Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận Tín ngưỡng thờ thánh gióng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.03 KB, 13 trang )

TÍN NGƯỠNG THỜ THÁNH GIĨNG
~*~

ĐỀ CƯƠNG
Mở đầu
1.
1.1.

Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Thánh Gióng.
Cội nguồn từ kinh nghiệm sống, lao động sản xuất của cư

dân nông nghiệp trồng lúa nước.
1.2. Cội nguồn tín ngưỡng của cư dân nơng nghiệp trồng lúa
nước.
2.
2.1.
2.2.
3.
3.1.
3.2.

Nội dung tín ngưỡng thờ Thánh Gióng.
Nội dung truyền thuyết.
Lễ hội Gióng.
Kết luận
Ý nghĩa lịch sử của tín ngưỡng thờ Thánh Gióng
Hướng bảo tồn, phát triển tín ngưỡng thờ Thánh Gióng

MỞ ĐẦU
Ai ơi mồng chín tháng tư
Khơng đi hội Gióng cũng hư mất đời!


Trước tiên, chúng ta có thể khẳng định, thờ Thánh Gióng là một tín
ngưỡng mang tính phổ qt trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
Nam. Có thể nói, mọi lứa tuổi, thành phần người Việt Nam khơng ai khơng biết
tới truyền thuyết Thánh Gióng vẫn được các bà, các mẹ kể lại từ thuở nhỏ.
Dưới các hình thức từ văn học dân gian tới văn học bác học, truyền thuyết
Thánh Gióng là kết tinh của truyền thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam trong
1


suốt trường kỳ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước và rồi được thể hiện
một cách phong phú qua tín ngưỡng thờ Thánh Gióng. Căn cứ vào ý nghĩa nội
dung và hình thức sinh động hấp dẫn của tín ngưỡng, năm 2003, UNESCO đã
cơng nhận đây là văn hóa phi vật thể của thế giới. Trong phạm vi kiến thức của
những sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội, nhóm chúng em xin trình bày
những nội dung cơ bản về chủ đề tín ngưỡng thờ Thánh Gióng trong phạm vi
mơn học Văn hóa dân gian Việt Nam.
1.
1.1.

Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Thánh Gióng.
Cội nguồn từ kinh nghiệm sống, lao động sản xuất của cư dân

nông nghiệp trồng lúa nước.
Bất cứ một tín ngưỡng nào, khởi nguyên của nó đều gắn liền với những
kinh nghiệm lao động, sản xuất và chiến đấu tự vệ được đúc rút thành truyền
thống, văn hóa của một cộng đồng cư dân nhất định. Tín ngưỡng thờ Thánh
Gióng vốn là một loại hình tín ngưỡng của người Việt cổ đang trên con đường
từ vùng núi cao, men theo các triền sông của những con sông lớn, như sông
Hồng, sông Đà, tiến xuống để chinh phục và khai thác, kinh doanh vùng châu
thổ phì nhiêu của các con sơng đó. Điều này thể hiện rất rõ ở ý nghĩa không

gian và thời gian của lễ hội Gióng, cũng như trong chính truyền thuyết về
Thánh Gióng.
1.1.1. Về

khơng gian:
Hiện nay chúng ta có thể nhận thấy rất rõ địa điểm tập trung phản ánh
hình thái tín ngưỡng này là ở vùng trung du – nơi giao tiếp giữa vùng núi và
đồng bằng, như Tiên Du (Bắc Ninh), Sóc Sơn (Hà Nội), Đơng Anh (Hà Nội),
Ba Vì (Hà Nội), v…v…
Như chúng ta đã biết, khoảng 10000 năm về trước, toàn nhân loại đã phải
đối mặt với hiện tượng biển tiến, nhấn chìm những vùng đất thấp khiến con
người phải chạy lên núi sống. Đây cũng là lý do mà chúng ta được nghe từ
phương Tây những truyền thuyết về nạn đại hồng thủy, sự tức giận của Chúa
Trời giáng xuống loài người và về con thuyền Noah nổi tiếng. Tuy nhiên,

2


khoảng 4000 năm sau đó, nhìn chung thế giới đã xuất hiện hiện tượng biển
thoái, dẫn đến việc đồng bằng từng bước được hình thành. Sau khi đồng bằng
được hình thành thì con người cũng bắt đầu tiến xuống để khai thác, sinh sống
và ổn định dần, hình thành nhà nước. Thế nhưng, người Việt ta lại không được
thuận lợi như vậy. Do chịu sức ép dân số và của chiến tranh tộc người (Thế kỷ
VI TCN, tộc người Hán bành trướng và ép tộc người Việt lùi xuống phía Nam)
khiến người Việt ta buộc phải rời vùng núi tiến xuống đồng bằng trong điều
kiện biển chưa thoái hẳn, đồng bằng chưa hình thành xong và điều kiện cơng cụ
cịn thơ sơ. Chính vì vậy, để tồn tại thì cảm thức đầu tiên được hình thành trong
cộng đồng Việt là phải cố kết cộng đồng, chung lưng đấu cật để cùng nhau quai
đê lấn biển. Khơng gian sinh sống thì hạn chế, chật hẹp nên nhu cầu tích lũy,
khai thác kinh nghiệm sản xuất luôn được đề cao. Phải theo dõi, trao truyền tri

