đối với phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC).
- Từ lý luận đến thực tiễn, Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về
nguồn nhân lực, về MHTTKT; mối quan hệ giữa đổi mới MHTTKT và PTNNL;
vai trò của nguồn nhân lực đối với đổi mới MHTTKT. Từ đó, liên hệ tới điều kiện
phát triển của Việt Nam nhằm đưa ra những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm
PTNNL, nhất là NNLCLC để đổi mới MHTTKT giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn
đến năm 2030.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế
chính trị là trừu tượng hóa khoa học, cùng với các phương pháp cụ thể, như: phân
tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, kết hợp chặt chẽ giữa lôgic với lịch sử, thu thập
và xử lý thông tin thứ cấp, tổng kết thực tiễn và kế thừa kết quả nghiên cứu từ các

công trình khác liên quan đến đề tài.
Các phương pháp này được vận dụng trong Luận án, như sau:
* Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phân tích là một vấn đề cần thiết để giải thích theo phương pháp truy
nguyên để nhận thức quá trình hình thành, phát triển các hiện tượng, quá trình
kinh tế... trong các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển. Điểm kết thúc của
sự phân tích là tổng hợp. Nhờ có tổng hợp mới có thể đi từ cái cụ thể, tản mạn...
đến sự khái quát thành các khái niệm, phạm trù lý luận. Phương pháp này được sử


5
dụng ở Chương 1 - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, để phân
tích lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về đối tượng nghiên cứu, từ đó rút ra những
kết quả nghiên cứu và các vấn đề còn là "khoảng trống" cần tiếp tục thực hiện.
Phương pháp này cũng được sử dụng ở Chương 2 để phân tích lý luận về nguồn
nhân lực, PTNNL, vai trò của nguồn nhân lực; về MHTT và đổi mới MHTTKT,
qua đó hình thành khung lý luận cho đề tài của Luận án.
* Phương pháp thống kê, so sánh, diễn dịch - quy nạp, điều tra khảo sát
được sử dụng ở Chương 3 nhằm làm rõ thực trạng nguồn nhân lực - yếu tố đầu
vào của MHTTKT hiện có giai đoạn 2001-2016, từ đó rút ra những thành cơng,
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
* Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập dữ liệu thứ cấp: Tác giả đặc biệt chú ý sưu tầm tài liệu trong
nước, ngoài nước qua các cơng trình khoa học đã cơng bố; qua số liệu của Tổng
cục Thống kê Việt Nam và các tài liệu cơng bố chính thức của các Cơ quan Nhà
nước, các Bộ, Ngành… liên quan đến đề tài Luận án.
5. Những điểm mới của luận án
1- Luận án khẳng định: Nguồn nhân lực là một yếu tố đầu vào của mơ hình
tăng trưởng kinh tế, đồng thời là chủ thể khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu
tố khác (vốn, công nghệ, thể chế...). Nguồn nhân lực sáng tạo và thực thi mơ hình

tăng trưởng kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao có vai trị quyết định q trình đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế.
2- Kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore chuyển đổi thành
công từ MHTT theo chiều rộng sang MHTT theo chiều sâu kịp thời và hợp lý là
dựa trên cơ sở đào tạo và phát triển NNLCLC; nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo và trình độ cơng nghệ quốc gia.
3- Luận án cho rằng: Việt Nam hiện đang có lợi thế và cơ hội về nguồn lao
động dồi dào, chi phí khơng cao (so với Trung Quốc), song chất lượng nguồn
nhân lực còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và trong vài thập kỷ tới khơng
cịn "cơ cấu dân số vàng". Vì vậy, cần có chính sách, giải pháp phát triển nguồn


6
nhân lực hiệu quả, lâu dài, coi trọng chất lượng hơn số lượng, chú trọng đào tạo
nghề, phát triển NNLCLC trong sự gắn kết chặt chẽ với phát triển khoa học - công
nghệ và yêu cầu của các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế.
4- Luận án đề xuất 4 nhóm giải pháp phát triển NNL để đổi mới MHTTKT
trong giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 có tính tồn diện và khả
thi. Trong đó, rất đáng quan tâm là giải pháp về chính sách sử dụng, đãi ngộ và
phát huy một số nhóm nhân lực có “tính đặc trưng”, như: nhóm nhân lực trong
biên chế Nhà nước (cán bộ, công chức, viên chức), lực lượng lao động thanh niên
từ 15-24 tuổi và nhóm nhân lực chất lượng cao, gồm: cán bộ lãnh đạo, quản lý
trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước, cán bộ quản trị doanh nghiệp cấp cao, đội
ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ khoa học, cơng nghệ đầu đàn, đội ngũ trí thức trong
nước và trí thức Việt kiều, đội ngũ cơng nhân kỹ thuật bậc cao, lành nghề.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.



