Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.27 KB, 27 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Năm đầu tiên cắp sách đến trường, trẻ vô cùng bỡ ngỡ với việc chuyển động chủ
đạo từ vui chơi sang học tập. Trong giờ học Tiếng Việt, trẻ phải thực hành: nghe,
nói, đọc và viết. Những nét chữ đầu tiên được các thầy cơ lớp 1 chăm chút, nắn nót
cầm tay từng em viết trong khuôn khổ ô ly dọc, ngang cẩn thận. Từng khoảng
cách, từng độ cao, từng nét chữ, điểm đặt bút, dừng bút,… đều được hướng dẫn
thực hiện rất chính xác. Nhưng bắt đầu từ học kì 2 lớp 1 trở lên, khi vận dụng các
chữ, các từ, các câu vào một đoạn văn, một bài học dài hơn, với số lượng môn học
nhiều hơn đã khiến cho các em có phần lúng túng và chữ viết bắt đầu thiếu sự cẩn
thận, nắn nót, chính xác. Đây chính là nỗi lo âu của các bậc phụ huynh có quan tâm
đến vấn đề này, và là niềm trăn trở không nhỏ của thầy cô dạy cấp tiểu học.
Sau nhiều lần ban hành những qui định về thay đổi chữ viết ở Tiểu học, nay
chương trình lại quay về với mẫu chữ mềm mại, thanh gọn như trước kia nhằm
giúp học sinh viết chữ đẹp và có thẩm mỹ hơn. Tuy nhiên, sau mỗi lần thay đổi
như vậy có những điều làm được và có những điều chưa làm được. Điều chưa làm
được là thực trạng chữ viết của học sinh hiện nay cịn xấu và thiếu chính xác. Các
em cịn viết sai, viết q chậm hoặc có những học sinh viết nhanh, học giỏi nhưng
chữ viết quá xấu, trình bày khơng sạch sẽ, rõ ràng. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ
đến chất lượng học Tiếng Việt nói riêng và các mơn học khác nói chung. Dạy học
ở lớp 1 tôi nhận thấy Tập viết là một trong những phân mơn có tầm quan trọng đặc
biệt. Việc rèn kĩ năng viết cho học sinh, nhất là học sinh ở các lớp đầu cấp tiểu học
lại càng quan trọng hơn. Vì vậy, tôi đã đi sâu vào học hỏi, rút kinh nghiệm qua
những năm giảng dạy tìm ra những biện pháp giúp học sinh viết chữ đẹp hơn, sạch
hơn và cẩn thận hơn, nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.

Nguyễn Thị Hương

Trang 1



II.MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
1. Mục tiêu:
Hình thành và xây dựng các biểu tượng về chữ viết, giúp các em hiểu và ghi nhớ
được hình dáng, kích thước, qui trình viết từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp các
em viết chữ một cách tự giác. Nhờ vậy kết quả học tập sẽ nhanh và chắc chắn hơn.
2. Phạm vi nghiên cứu:
a. Về nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu những phương pháp để rèn viết cho học sinh tiểu
học đạt hiệu quả.
b. Về thời gian:
Để thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành nghiên cứu bắt đầu từ năm 2017 đến
năm 2019.
III. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU:
Các biện pháp để rèn viết cho học sinh lớp một đạt hiệu quả.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Đề tài tự xác định những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
1. Cơ sở lí luận của đề tài.
2. Tìm hiểu thực trạng về biện pháp để rèn viết cho học sinh lớp một đạt hiệu quả
ở Trường Tiểu học Minh Thạnh.
3. Đưa ra những phương pháp hữu hiệu để rèn viết cho học sinh lớp một đạt hiệu
quả nhằm nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh lớp một.

Nguyễn Thị Hương

Trang 2


B. NỘI DUNG:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
Tập viết là một trong những phân mơn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học,

nhất là đối với các lớp đầu cấp. Phân môn Tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ La
tinh và những yêu cầu về kĩ thuật để sử dụng bộ chữ cái này trong học tập và giao
tiếp. Với ý nghĩa này Tập viết khơng những có quan hệ mật thiết tới chất lượng
học tập của các mơn học khác mà cịn góp phần rèn luyện một trong những kỉ năng
hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường – kỹ năng chữ viết. Nếu viết
đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy
kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng
học tập.
Mặt khác Tập viết là phân mơn có tính chất thực hành. Tính chất thực hành có
mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng của
phân mơn này ở trường tiểu học.
Ngồi ra Tập viết cịn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh
những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỉ luật và năng khiếu thẩm
mỹ.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Năm học 2017 – 2018, tôi được Ban Giám Hiệu phân công dạy lớp 1/3. Đây là
lớp học các em bắt đầu làm quen với việc học viết chữ theo mẫu. Chính vì vậy, chữ
viết các em đa số còn chưa đúng mẫu chữ, chưa đẹp và chưa đều nét. Tồn lớp có
39 em sau khi các em chuyển sang giai đoạn viết chữ nhỏ thì lớp có 15 em viết chữ
rõ nét. Số còn lại, chữ viết của các em không đúng độ cao của con chữ, chữ quá to
hoặc quá nhỏ, viết không đều nét và khơng được đẹp.
Từ hồn cảnh thực tế, bản thân tơi đã cố gắng nghiên cứu tìm mọi biện pháp
thích hợp nhằm rèn chữ viết cho học sinh đạt được mục tiêu tối thiểu; chữ viết
đúng mẫu, đều nét, đúng khoảng cách và nối chữ đúng qui định.
III. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU:
1. Thuận lợi:
Nguyễn Thị Hương