7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CÁC MƠ HÌNH
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1.1.1. Các nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Thứ nhất, quan niệm về nhân lực và vốn nhân lực
Nhân lực được hiểu là sức lực của con người, nằm trong mỗi con người và
làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát
triển của cơ thể con người và đến một lúc nào đó, con người có đủ điều kiện tham
gia vào q trình lao động - con người có sức lao động hay khả năng lao động.
Theo C.Mác, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người được sử
dụng trong quá trình lao động. Nhân lực là yếu tố vật chất, là yếu tố tiên quyết của
quá trình sản xuất, có khả năng tổ chức sử dụng các nguồn lực khác, là chủ thể
tích cực của tất cả các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội [3].
Vốn nhân lực được hiểu là tiềm năng và khả năng phát huy tiềm năng về
sức khỏe, kiến thức của cá nhân và là cái mang lại lợi ích tương lai cao hơn lợi ích
hiện tại (theo Bardhan and Udry - 1999). Khái niệm vốn ở đây được hiểu là giá trị
mang lại lợi ích kinh tế - xã hội. Giá trị vốn nhân lực chính là giá trị sức lao động,
nó phụ thuộc vào thể lực, trí lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của
người lao động… Vì vậy, để thành vốn nhân lực con người phải được giáo dục và
đào tạo để có được những kiến thức chuyên môn ngày càng cao và sức khỏe tốt.
Bên cạnh khái niệm vốn nhân lực, người ta còn đề cập đến khái niệm vốn
con người. Theo cách hiểu phổ biến nhất, vốn con người là tập hợp các kiến thức
và kỹ năng mà một người lao động (NLĐ) có được thông qua giáo dục, đào tạo và
kinh nghiệm làm việc, qua đó làm tăng giá trị của NLĐ trên thị trường lao động.
Song, do cách tiếp cận khác nhau nên diễn đạt cũng khác nhau.



8
Khái niệm vốn con người (Human Capital) được đề cập đến từ cuối thế kỷ
thứ XVIII trong tác phẩm "The Wealth of Nations" của Adam Smith (1723-1790).
Theo ông, vốn con người được hiểu làS sự tích lũy những tài năng trong quá trình
học tập, nghiên cứu hoặc học việc thường địi hỏi chi phí. Đó là tư bản cố định kết
tinh trong con người. Những tài năng đó tạo thành một phần tài sản của anh ta và
của xã hội.
Gary S. Becker, giáo sư Đại học Chicago, giải Nobel kinh tế năm 1992
định nghĩa nguồn vốn con người như là một tập hợp những năng lực sản xuất mà
một cá nhân thu được nhờ tích lũy những hiểu biết tổng quát hay đặc thù, những
kỹ năng và sự thành thạo.
Các tác giả cũng đều cho rằng vốn con người có được nhờ vào giáo dục,
đào tạo nghề và phát triển hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe...
Thứ hai, nghiên cứu về nguồn nhân lực
Trong giới khoa học và quản lý trên thế giới, các vấn đề lý luận về nguồn
nhân lực cơ bản đạt được sự đồng thuận: nguồn nhân lực - một trong các nguồn
lực phát triển của quốc gia, nguồn cung cấp lao động để thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ. Song, do cách tiếp cận khác nhau, nên trong
quan niệm về nguồn nhân lực cũng có sự khác biệt.
Theo Liên hợp quốc (UNs), nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát
triển của mỗi cá nhân và của đất nước. Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: nguồn
nhân lực là tồn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp
của mỗi cá nhân. Như vậy, nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên
cạnh các loại vốn vật chất khác như vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo Tổ chức lao động thế giới (ILO), nguồn nhân lực của một quốc gia là
tồn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Quan niệm của
ILO có thể hiểu theo 2 nghĩa: nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức

lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho phát triển, do đó,
nguồn nhân lực bao gồm tồn bộ dân cư có sự phát triển bình thường; nghĩa hẹp,