Trang 3



- Cơ sở vật chất của trường được trang bị rất tốt: bàn ghế đúng qui cách, kích
thước phù hợp với học sinh lớp 1, bảng chống lóa, đèn, quạt đầy đủ đảm bảo đủ
ánh sáng, thoáng mát cho học sinh.
- Mỗi giáo viên được trang bị một bộ chữ dạy Tập viết. Giáo viên được tham dự
những chuyên đề về Tập viết và tham gia các cuộc thi Viết chữ đẹp,… để học hỏi
và trau dồi kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy.
- Nội dung các bài Tập viết rõ ràng, phù hợp và cụ thể. Đặc biệt, học sinh cịn
được luyện thêm về cách viết chữ nghiêng.
2. Khó khăn:
- Lớp 1 / 3 có 39 học sinh, trong đó có 20 nữ, thuộc trường học hai buổi/ ngày,
nên học sinh khơng có điều kiện luyện viết thêm do cịn phải dạy các môn học
khác, buổi hai các em phải phụ đạo thêm mơn các em cịn chưa hồn thành hay bồi
dưỡng nâng cao them cho các em.
- Cách cầm bút và tư thế ngồi của học sinh đa số chưa đúng quy cách.
- Vở Luyện chữ của học sinh giấy bị nhòe mực khi học sinh sử dụng bút máy.
- Trình độ học sinh khơng đồng đều nên gặp nhiều khó khăn trong việc kèm các
em học nhất là môn Tập viết.
- Đa số phụ huynh vùng nông thôn ít quan tâm đến việc học tập của con em,
nhất là còn quan niệm về viết chữ đẹp là do có hoa tay hay do năng khiếu bẩm sinh
nên khơng đòi hỏi con viết chữ đẹp. Phụ huynh chưa nắm vững mẫu chữ, không
theo dõi phần rèn chữ cho con em ở nhà.
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Phân loại học sinh:
Việc phân loại học sinh là bước đầu tiên để giáo viên có cơ sở rèn cho học sinh
chữ viết. Sau khi học sinh bước vào học kì II tơi tiến hành kiểm tra vở viết của các
em và chấm điểm giữ vở sạch - viết chữ đẹp cho từng em rồi tiến hành phân loại
theo thang điểm A – B - C. Trên cơ sở khảo sát, phân loại học sinh, tơi lập chương
trình rèn chữ viết cho học sinh, để giúp đỡ các em viết đúng qui định hơn.


Nguyễn Thị Hương

Trang 4


Sau đây là bảng thống kê giữ vở sạch – viết chữ đẹp lớp 1/3 đầu học kì II năm
học 2017 – 2018.
Sĩ số: 39 học sinh
Sĩ số lớp

39 HS

Xếp loại Vở sạch chữ đẹp
A

Tỉ lệ

B

Tỉ lệ

C

Tỉ lệ

9

23,08

15


38,46

15

38,46

Sau đây là bảng thống kê giữ vở sạch – viết chữ đẹp lớp 1/3 đầu năm học
2018 – 2019.
Sĩ số: 40 học sinh
Sĩ số lớp

40 HS

Xếp loại Vở sạch chữ đẹp
A

Tỉ lệ

B

Tỉ lệ

C

Tỉ lệ

9

22,5


15

37,5

16

40

Kết quả kiểm tra ở trên tôi nhận thấy số lượng học sinh viết chữ xấu còn quá
nhiều, nghĩa là học sinh có điểm trung bình trở xuống. Điều này cho thấy cần phải
có biện pháp để rèn chữ viết cho các em.
2. Chuẩn bị:
* Đồ dùng học tập cho học sinh:
Ngay từ cuộc họp phụ huynh từ đầu năm, tôi đã thống nhất chung về việc chuẩn
bị đồ dùng học tập của học sinh trong lớp.
- Tập vở: Tồn bộ sử dụng tập có kẻ 5 ơ li dọc, ngang, giấy tốt khơng nhịe mực.
- Bảng con: Có đường kẻ ô li, tránh sử dụng bảng làm bằng chất liệu mê ca
trắng, dùng bút dạ viết chữ có nhiều hạn chế: bảng trơn học sinh viết không chủ
động, mực ra đậm nhạt không đều, bút to quá cỡ tay học sinh,… chữ viết không
đẹp.
- Viết mực: Sử dụng viết máy (có nét thanh, đậm càng tốt), mực tím. Tuy nhiên
đa số phụ huynh thường cho học sinh sử dụng bút lơng kim vì tiện lợi, rẻ tiền,…
nhưng màu mực và nét chữ khơng đẹp, khơng đồng bộ vì nhiều loại khác nhau.
3. Tiến hành thử nghiệm:
Nguyễn Thị Hương

Trang 5



Sau khi có kết quả kiểm tra tơi chọn một học sinh có chữ viết khơng rõ ràng, viết
khơng ngay hàng thẳng lối để tiến hành thử nghiệm. Cứ mỗi buổi học vào giờ tập
viết, tôi dạy cho em được khái niệm về dòng kẻ, đường kẻ, tương đương với bao
nhiêu ô li? Đặt bút ở đường kẻ nào? Dừng bút ở đường kẻ nào? Chữ cái đó có mấy
nét? Tên gọi các nét? Vị trí dấu phụ và dấu thanh đặt ở đâu? Cách nối nét như thế
nào?... Từ đó hình thành cho các em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự
cân đối, tính thẩm mỹ của chữ viết.
Trước khi hướng dẫn các em viết vở, tôi hướng dẫn các em cách cầm bút, cách
để vở và ngồi đúng tư thế. Một bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế đúng, rèn cho
các em viết đẹp mà quên đi việc uốn nắn cách ngồi cho các em là một thiếu sót lớn
của giáo viên. Việc tập viết không đảm bảo đúng các qui định được xây dựng trên
cơ sở khoa học sẽ để lại nhiều di hại suốt đời cho học sinh như: mắt cận thị do ngồi
viết ở nơi thiếu ánh sáng hoạc cúi đầu sát vở, cột sống bị vẹo, lưng gù, phổi bị ảnh
hưởng do ngồi khơng đúng tư thế. Vì vậy khi hướng dẫn cho học sinh tập viết, cần
coi trọng việc phối hợp đồng bộ các bộ phận trên cơ thể được coi là một nguyên
tắc đặc thù.
Tiếp theo, tôi dạy cho các em các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp,
dạy cho em kĩ năng viết các nét, cách lia bút và cách nối nét. Đồng thời giúp các
em xác định được khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ơ li để hình thành kĩ năng
viết đúng mẫu, rõ ràng và tiến tới là viết đẹp, viết nhanh.
Hằng ngày tôi giao cho em viết một trang trên vở rèn viết chữ đẹp và giao cho
một em viết chữ đẹp kiểm tra và báo cáo lại kết quả cho giáo viên chủ nhiệm vào
đầu mỗi buổi học. Cứ như thế tôi tiến hành thử nghiệm trong thời gian 1 tháng.
Để xác định lại kết quả rèn chữ viết của học sinh được thử nghiệm, tôi cho em
học sinh đó thi viết chữ đẹp với những em viết chữ đẹp khác của lớp. Tôi so sánh
kết quả và nhận thấy rằng chữ viết của em không khác gì so với chữ viết của
những em viết chữ đẹp khác. Như vậy, đó là một dấu hiệu tốt của một hướng đi
đúng trong việc rèn viết chữ đẹp cho học sinh.