9
nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong
độ tuổi lao động, có thể tham gia vào lao động sản xuất.
Theo quan niệm của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP),
nguồn nhân lực là tổng thể năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy
động vào quá trình sản xuất, nguồn năng lực - nội lực đó của con người cũng
chính là nội lực của xã hội [39].
Thứ ba, các nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là "tài nguyên đặc biệt", một
nguồn lực của sự phát triển. Bởi vậy, phát triển con người, PTNNL trở thành vấn
đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực.
* Phát triển con người
Từ cách tiếp cận con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh
tế - xã hội, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm phát triển con người. Phát triển
con người được biết đến từ lâu với một luận điểm nổi tiếng của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" năm 1848: Sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Theo Báo cáo đầu tiên về phát triển con người được đưa ra năm 1990,
UNDP đã nhấn mạnh triết lý con người là trung tâm thơng qua một thơng điệp rất
ấn tượng: Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó và
mục đích của sự phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con
người được hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh và sáng tạo. Chân lý giản đơn
nhưng đầy sức mạnh này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải
vật chất và tài chính.
Theo UNDP, nội dung chủ yếu của phát triển con người bao gồm: (1) là
quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của từng người và của từng cộng đồng; ở

đâu con người có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn thì ở đó điều kiện phát triển
con người sẽ tốt hơn; (2) là quá trình tăng cường các năng lực lựa chọn cho
từng con người và từng cộng đồng; ở đâu con người có năng lực lựa chọn cao
hơn thì ở đó trình độ phát triển con người cũng cao hơn; (3) là quá trình mở


10
rộng và tăng cường năng lực lựa chọn chính là môi trường làm cho khả năng
sáng tạo, sống khỏe mạnh, được học hành của con người được tăng lên. Như
vậy, phát triển con người không phải là phương tiện mà là mục tiêu của sự
phát triển và con người chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển, tức là con
người đóng vai trị quyết định ở cả "đầu vào" và "đầu ra" trong tồn bộ q
trình phát triển. Mục đích thực sự của phát triển là tạo ra mơi trường đảm bảo
cho con người có khả năng được hưởng một cuộc sống sung túc, khỏe mạnh
và trường thọ.
Phát triển con người được đánh giá bằng chỉ số phát triển con người (HDI).
HDI được cấu thành bởi ba yếu tố: (i) Y tế, chăm sóc sức khỏe tính bằng tuổi thọ
bình qn; (ii) Giáo dục tính theo 2 tiêu chí: tỷ lệ người lớn biết chữ và số năm đi
học bình qn; (iii) GNI/người, tính theo ngang giá sức mua hay sức mua tương
đương (PPP). HDI tính theo phương pháp chỉ số và được xác định bằng những
con số trong khoảng từ 0 đến 1. HDI càng gần đến giá trị của 1 thì chứng tỏ trình
độ phát triển con người càng cao và ngược lại. HDI còn là căn cứ để so sánh, đánh
giá trình độ phát triển của một quốc gia qua các thời kỳ khác nhau.
* Phát triển nguồn nhân lực
Từ cách tiếp cận nguồn vốn nhân lực, ta có quan niệm về PTNNL. Hiện
nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về PTNNL. Theo quan niệm của Liên hợp
quốc, PTNNL bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống [8].
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc sử dụng khái
niệm PTNNL theo nghĩa hẹp và cho rằng PTNNL là làm tăng toàn bộ sự lành

nghề của dân cư luôn luôn phù hợp với sự phát triển của đất nước [105].
Theo ILO, phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ
là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung, mà cịn là sự
phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc làm có hiệu quả, cũng như
thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân [105].
Liên hợp quốc thì nghiêng về sử dụng khái niệm PTNNL theo nghĩa rộng,


11
bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng của con người nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống [104].
Tác giả Kim Ee-gyeong trong bài viết "Chính sách phát triển nguồn nhân
lực trong bối cảnh tồn cầu hóa: Tầm nhìn và Mục tiêu ở Hàn Quốc" (Human
Resource Development Policy in the Context of Globalization: Visions and Goals
in the Korea) đã tổng hợp các nhiệm vụ chủ yếu PTNNL là: nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực; mở rộng cơ hội học tập, đào tạo cho tất cả công dân; nâng cao tỷ
lệ toàn dụng và hiệu suất sử dụng nguồn nhân lực; xây dựng và tăng cường cơ sở
hạ tầng cho PTNNL [42, tr.10].
Như vậy, có thể thấy rằng: Phát triển con người có nội hàm rất rộng, trong
đó, rất quan trọng là PTNNL. Chiến lược phát triển con người nói chung có một
bộ phận hợp thành trọng yếu là PTNNL. Hiện nay, trong chiến lược phát triển của
mình, nhiều quốc gia đã xác định phát triển nguồn nhân lực là yếu tố cạnh tranh
cơ bản nhất.
Thứ tư, nghiên cứu về các yêu cầu của MHTT đặt ra đối với nguồn nhân
lực, đặc biệt là NNLCLC.
Nghiên cứu về vai trò của nguồn nhân lực, đặc biệt là NNLCLC đối với các
MHTTKT, hai nghiên cứu dưới đây đều chỉ rõ về mặt định tính và định lượng.
Nghiên cứu thứ nhất: "Mối liên kết động giữa kinh tế và phát triển nhân
lực" (Dynamic Links between the Economy and Human Development) của tác giả
Gustav Ranis và Frances Stewart cho thấy, tác động qua lại giữa PTNNL, đặc biệt

là nhân lực chất lượng cao với khả năng quản lý tốt có thể lựa chọn được công
nghệ kết hợp với đầu tư tạo ra tăng trưởng kinh tế (TTKT) lớn. Nghiên cứu cũng
cho thấy những yêu cầu và cách thức mà MHTTKT đặt ra đối với phát triển
NNLCLC [42, tr.11].
Nghiên cứu thứ hai: "Con đường dẫn đến thành công: Mối quan hệ giữa
phát triển nhân lực và tăng trưởng kinh tế" (Paths to Success: The Relationship
between Human Development and Economic Growth) của tác giả Michael Boozer


12
cũng cho thấy tác động của phát triển NNLCLC tới tăng trưởng GDP. Ơng cho
rằng, lao động càng có chất lượng cao, càng có khả năng kinh doanh và quản lý cao
thì càng có khả năng lựa chọn và kết hợp với cơng nghệ (trong đó có cơng nghệ
nhập khẩu) và khả năng nghiên cứu, sáng tạo làm tăng nguồn đầu tư và tạo ra nhiều
GDP hơn. Cũng như nghiên cứu thứ nhất, nghiên cứu này cũng cho thấy những yêu
cầu và thách thức mà MHTTKT đặt ra đối với phát triển NNLCLC [42, tr.11].
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Một là, nghiên cứu về nhân lực và vốn nhân lực
Tác giả Nguyễn Bình Đức, trong luận án tiến sĩ về "Chất lượng nguồn nhân
lực trong các khu công nghiệp ở thành phố Đà Nẵng" [36] cho rằng: nhân lực là
nguồn lực trong mỗi con người. Đó là tổng thể thống nhất hữu cơ giữa tiềm năng
lao động với năng lực lao động hiện có của con người hình thành nên năng lực lao
động của con người. Tác giả Chu Văn Cấp cùng có quan điểm trên khi cho rằng:
nhân lực được hiểu là sức lực của con người, nằm trong mỗi con người và làm cho
con người hoạt động; đồng thời nhấn mạnh: nhân lực là yếu tố vật chất, yếu tố tiên
quyết của q trình sản xuất, có khả năng tổ chức sử dụng các nguồn lực khác, là
chủ thể tích cực của mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội [8].
Vốn nhân lực: nghiên cứu của các tác giả trong nước về cơ bản thống
nhất với nhau rằng: vốn nhân lực được hiểu là trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
và thái độ được hình thành trong con người thơng qua giáo dục và đào tạo

nhằm đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Đồng quan điểm này có tác giả Phí Mạnh
Hồng, tác giả Chu Văn Cấp bổ sung thêm: giá trị vốn nhân lực chính là giá trị
sức lao động, được xác định bởi thể lực, trí lực, trình độ chun mơn, kỹ năng
nghề nghiệp của NLĐ. Vì vậy, để trở thành vốn nhân lực con người phải được
giáo dục và đào tạo để có những kiến thức chun mơn ngày càng cao và sức
khỏe tốt [8].
Hai là, các nghiên cứu về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học và
quản lý. Do cách tiếp cận khác nhau nên khái niệm cũng có những điểm khác