Nguyễn Thị Hương


Trang 6


Thế là tôi tiến hành rèn chữ viết cho học sinh tồn lớp. Với 16 em, viết chữ
khơng rõ nét, 15 em viết chữ không đều, tôi phân các em đều vào 3 nhóm với nhau
để thi đua.
Phải nắm vững khả năng chữ viết, phát hiện lỗi chữ của từng học sinh.
Phân nhóm:
+ Học sinh viết đẹp thì bồi dưỡng cho học sinh đi thi viết chữ đẹp.
+ Học sinh viết đúng thì rèn để giữ được nét, có nâng cao để viết đẹp.
+ Học sinh viết còn xấu, sai thì uốn nắn từng em
Từ đó chỉ dẫn cụ thể cho từng em để sửa chữa sai sót, dần dần hướng tới viết
đúng, viết đẹp. Bên cạnh đó đối tượng đặc biệt quan tâm là số học sinh viết xấu và
chậm, cũng như số học sinh viết đúng, đẹp để có hướng phụ đạo, bồi dưỡng nâng
cao.
Như vậy, để việc luyện tập thực hành của học sinh có hiệu quả, sản phẩm là chữ
viết của các em đúng và đẹp, theo tôi người giáo viên cần tiến hành như sau:
1. Giáo viên cần cú ý đến giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn
học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu
tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ qui định. Việc
rèn kĩ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân
môn tập viết cũng như các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và ở các môn học
khác.
2. Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần luôn luôn chú ý uốn nắn để các
em cầm bút và ngồi viết đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế đúng. Rèn
cho trẻ viết đẹp mà quên mất đi việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn
của giáo viên
Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp, đúng mẫu là ngồi viết

đúng tư thế, cách cầm bút và cách đặt vở đúng trên bàn. Trước hết là tạo sự thoải
mái cho các em khi viết. Một thực trạng là bàn ghế đã đúng quy cách và phù hợp
với các em học sinh nhưng gần như các giáo viên không để ý, không dạy các em
để cặp đúng chỗ. Các em thường để ở ghế. Chỗ ngồi chật, các em ngồi sát bàn,
Nguyễn Thị Hương

Trang 7


ngực tì vào bàn và thế là viết chữ bị nghiêng vẹo do tư thế ngồi không thoải mái.
Do vậy việc đầu tiên, tưởng rất nhỏ nhưng cực kì quan trọng là tạo nề nếp treo
cặp bên hông bàn trước khi vào buổi học. Tôi hướng dẫn cả lớp tư thế ngồi viết
đúng: “Ngồi tư thế ngay ngắn, lưng thẳng, khơng được tì ngực vào cạnh bàn, đầu
hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng 25 – 30 cm. Tay trái giữ vở, tay phải cầm
bút”. Tơi giải thích cho các em hiểu: “Tư thế ngồi viết không ngay ngắn sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng vẹo sẽ kéo theo chữ viết khơng thẳng,
bị lệch dịng. Khơng những thế cịn có hại cho sức khỏe: sẽ bị cận thị nếu chúi sát
vở, ngồi không ngay ngắn sẽ bị cong vẹo cột sống, gù lưng, phổi bị ảnh hưởng,…
Khi viết cầm bút bằng ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay
phải, đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái phía bên trái, phía bên phải của
đầu bút tựa vào đầu đốt giữa ngón tay giữa”. Tôi cũng lưu ý các em khi viết dùng
ba ngón tay di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút nghiêng về phía bên phải cổ
tay, khủy tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái, tay cầm bút vừa phải vì
nếu cầm bút sát ngịi hoặc q xa ngịi bút thì việc điều khiển bút khi viết sẽ khó
khăn, làm cho chữ xấu và mực dễ giây ra tay, ra vở. Đặt vở mở không gập đơi, để
hồn tồn trên mặt bàn, hơi nghiêng về bên trái sao cho mép vở song song với
cánh tay, vở nghiêng khoảng 15 độ so với cạnh bàn.
- Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ học Tập viết tôi thường yêu cầu các
em nhắc lại tư thế ngồi viết: “Muốn viết đẹp, các em phải ngồi như thế nào?”.
Dần dần các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế.

- Những yếu tố trên tưởng chừng như không quan trọng nhưng thực chất đã
góp phần tích cực và ảnh hưởng không nhỏ đến việc rèn chữ cho học sinh.