13
nhau, nhưng nhìn chung đều thống nhất rằng: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp
sức lao động cho xã hội, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, là một trong các
nguồn lực phát triển bên cạnh các nguồn lực về vốn, tài chính, khoa học cơng
nghệ... giữ vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
(i) Về khái niệm nguồn nhân lực
Phạm Minh Hạc trong tác phẩm nghiên cứu "Đi vào thế kỷ XXI phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [41] cho rằng,
nguồn nhân lực được hiểu theo nghĩa rộng là cả lực lượng lao động, tiềm năng lao
động, đội ngũ lao động, đào tạo lại, đào tạo mới... và quản lý nguồn nhân lực.
Nguyễn Sinh Cúc trong bài "Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân
lực” [17], cho rằng: Dưới góc độ kinh tế phát triển thì nguồn nhân lực là một bộ
phận dân số trong độ tuổi quy định tham gia vào quá trình lao động. Nguồn nhân
lực được biểu hiện ở hai mặt: 1/ Số lượng, tức là những người trong độ tuổi theo
quy định đang làm việc trong nền kinh tế và thời gian có thể huy động được từ họ;
2/ Chất lượng bao gồm: sức khỏe, trình độ chun mơn, kiến thức, trình độ lành
nghề của người lao động.
Đồng ý kiến với tác giả Nguyễn Sinh Cúc có: Chu Văn Cấp, "Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững ở Việt Nam" [8];

Mạc Văn Tiến, "An ninh xã hội và phát triển nguồn nhân lực" [96]; Đường Vinh
Sường, "Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa" [85]...
(ii) Về vai trị của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
Nghiên cứu về vai trò của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao có nhiều cơng trình đã khái quát: dù ở thời đại nào, nguồn nhân lực là
yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã hội. Trong số các nguồn lực,
nguồn nhân lực được coi là nguồn lực "nội sinh" chi phối quá trình phát triển kinh
tế - xã hội và nó có ưu thế nổi bật là khơng có "giới hạn" hay "vơ tận" nếu biết bồi
dưỡng, khai thác hợp lý. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất quy định sức


14
mạnh của quốc gia. Đồng quan điểm này có: Chu Văn Cấp, "Phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững" [6]; Đỗ
Văn Đạo, "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay" [28];
Vũ Văn Hòa, "Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao và hàm ý chính sách cho Việt Nam" [48]; Phạm Minh Hạc,
"Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa"
[40]; Lưu Đức Hải, "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng u cầu
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay" [42]; Hà Thị Hằng,
"Nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa góp với phát triển kinh tế tri
thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay" [44]; Trần Văn Tùng, "Đào tạo bồi dưỡng
và sử dụng nguồn nhân lực tài năng" [114]...
(iii) Về phát triển nguồn nhân lực
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực, các
nghiên cứu đều thống nhất nhận thức là: phát triển nguồn nhân lực là hoạt động
đầu tư nhằm tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo phát triển của mỗi cá
nhân. Hoặc phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng

lực tồn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và hoàn thiện bản thân mỗi
con người. Các nghiên cứu tiêu biểu như: Nguyễn Sinh Cúc, "Nguồn nhân lực và
phát triển nguồn nhân lực" [17]; Bùi Thị Thành, "Phát triển nguồn nhân lực"
[86]; Nguyễn Hữu Dũng, "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế" [21]; Tăng
Minh Lộc, "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn" [68]; Trung tâm
Thông tin tư liệu - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) trong
chuyên đề "Phát triển nguồn nhân lực và phát triển con người" [105]; Đặng
Xuân Hoan, "Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015-2020 đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" [50]; Lưu
Đức Hải [42]...


15
Về nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực, các nghiên cứu đã đề
cập đến: kết cấu xã hội của dân số, dân cư, dân tộc, phong tục tập quán, đặc biệt là
quy mô và chất lượng dân số; trình độ phát triển kinh tế - xã hội; sự phát triển giáo
dục - đào tạo; chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế. Trong đó, nhân tố sự phát triển của giáo dục và đào tạo được nhiều
tác giả đặc biệt nhấn mạnh, như: Chu Văn Cấp [6]; Trần Thọ Đạt, "Giáo dục và
tăng trưởng kinh tế ở Đông Á và Việt Nam" [32]; Vũ Văn Hòa, "Giáo dục đào tạo
Nhật Bản: nền tảng phát triển nguồn nhân lực cho đất nước" [49]; Nguyễn Danh
Sơn, "Nhân tố khoa học công nghệ trong tăng trưởng và phát triển kinh tế" [84];
Đặng Thị Thanh Huyền trong nghiên cứu "Giáo dục phổ thông với chất lượng
nguồn nhân lực - bài học từ thực tiễn Nhật Bản" [55], cho rằng: giáo dục phổ
thông là yếu tố cơ bản cho sự phát triển con người tồn diện, đặc biệt là phát triển
năng lực trí tuệ, do đó, giáo dục phổ thơng có ý nghĩa quyết định với phát triển
chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động, là nhân tố hàng đầu
trong công cuộc phát triển của mỗi quốc gia.
(iv) Các nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng u

cầu phát triển đất nước nói chung, u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) nói riêng.
Các cơng trình tiêu biểu của: Lê Thị Ái Lâm, "Phát triển nguồn nhân lực
thông qua giáo dục - đào tạo - kinh nghiệm Đông Á" [66]; Trần Khánh, "Kinh
nghiệm của Singapore trong phát triển nguồn nhân lực" [63]; Vũ Văn Hòa, "Kinh
nghiệm của một số quốc gia về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hàm
ý chính sách cho Việt Nam" [48]; Chu Văn Cấp và cộng sự trong "Giáo dục và
đào tạo với phát triển nguồn nhân lực cho nước công nghiệp hiện đại của Hàn
Quốc và những gợi mở cho Việt Nam" [11]; Nguyễn Thị Minh Phước, "Phát triển
nguồn nhân lực: Kinh nghiệm của một số nước" [76]; Trần Anh Phương, "Cải
cách giáo dục ở Hàn Quốc" [78]; Trung tâm Thông tin tư liệu, CIEM, "Phát triển
nguồn nhân lực và phát triển con người" [105]...
Các tác giả nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho
công cuộc phát triển kinh tế của các quốc gia và vùng lãnh thổ: Nhật Bản, Hàn


16
Quốc, Đài Loan, Singapore... đều đi đến thống nhất cơ bản là: phát triển con
người, phát huy nhân tố con người; phát triển giáo dục - đào tạo và dạy nghề, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển dạy nghề phải phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ; phải thường xuyên cải cách giáo dục và
thành lập các cơ quan quốc gia về phát triển nguồn nhân lực.
1.1.2. Các nghiên cứu về mơ hình tăng trưởng
1.1.2.1. Các nghiên cứu ở ngồi nước
Trong lịch sử đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế với các
mơ hình lý thuyết kinh điển, như:
(1) Mơ hình cổ điển
Hơn 200 năm trước, các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển là Adam
Smith (1723-1790) và David Ricardo (1772-1823) đã có các nghiên cứu về mối
quan hệ giữa các nhân tố đầu vào của tăng trưởng kinh tế.

Adam Smith nghiên cứu tính chất, nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế và
chỉ rõ: Lao động là nguồn gốc của cải xã hội, đồng thời ông coi sự gia tăng tư bản
là yếu tố quyết định của tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, ông khẳng định vai trò
của phân công lao động xã hội và tự do thương mại thế giới đối với tăng trưởng
kinh tế của mỗi quốc gia. Ông nhấn mạnh "chủ nghĩa tự do kinh tế mới đảm bảo
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có hiệu quả". A.Smith đã nhìn thấy động thái của
tăng trưởng kinh tế là ở cả khu vực cơng nghiệp và nơng nghiệp. Ơng cũng cho
rằng điều kiện của tăng trưởng kinh tế là tăng đầu tư và giảm tiêu dùng [31].
D.Ricardo, nhà kinh tế học cổ điển xuất sắc nhất đã kế thừa quan điểm của
A.Smith, năm 1817, ông đã xuất bản tác phẩm "Những ngun lý của kinh tế
chính trị học và thuế khóa", trong đó chỉ rõ: đất đai, lao động, tư bản, tiến bộ kỹ
thuật, môi trường là những nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế. Cũng giống
như A.Smith, ông cho rằng các chính sách của chính phủ khơng có tác động quan
trọng đến tăng trưởng kinh tế [31].
(2) Mô hình giản đơn Harrod - Domar của trường phái Keynes, lần đầu tiên
đã lượng hóa được mối quan hệ của tiết kiệm, tích lũy vốn với tăng trưởng kinh tế