Nguyễn Thị Hương

Trang 8


Hình tư thế ngồi đúng
Hình tư thế ngồi viết đúng

Nguyễn Thị Hương

Trang 9


Hình cách cầm viết đúng
Trong quá trình dạy tập viết, tôi thường củng cố nhắc lại và khắc sâu cho các em
nhớ lại cách viết từ những ngày đầu các em cầm bút ở lớp 1.
Trước tiên tôi hướng dẫn các em nhớ các đường kẻ 1,2,3,4 trong bảng con và
trong vở Em tập viết đúng viết đẹp. Việc này góp phần quan trọng vào việc nâng
cao chất lượng dạy viết chữ ở Tiểu học.
Trong quá trình luyện viết cho học sinh, tơi thường lưu ý các hình thức luyện tập
cơ bản sau:
Hình thức thứ nhất: Luyện các thao tác chuẩn bị viết chữ, học sinh dùng que chỉ
“đồ” trên mẫu ở phần hướng dẫn qui trình viết; viết bằng ngón tay vào khoảng
khơng trước mặt, nếu cần có thể tập viết nét khó, nét đặc biệt chú ý để viết được
đúng và đẹp.
Ví dụ: Khi tơ chữ A hoa. Giáo viên dùng que chỉ và đưa ra hệ thống câu hỏi:
+ Hãy nhìn lên bảng và cho cơ biết đây là chữ gì?

+ Chữ A hoa được cấu tạo bởi mấy nét? (gồm 3 nét)
+ Cho cô biết nét thứ nhất của chữ A hoa là nét gì? (nét 1 gần giống nét móc
ngược trái và hơi lượn về phía trên và nghiêng về phía bên phải).
+ Nét thứ 2 là nét gì?
Giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: Chữ A hoa gồm mấy nét chữ ghép lại?
Sau đó học sinh luyện viết trên không từng nét.
Nguyễn Thị Hương

Trang 10


Hình thức thứ hai: Luyện viết trên bảng lớp. Hình thức tập viết chữ trên bảng
lớp có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và bước đầu đánh giá kỹ năng
viết chữ của học sinh. Hình thức này thường dùng trong một quá trình viết tiếng và
từ. Qua đó giáo viên phát hiện chỗ sai của học sinh (về hình dáng, cách viết, thứ tự
các nét,…) để uốn nắn chung cho cả lớp hoặc đánh giá, nhận xét.
Ví dụ: Khi dạy bài Tô chữ A, Ă, Â, B - mái trường, điều hay, sao sáng, mai
sau. Giáo viên yêu cầu 2 - 3 học sinh lên bảng tô chữ “A”. Giáo viên quan sát xem
học sinh đã tơ đúng theo qui trình chưa (nét móc ngược trái, nét thẳng đứng, thẳng
xiên và nét móc ngược phải), học sinh đã chú ý vào điểm nhấn của chữ để con chữ
này mềm mại và đẹp chưa (nét thẳng đứng hơi lượn sang trái ở phần cuối của nét
2).
Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh viết vần và từ ứng dụng, giáo viên gợi
ý học sinh lên bảng viết. Giáo viên quan sát học sinh viết.
Hình thức thứ ba: Luyện viết chữ trên bảng con.
Bảng con:
1. Đường kẻ ngang trên
2. Đường kẻ ngang giữa
3. Đường kẻ ngang dưới
4. Đường kẻ ngang phía dưới

Ví dụ: Có những cái cao 2 ô li rưỡi, được xác định bằng đường kẻ ngang trên,
đường kẻ ngang giữa và đường kẻ ngang dưới như các chữ hoa và các chữ thường
b, h, l, k; hoặc xác định bằng đường kẻ ngang giữa, đường kẻ ngang dưới và
đường kẻ ngang phía dưới như: g, y,…
Học sinh luyện tập viết chữ bằng phấn trên bảng con trước khi học sinh tập viết
vào vở. Học sinh có thể viết chữ cái hoa, tập viết vần, chữ ghi tiếng ứng dụng. Khi
sử dụng bảng con giáo viên cần hướng dẫn các em cách lau bảng từ trên xuống
dưới, cách sử dụng và bảo quản phấn (phấn phải để vào hộp riêng cho khô), cách
lau tay sau khi viết để giữ vệ sinh (phải có khăn ẩm để lau bảng, một khăn khác chỉ

Nguyễn Thị Hương

Trang 11


dùng để lau tay). Viết vào bảng xong, học sinh cần phải giơ để giáo viên kiểm tra,
nhận xét, sửa lỗi vào ngay bảng của học sinh nếu có.
Hình thức thứ tư: Luyện viết trong vở, muốn cho học sinh sử dụng vở Em tập
viết đúng viết đẹp có hiệu quả, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu
kĩ năng của từng bài. Quá trình hướng dẫn học sinh luyện tập viết chữ giáo viên
cần phải lưu ý rèn các thói quen cho học sinh: ngồi viết đúng tư thế, để vở đúng
qui cách và biết xê dịch vở khi viết, cầm bút viết đúng qui định.
Vở luyện chữ của các em đã có sẵn đường kẻ, tôi hướng dẫn để các em nắm
được một số qui ước về cách gọi.
Ví dụ: Khi dạy bài Tô chữ A, Ă, Â, B - mái trường, điều hay, sao sáng, mai
sau.
Ở dịng đầu tiên tơ chữ “A” cỡ nhỡ, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ chữ
viết mẫu trong vở để xác định điểm đặt bút, độ lượn của phần đầu và độ uốn của
phần lưng chữ “ A”. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh viết từng chữ một, sau đó
rút kinh nghiệm của chữ trước để viết đẹp hơn.