17
Theo mơ hình "Harrod - Domar" để tăng trưởng, các nền kinh tế phải tiết
kiệm và đầu tư một phần thu nhập của mình. Tiết kiệm và đầu tư càng nhiều thì
tăng trưởng càng nhanh và chính mơ hình này đã trở thành cơ sở của chiến lược
tích lũy vốn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước sau Chiến tranh Thế
giới lần thứ hai [75].
(3) Mơ hình tăng trưởng Tân cổ điển (của Solow và Swan, năm 1956).
Nếu như mơ hình Harrod - Domar ngun bản chỉ xét đến vai trị của vốn
sản xuất (thơng qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng trưởng, thì theo mơ hình
Solow tăng trưởng về mặt sản lượng được phân ra thành: tăng trưởng thông qua
tăng các yếu tố đầu vào (lao động, vốn) và tăng trưởng thông qua tăng năng suất.
Mơ hình này cho rằng, trong dài hạn do không thể tăng mãi đầu vào lao động,

đồng thời cũng gặp phải lợi tức cận biên giảm dần nếu tiếp tục tăng thêm vốn vào
quá trình sản xuất, nên một nền kinh tế cần dựa vào tiến bộ công nghệ và hiệu quả
lao động để có thể nâng cao mức sống người dân một cách bền vững. Tuy vậy,
hạn chế lớn nhất của mơ hình Tân cổ điển là giả định tốc độ tăng hiệu quả của lao
động được xác định một cách ngoại sinh.
(4) Mơ hình tăng trưởng nội sinh
Gọi là MHTT nội sinh vì các lý thuyết của trường phái này đã cố gắng
"nội sinh hóa" một số biến đầu vào của tăng trưởng. Các đại biểu như Robert E.
Lucas, Romer, Becker, Barro đều cho rằng vốn con người có tỷ suất sinh lời
khơng giảm và sai biệt tăng trưởng giữa các quốc gia được giải thích rất nhiều
bởi sự chênh lệch không chỉ về hiệu quả đầu tư mà chủ yếu lại thuộc về vốn tri
thức và vốn nhân lực. Như vậy, MHTT nội sinh đã quay trở về vai trò của vốn
đầu tư, với tư cách là một thành tố quyết định tăng trưởng, nhưng khái niệm vốn
đã được khái quát bao gồm cả vốn con người hoặc bằng cách khai thác những
hiệu ứng năng suất và công nghệ "bao hàm" trong đầu tư và do đó lý thuyết tăng
trưởng nội sinh hầu như đã loại bỏ giới hạn lợi tức cận biên giảm dần đối với
vốn. Trong MHTT nội sinh, tăng năng suất có được từ tích lũy vốn con người
hay các hoạt động phát minh sáng chế là yếu tố tạo nên tăng trưởng dài hạn của


18
thu nhập bình qn đầu người. Do đó, tăng năng suất - "làm việc thông minh
hơn" chứ không phải là "làm việc chăm chỉ hơn" - là yếu tố thiết yếu của tăng
trưởng kinh tế nói chung.
(5) Mơ hình tăng trưởng dựa vào hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp Mơ hình nhị ngun.
Lý thuyết nhị ngun của Lewis bàn về mơ hình phát triển ở các nước
nghèo có tỷ trọng nông nghiệp lớn, cho rằng để nền kinh tế tăng trưởng nhanh,
trước hết, cần đầu tư vào công nghiệp nhằm thu hút lao động từ nông nghiệp sang.
Tăng trưởng của khu vực cơng nghiệp tự nó sẽ thu hết lao động dư thừa trong
nông nghiệp và khi khu vực nơng nghiệp hết dư thừa lao động thì điều kiện để

tăng trưởng kinh tế là quan tâm đầu tư cho cả hai khu vực [75].
Khác với lý thuyết nhị nguyên của Lewis, Oshima đã nghiên cứu MHTT
trong điều kiện các nước đang phát triển thuộc khu vực châu Á gió mùa với đặc
trưng cơ bản là tính chất thời vụ rõ rệt đối với sản xuất nông nghiệp. Từ đó ơng
kết luận: giai đoạn đầu cần tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp nhằm giải
quyết lao động thất nghiệp thời vụ, tiếp theo đó là hướng tới có việc làm đầy đủ
bằng cách đầu tư phát triển đồng thời cả cơng nghiệp và nơng nghiệp [75].
(6) Mơ hình tăng trưởng "cân đối" và "cực" tăng trưởng
Khác với sự sắp xếp thứ tự ưu tiên trong phát triển các khu vực trong nền
kinh tế, một số nhà kinh tế theo lý thuyết phát triển cân đối (Nurkse, Rosenstein Rodan) lại cho rằng MHTT cần phải đồng đều ở các khu vực kinh tế, vì tất cả các
ngành có liên quan mật thiết với nhau, sự phát triển cân đối giữa các khu vực hạn
chế được mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, tránh được các ảnh hưởng
tiêu cực của thị trường thế giới và một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối giữa
các ngành là nền tảng vững chắc bảo đảm độc lập chính trị của các nước đang phát
triển. Lý thuyết này chính là cơ sở cho các quốc gia đang phát triển lựa chọn con
đường cơng nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Ngược lại với lý thuyết tăng trưởng cân đối, lý thuyết tăng trưởng theo cực
(Hirschman, Perrons) lại khẳng định không thể và không nhất thiết đảm bảo


19
MHTT bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối giữa các khu vực đối với mọi
quốc gia và trên thực tế tăng trưởng không cân đối gần như là một sự lựa chọn bắt
buộc, do sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Từ thập niên 1980 trở lại
đây, lý thuyết phát triển theo cực này đã được nhiều nước đang phát triển áp dụng
với mô hình cơng nghiệp hóa mở cửa và hướng ngoại và đã dẫn tới "sự thần kỳ"
trong tăng trưởng của các nền kinh tế cơng nghiệp hóa mới NICs [75].
(7) Mơ hình "đàn sếu bay"
Trong nỗ lực lý giải sự bắt kịp của các nước đang phát triển, đặc biệt là
các nước NICs đối với các nước tiên tiến, mơ hình "đàn sếu bay" được mơ tả

là q trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình tăng trưởng theo 4 giai
đoạn: (i) Giai đoạn 1, các nước kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế
biến từ các nước phát triển và xuất khẩu các mặt hàng khống sản, nơng, lâm
sản và thủ công; (ii) Trong giai đoạn 2, các nước chậm phát triển tiếp nhận
đầu tư của các nước phát triển để tự sản xuất hàng tiêu dùng mà trước đây
phải nhập khẩu, đây là giai đoạn tích lũy và mô phỏng công nghiệp chế tạo
của các nước phát triển; (iii) Giai đoạn 3, ở giai đoạn này những sản phẩm
thay thế nhập khẩu ở giai đoạn 2 có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu với số
lượng và quy mô hàng xuất khẩu ngày càng mở rộng, khoảng cách giữa các
nước đi sau với các nước phát triển không còn bao xa; (iv) Giai đoạn cuối
cùng được đánh dấu bằng xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng bắt đầu giảm
xuống, nền cơng nghiệp đã đạt được trình độ bằng các nước phát triển và bắt
đầu chuyển giao một số sản phẩm công nghiệp tiêu dùng cho các nước kém
phát triển hơn. Các nghiên cứu từ đầu thập niên 1990 đến nay đều cho rằng
việc áp dụng MHTT "đàn sếu bay" để giải thích sự lan tỏa trong tăng trưởng
của các nước Đơng Á là có cơ sở [75].
1.1.2.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Đã có nhiều tác giả, nhiều cơng trình khoa học, đề tài, đề án… nghiên cứu
về MHTTKT ở Việt Nam. Các nghiên cứu này đã phân tích, đánh giá những vấn
đề chủ yếu sau đây:


×