Khi học sinh luyện viết chữ ghi từ ứng dụng “mái trường, điều hay, sao sáng,
mai sau”, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ cách nối từng chữ, học sinh cũng
viết từng chữ một để khắc sâu trí nhớ và rút kinh nghiệm cho chữ sau.
Hướng dẫn viết nối nét: khi học sinh đã viết các chữ đúng mẫu, thì việc nối chữ
cũng rất quan trọng. Học sinh biết cách nối chữ đúng thì bài viết mới rõ ràng, đều
và đẹp được, hơn nữa mới đảm bảo được tốc độ viết ở những lớp trên. Tôi hướng
dẫn kĩ học sinh cách điều tiết điểm dừng bút của chữ đứng trước sao cho hợp lý. Ví
dụ khi nối nét: “uê”, từ chữ u sang chữ “ê”, nét kết thúc của chữ cái đứng trước
cao lên một chút, điểm bắt đầu của chữ “ê” đi sau thấp xuống một chút và kéo dài.
Dấu thanh: thực tế khi chấm bài tôi nhận thấy học sinh mắc tình trạng các dấu
thanh viết cao quá, ảnh hưởng lớn đến chất lượng chữ. Dấu thanh không được viết
to quá, bé quá mà phải viết vừa phải và đặt đúng vị trí, cũng khơng được dính vào
chữ. Thường giáo viên ít để ý đến dấu thanh, giáo viên nên nhắc nhở học sinh nhất
là các em hay viết sai dấu thanh.
Nguyễn Thị Hương

Trang 12


Cách viết chữ nghiêng hiệu quả:
Luyện viết nghiêng thật sự rất khó, khi viết nghiêng tất cả các chữ đều nghiêng
khoảng 15 độ về bên phải. Thực tế, học sinh hay mắc phải các lỗi: viết nghiêng
nhiều quá; hay trong câu lẫn lộn chữ nghiêng, chữ đứng; có em khơng xác định
được độ nghiêng của các nét cong, nét lượn, hoặc các nét nghiêng không song
song; cách nối nét quá dài,… Đa số học sinh đều gặp phải những khó khăn trên.
Nhưng theo tôi khi đã nắm vững độ nghiêng của từng nét chữ cơ bản từ chữ hoa
cho đến chữ thường, chữ số thì việc viết nghiêng khơng khó nữa.
Tơi cũng hướng dẫn luyện nét nghiêng theo nhóm chữ và luyện từng nét cơ bản
Viết nét thanh, nét đậm:
Hiện nay, trong phong trào thi Viết chữ đẹp bài thi viết nét thanh, nét đậm và

sáng tạo thật sự thu hút và tạo ấn tượng cho ban giám khảo. Trong Vở Luyện chữ
mỗi tuần viết một bài chữ hoa gồm hai trang: trang một viết chữ đứng và trang hai
viết chữ nghiêng, nét thanh, nét đậm. Khi viết chữ, các em thể hiện nét thanh khi
viết các nét đưa bút từ dưới lên. Viết nét đậm khi các em viết các nét từ trên xuống
dưới, các em chỉ hơi nhấn tay khi viết nét đậm. Các cây bút có ngịi được mài, các
nét sẽ thể hiện dẽ dàng hơn các cây bút có ngịi nhuyễn như viết lơng kim. Tránh
tình trạng mực ra khơng đều hay tơ nét.
Cách trình bày, giữ vở sạch đẹp:
* Trình bày vở:
- Dịng 1: Ghi thứ, ngày, tháng, năm lùi vào 2 ơ.
- Dịng 2: Lùi vào 6 ơ, gạch ngang ngắn 3 ơ.
- Dịng 3: Ghi mơn học lùi vào 6 ơ.
- Dịng 4: Ghi tựa bài tùy theo dài ngắn viết cân đối giữa dòng.
- Mỗi khi hết câu chấm xuống dòng lùi vào 1 ô.
- Viết xong một bài phải kẻ một đường ngắn cách hai đầu 4 ô, độ dài đường kẻ
ngắn là 8 ô. Hết một buổi học kẻ đường dài từ lề đỏ đến hết trang giấy.
- Không được dùng tảy hoặc bút xóa. Muốn bỏ một chữ phải dùng thước kẻ
gạch lên trên chữ đó.
* Trình bày bài văn hoặc bài thơ:
Nguyễn Thị Hương

Trang 13


- Nếu là bài thơ có 4 hoặc 5 chữ mỗi dòng phải viết cân đối giữa trang giấy.
- Nếu là bài thơ có 6, 7 chữ mỗi dịng hoặc hơn, mỗi câu lùi vào 2 ơ ( tính từ lề
đỏ).
- Nếu là bài thơ lục bát thì câu 6 chữ lùi vào 2 ô, câu 8 chữ lùi vào 1 ơ.
Hình thức thứ năm: Luyện tập viết chữ khi học các mơn học khác.
Ngồi giờ tập viết, giáo viên cịn phải ln nhắc nhở học sinh tập viết ở các mơn

khác. Có như thế việc luyện chữ mới được củng cố đồng bộ thường xuyên, nhằm
nâng cao chất lượng chữ viết và hình thành ở học sinh những phẩm chất tốt như
tính kiên trì, cẩn thận, khiếu thẩm mỹ. Việc này địi hỏi giáo viên ngồi những hiểu
biết về chun mơn cần có sự kiên trì, tính cẩn thận và lòng yêu nghề mến trẻ.
4. Các phƣơng pháp thử nghiệm:
a. Tổ chức nhóm:
Việc phân nhóm là để tạo mối quan hệ tình cảm bạn bè với nhau, cùng giúp đỡ
nhau trong học tập và nhằm để cho các em thi đua lẫn nhau. Ngoài việc hướng dẫn
cảu giáo viên, tôi giao trách nhiệm cho những em viết chữ đẹp hướng dẫn và giúp
đỡ các bạn hằng ngày từ việc tô các nét cơ bản đến tô chữ, tập viết các chữ cái, đến
từ ứng dụng vào những giờ tập viết, giờ chuyển tiết, những buổi sinh hoạt tập thể
và có lúc luyện cả vào những buổi học 4 tiết , những buổi học gộp nội dung bài lại
với nhau, thực hiện theo việc khốn chương trình của mỗi giáo viên.
b. Thi đua giữa các nhóm:
Trong những giờ dạy tập viết tơi chia lớp thành 4 nhóm nhỏ và đặt tên nhóm
theo tên các con vật, đồ vật như: nhóm Mèo con, nhóm Thỏ ngọc,... Tơi cho các
nhóm thi đua với nhau, nhóm nào có nhiều bài viết đẹp thì nhóm đó được nhận cờ
thi đua của lớp.
Tơi cho các nhóm nhận xét bài viết của nhóm của các bạn trong nhóm hoặc ở các
nhóm khác. Việc làm này giúp các em nhìn thấy được mặt hạn chế của mình qua
nhận xét của các bạn. Từ đó giúp các em tham gia sửa chữa những chữ viết sai.
Như vậy thông qua việc học nhóm, khơng những giải quyết được rèn chữ viết cho
các em mà còn tạo điều kiện cho các em thi đua học tập với nhau. Các em biết tự
đánh giá mình và tự đánh giá lẫn nhau.
Nguyễn Thị Hương

Trang 14


c. Trò chơi học tập:

Việc xây dựng trò chơi học tập trong giờ tập viết là một hình thức tổ chức lớp
học, hoạt động dưới dạng: “Học mà chơi - chơi mà học”. Trong trò chơi học tập,
giáo viên giúp các em củng cố lại những kiến thức rèn kĩ năng thực hành, tạo mối
quan hệ đoàn kết trong học tập.
Ví dụ: Giáo viên cho các chữ cái trên bảng học sinh phải xếp các chữ cái có độ
cao giống nhau vào cột của nhóm mình (nhóm chữ có độ cao 1 ơ li, nhóm chữ có
độ cao 2 ơ li rưỡi, nhóm chữ có độ cao 1 ơ li rưỡi).
Cách chơi: 3 nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang. Giáo viên hơ “bắt đầu”
thì mỗi nem trong nhóm lên chọn chữ xếp vào nhóm của mình. Nhóm nào ghép
đúng và nhanh thì được cả lớp vỗ tay tuyên dương.
Như vậy khi vận dụng trò chơi, giáo viên cần lựa chọn những hình thức sao
cho phù hợp với học sinh của lớp mình để đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy
học.
d. Nhận xét và khen thƣởng:
Nhận xét:
Trong mỗi giờ dạy tập viết, những em nào có chữ viết dần tiến bộ, chữ viết rõ
nét hơn, kể cả việc ghi chữ trong vở, trên bảng lớp hoặc trên bảng con, tôn nhận
xét: “So với trước chữ viết của em đúng mẫu và đều nét hơn rồi đó. Các em cố
gắng hơn nữa nhé!”. Khi đó, tơi thấy trong ánh mắt các em đang sáng lên một niềm
vui. Điều đó tạo được niềm tin và hứng thú trong học tập của các em.
Khen thưởng:
Sự tuyên dương, khen thưởng có sức mạnh rất lớn về mặt tinh thần, có tác
dụng động viên, khuyến khích các em phấn đấu vươn lên, nhất là những em học
kém, viết chữ chưa đẹp. Lời nhận xét tế nhị, tôn trọng và tin tưởng vào khả năng
các em, lời phê rõ ràng. Viết bằng nét chữ đúng mẫu, đẹp của GVCN sẽ giúp các
em rất nhiều. Khi các em viết sai tôi thường phê: “Em nên viết nét khuyết đúng 2 ô
li rưỡi nhé! Hay Khoảng cách chữ của em chưa đúng một chữ o,…”

Nguyễn Thị Hương


Trang 15


Sau mỗi giờ tập viết, tơi tổng kết nhóm nào có số lượng bạn viết chữ đẹp nhiều
nhất thì nhóm đó được cả lớp vỗ tay tuyên dương và cuối tuần được xếp loại thi
đua của tổ.
- Tôi đã phát động phong trào thi đua hàng tuần trong lớp theo dõi học sinh về
các mặt: Vệ sinh, trật tự, học tập, rèn chữ. Có sơ kết hàng tuần tuyên dương , nhận
xét cho các cá nhân, tập thể tổ đạt kết quả học tập, rèn chữ tốt cá nhân xuất sắc
trong lớp.
e. Sử dụng đồ dùng dạy học:
Việc sử dụng đồ dùng dạy học là yếu tố rất quan trọng trong q trình dạy học,
nó khơng chỉ thực hiện chức năng minh họa mà còn là nguồn tri thức để học sinh
khám phá và phát huy tính tích cực học tập cho học sinh đạt hiệu quả cao trong giờ
học. Mỗi bài tập viết đều có chữ mẫu in sẵn (Mẫu chữ Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ban hành), nhằm giúp các em quan sát, nhận biết, quan sát hình dáng, cấu tạo của
chữ như: chữ có độ cao mấy li? Tương đương với bao nhiêu dòng kẻ? Chữ được
viết mấy nét? Là những nét gì? Các nét đó như thế nào? Có hình dạng ra sao?
Dừng bút ở dịng kẻ nào?... Từ đó, giúp học sinh phát hiện được sự giống nhau và
khác nhau giữa chữ đang viết với chữ đã viết.
Ví dụ: Chữ Q: nét 1 giống chữ O nhưng có nét lượn ngang giống như một dấu
ngã lớn.
Giáo viên củng cố lại những chữ khó viết mà học sinh thường viết sai.
Ví dụ: Những chữ có vòng xoắn, nét khuyết, nét cong.
Chữ C và chữ E có nét cong dưới giống nhau, nhưng nét cong dưới của chữ

C có độ cao 1,25 đơn vị; cịn nét cong dưới của chữ E có độ cao 1 đơn vị.
Ngồi chữ mẫu in sẵn, giáo viên cịn chuẩn bị mẫu chữ cỡ nhỏ trên giấy khổ to,
giáo viên viết sẵn: từ ứng dụng, câu ứng dụng giúp cho học sinh viết đúng. Giáo
viên làm sẵn các bộ nét chữ rời của các chữ cái để cho học sinh chơi trò chơi nhằm

giúp cho các em củng cố lại cấu tạo của chữ cái.

Nguyễn Thị Hương

Trang 16


Như vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học giúp cho học sinh hình thành kỹ năng
viết đúng mà cịn có khả năng phân tích hình dáng, kích thước và các nét cơ bản về
cấu tạo chữ cần viết trong từng đơn vị bài học.
h. Góc Vở sạch – Chữ đẹp:
Tôi trưng bày các bài kiểm tra hàng tháng đạt điểm cao về rèn chữ, các quyển
tập học sinh đạt tiêu chuẩn vở sạch, chữ đẹp để cả lớp học tập, noi gương và là
động lực để giúp các em có sự thi đua tiến bộ.
Ngồi ra kết quả đánh giá xếp loại hàng tháng cũng được dán lên để học sinh
trong lớp và phụ huynh nắm được kết quả rèn chữ của con em mình, nhằm kịp thời
có biện pháp động viên, nhắc nhở.

Nguyễn Thị Hương

Trang 17


Góc chữ đẹp
- Cuối giờ học Tập viết tơi thường cho các em trao đổi vở cho nhau. Các em
nhận xét bài viết của bạn và bài viết của chính mình để các em nhận ra những điểm
được và chưa được để sửa chữa.
- Tổ chức một số trò chơi để tránh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh: Thi viết
đẹp, thi viết nhanh hình thức cá nhân hay đội để giờ học sôi nổi, sinh động.
- Trong giờ sinh hoạt lớp tôi thường kể cho các em nghe những câu chuyện về

tấm gương kiên trì trong việc luyện chữ viết như: Thần siêu luyện chữ, Tấm gương
của Nguyễn Ngọc Ký bị liệt cả hai tay nhưng vẫn kiên trì luyện viết bằng chân và
đã thành công,… hay cụ thể ngay những tấm gương luyện chữ có tiến bộ trong lớp,
trong khối,… để các em noi gương học tập.
- Không riêng môn Tập viết mà ngay cả khi các em học các môn học khác tôi
cũng thường xuyên nhắc nhở các em viết đẹp, giữ vở sạch và trình bày rõ ràng.
Nhờ vậy mà kết quả học tập của các em đã tiến bộ rõ rệt.
g. Vai trò hoạt động của giáo viên:
Trong giờ dạy tập viết vai trò của giáo viên rất quan trọng. Mỗi thầy cô giáo
được xem là một tấm gương để học sinh noi theo. Nếu giáo viên viết như thế nào
thì học sinh viết như thế đó. Chính vì vậy, người giáo viên phải có đức tính kiên trì
tận tình. Sự nhiệt huyết chu đáo của giáo viên là một trong những yếu tố đảm bảo
sự thành công của giờ dạy tập viết. Chữ viết của giáo viên được xem như là một
bản chính giúp cho học sinh “bắt chước” để luyện viết. Việc viết mẫu của giáo
Nguyễn Thị Hương

Trang 18


viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp, giúp học sinh nắm bắt được quy trình
viết từng nét của từng chữ cái. Do vậy giáo viên phải viết chậm, đúng theo qui tắc
viết chữ. Khi viết mẫu, giáo viên cần tạo điều kiện để cho học sinh nhìn thấy tay
của giáo viên viết từng nét chữ.
Khi viết giáo viên nên kết hợp giảng giải, phân tích: đưa bút như thế nào? Thứ
tự các nét viết ra sao? Giáo viên cũng cần chú ý phân tích cả cách viết dấu phụ và
dấu thanh.

Nguyễn Thị Hương

Trang 19



C. KẾT QUẢ:
Trải qua một thời gian thử nghiệm, tôi nhận thấy khơng khí học tập của cả lớp
sơi nổi hẳn lên. Chữ viết của các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Do nắm được vai trò
quan trọng của môn Tập viết nên những việc làm trên đã được tôi tiến hành một
cách thường xuyên trong các giờ Tập viết. Nếu so với đầu học kì II, nhiều em cịn
viết xấu, thậm chí cịn lệch dịng kẻ, sai cỡ chữ thì chữ viết của các em cuối năm
học đã tiến bộ nhiều, tương đối đều, bài viết sạch đẹp hơn
Cụ thể là:
- Nhiều em viết chữ đúng chuẩn, sạch, đẹp.
- Đa số các em đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 1 theo từng giai
đoạn.
- Tập vở các môn học và vở Luyện chữ của các em đã được giữ cẩn thận, sạch
đẹp, trình bày rõ ràng hơn.
- Kết quả xếp loại Vở sạch – Chữ đẹp cuối năm:
Số lượng học sinh được công nhận giữ vở sạch viết chữ đẹp như sau:
Năm học 2017 – 2018
Sĩ số: 39 học sinh
Đầu học kì II

Giữa học kì II

Cuối năm

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng


Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

22

56,5%

31

79,48%

39

100%

Số lượng học sinh được công nhận giữ vở sạch viết chữ đẹp như sau:
Học kì II năm học 2018 – 2019
Sĩ số: 40 học sinh
Đầu học kì I

Cuối học kì I

Số lượng

Tỉ lệ


Số lượng

Tỉ lệ

24

58%

35

87,5%

Nguyễn Thị Hương

Trang 20


D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Đối với mỗi giáo viên:
- Đòi hỏi đầu tiên theo tơi đó là sự quan tâm, nhiệt tình, yêu thương học sinh.
Trong mỗi giờ dạy, người giáo viên phải tạo được sự say mê cho bản thân mình
cũng như tạo hứng thú cho học sinh.
- Bản thân mỗi giáo viên luôn ý thức là: “Tấm gương sáng cho học sinh noi
theo”, nên phải rèn viết đúng, đẹp và cẩn thận khi viết bảng cũng như trình bày hồ
sơ, sổ sách cá nhân, khi ghi các lời phê trong vở học sinh,…
- Việc rèn luyện phải có sự kiên trì thường xuyên mới đạt hiệu quả.
- Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng, có tiến bộ
trong việc rèn chữ, giữ vở.
Đúc kết q trình rèn chữ viết cho học sinh, tơi rút ra được những bài học kinh
nghiệm như sau:

1. Xác định mục tiêu, nội dung tối thiểu của việc rèn chữ viết cho học sinh.
2. Phân loại mức độ chữ viết của các em để lập kế hoạch xây dựng chương trình
rèn chữ viết cho các em.
3. Tiến hành thử nghiệm một vài em, sau đó tiến hành đại trà cho cả lớp theo các
bước sau:
Hình thành và xây dựng các biểu tượng về chữ viết, giúp các em hiểu và ghi nhớ
được hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái. Những hiểu biết này giúp
các em viết chữ một cách tự giác. Nhờ vậy, kết quả đạt được sẽ nhanh hơn và chắc
chắn hơn.
Củng cố hoàn thiện các biểu tượng về chữ viết thơng qua các hình thức luyện
tập chữ viết: luyện viết các chữ cái, liên kết các chữ cái để luyện viết từ, cao hơn là
viết câu ứng dụng, luyện viết đoạn văn,…
Phân công cho học sinh viết chữ đẹp kèm cặp giúp đỡ những em có chữ viết
chưa chuẩn.
Thi đua viết chữ đẹp giữa các nhóm, tạo sự hứng thú học tập cho các em.

Nguyễn Thị Hương

Trang 21


Xây dựng một số trò chơi học tập như: sắp xếp các chữ cái, thi viết các chữ
cái đã học,… để cho học sinh củng cố lại cấu tạo các chữ cái và cách viết các chữ
cái.
Kịp thời động viên, khen thưởng những học sinh về sự tiến bộ của các em, dù
đó là một sự tiến bộ nhỏ, tạo cho các em có một niềm tin và hứng thú hơn trong
học tập.
4. Mỗi giáo viên phải có đức tính kiên trì, tận tình. Sự nhiệt tâm, chu đáo của
giáo viên chỉ là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của giờ dạy tập
viết. Mỗi thầy cô giáo phải ra sức rèn luyện chữ viết của mình để làm gương cho

học sinh noi theo.
Kết quả rèn luyện chữ viết cho học sinh không phải ngày một, ngày hai mà có
được. Mà đó là kết quả của quá trình dày cơng và khổ luyện của thầy và trị dưới
sự dìu dắt, chăm sóc tận tình của thầy, cơ giáo.

Nguyễn Thị Hương

Trang 22


E. KẾT LUẬN
Tôi tin tưởng rằng, nếu mỗi giáo viên có ý thức rèn luyện và tận tâm dạy bảo
cho học sinh thì chắc chắn sẽ được nhiều học sinh viết chữ đẹp, sạch sẽ. Sau này
các em sẽ trở thành những con người có tính cẩn thận, kiên trì, làm việc có khoa
học, xứng đáng là những người chủ tương lai của đất nước. Như lời của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết là biểu tượng của con người. Dạy học sinh viết
đúng mẫu, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lịng tự trọng
đối với mình cũng như đối với thầy cơ và các bạn đọc của mình”. Việc rèn chữ cho
học sinh là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo. Rèn được học sinh viết chữ đẹp là
niềm vui của thầy cô, hạnh phúc của trẻ và là niềm tự hào của cha mẹ.
Mong rằng phong trào “Rèn chữ giữ vở” mang tính truyền thống của ngành giáo
dục sẽ tồn tại mãi để cả giáo viên và học sinh có thể qua đó “Rèn nết người” như
lời người xưa bảo: “Nét chữ - Nết người”.
Những kinh nghiệm trên đã được đúc rút qua quá trình trực tiếp giảng dạy, học
hỏi đồng nghiệp chắc chắn sẽ có nhiều khiếm khuyết. Rất mong được sự đóng góp
chân thành của Ban Giám hiệu nhà trường và các đồng nghiệp.
Minh Thạnh, ngày 10 tháng 06 năm 2018
Ngƣời thực hiện

Nguyễn Thị Hương


Nguyễn Thị Hương

Trang 23


MỤC LỤC
NỘI DUNG

STT

TRANG

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1

2

I. Lí do chọn đề tài

1

3

II. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đề tài

2


4

III. Đối tượng nghiên cứu

2

5

IV. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

6

B. NỘI DUNG

3

7

I. Cơ sở lí luận của đề tài

3

8

II. Cơ sở thực tiễn

3


9

III. Thực trạng nghiên cứu

3

10

IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề

4

11

1/ Phân loại học sinh

4

12

2/ Chuẩn bị

5

13

3/ Tiến hành thử nghiệm

5


14

4/ Các phương pháp thử nghiệm

14

15

4.1./ Tổ chức nhóm

14

16

4.2/ Thi đua giữa các nhóm

14

17

4.3/ Trị chơi học tập

15

18

4.4/Nhận xét – Khen thưởng

15


19

4.5/ Sử dụng đồ dùng dạy học

16

20

4.6/ Góc vở sạch – chữ đẹp

17

21

4.7/ Vai trò hoạt động của giáo viên

18

22

C. KẾT QUẢ

20

23

D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

21


24

E. KẾT LUẬN

23

Nguyễn Thị Hương

Trang 24


XÁC NHẬN CỦA TỔ KHỐI CHUYÊN MÔN

Nguyễn Thị Hương

Trang 25


×