thức về quy luật tự nhiên để sản xuất sao cho phù hợp và hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, lịch sử tồn tại và phát triển của bất cứ cộng đồng
cư dân nào cũng là sự kết hợp nhuẫn nhuyễn của hai hoạt động cơ bản. Thứ
nhất là lao động sản xuất để đáp ứng nhu cầu sống như khai phá thiên nhiên,
chống thú dữ mà chúng ta vẫn nói hình ảnh hóa là chống kẻ thù bốn chân. Đây
là nhu cầu khởi nguyên. Hoạt động thứ hai là tiến hành những cuộc chiến tranh
tự vệ hoặc mở rộng không gian sinh sống khi đời sống đã tương đối ổn định,
tức chống kẻ thù hai chân. Trên ý nghĩa đó, tín ngưỡng thờ Thánh Gióng cịn
chứa đựng, phản ánh truyền thống chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ trong
buổi đầu dựng nước và giữ nước. Có thể ban đầu đó chỉ là những xung đột giữa
những cộng đồng tồn tại bên cạnh nhau, rồi cùng với quá trình phát triển của
lịch sử, hình thái ban đầu của cộng đồng quốc gia dân tộc đã hình thành thì nó
đã được mở rộng thêm về nội hàm cũng như ý nghĩa, được nâng lên thành biểu
tượng để cổ vũ, nâng cao tinh thần cố kết cộng đồng, chống ngoại xâm của
quốc gia, dân tộc.
1.1.2. Về thời gian:
Trước tiên, em xin đề cập qua về ý nghĩa tên gọi “Gióng”. Từ “gióng”
trong tiếng Việt chỉ một chặng, một đoạn, một tiết. Ngay từ tên gọi thuần Việt
3


của nó, hội Gióng đã phản ánh quan niệm cũng như tín ngưỡng của người Việt
cổ vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước về quy luật, tiết nhịp của thời sinh
học. “Gióng” trong trường hợp này được hiểu là một khoảng thời gian thuộc
mùa xuân, chuẩn bị bước vào chu trình quan trọng của sản xuất. Hội Gióng
được tổ chức vào dịp cuối xuân đầu hạ, tức là thời điểm bước vào mùa của cây
cối trưởng thành, đơm hoa kết trái. Quan trọng hơn cả với cư dân nông nghiệp
trồng lúa nước, đây là thời điểm lúa đã cứng, bắt đầu trổ đòng và cần mưa nhất:
Lúa chiêm ngấp ngó đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên

Chính vì thế, người dân đã gửi gắm ước nguyện cầu mong cho mưa thuận
gió hịa vào chi tiết ơng Đổng (đồng âm với Dông, cơn mưa đầu mùa hạ sau cái
nắng vỡ đầu) về hái cà vườn mẹ Gióng, thể hiện điềm tốt lành, mưa xuống như
mong muốn trong truyền thuyết Thánh Gióng. Hay việc những nghi thức, nội
dung trình diễn của lễ hội rộn ràng, kích động như một sự cộng hưởng với các
hiện tượng tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp; kích thích sự sinh trưởng của
hoa trái. Nào những trông, múa lân, phun nước hay múa những cây tre vót nhọn
được cắm bơng đều biểu trưng cho khát vọng được thuận trời thuận đất, sinh sôi
nảy nở trong thời điểm quan trọng này.
1.2.

Cội nguồn tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Hiểu một cách nơm na nhất, văn hóa dân gian chính là một phông nền
rộng lớn, là sản phẩm của quần chúng nhân dân lao động, được thẩm định qua
kinh nghiệm trong thực tiễn từ nhiều người.
Tín ngưỡng là một phần khơng thể thiếu trong đời sống văn hóa dân gian.
Vậy thì tín ngưỡng là gì? Có thể nói tín ngưỡng là một niềm tin thiêng liêng,
thành kính. Từ những hiện thực trong cuộc sống, người dân lao động đã siêu
nhiên hóa, thiêng liêng hóa rồi thần thánh hóa những điều đó lên trong trí tưởng
tượng của họ, tự tạo dựng cho mình một niền tin thành kính, thiêng liêng. Rồi
lại bằng tưởng tượng trong đầu đó, họ hiện thực hóa niềm tin ấy qua những câu
chuyện lưu truyền trong dân gian, hay còn được gọi là truyền thuyết, và cả lễ
4


hội với các chuẩn mực, quy định cụ thể về thời gian, khơng gian, v…v… Tín
ngưỡng thờ Thánh Gióng khơng phải là một ngoại lệ.
2.
2.1.


Nội dung tín ngưỡng thờ Thánh Gióng
Nội dung truyền thuyết
“Vào đời Hùng Vương thứ VI, tại Kẻ Đổng (cịn gọi là làng Gióng

Mốt, tên cũ của làng Đổng Xuyên sau này) thuộc bộ Vũ Ninh xưa (sau là
đất huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; từ năm 1961 mới sáp nhập vào huyện
Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội), có một người đàn bà làm nghề trồng rau.
Sau một đêm mưa gió, sáng sớm bà ra vườn cà ven sơng, thấy một vết
chân lớn chưa từng có. Bà đưa chân mình ướm thử. Nhìn thấy vườn bị
giẫm nát, nhưng cà vẫn còn tươi, bà bèn hái về ăn. Sau đó, bà thấy trong
mình chuyển động rồi có thai. Gần đến ngày sinh, dân làng biết được,
liền đuổi bà ra khỏi làng. Cùng đường, bà phải về ở cữ tại trại Nịn (xóm
Ban hiện nay). Vào ngày mùng bảy tháng giêng lịch trăng, bà sinh ra
được một cậu bé khôi ngô tuấn tú. Nhưng đã ba năm mà chẳng biết nói
cười, hàng ngày chỉ nằm trên thúng treo trên gióng tre, do vậy mọi người
gọi cậu là Gióng. Bà vơ cùng buồn phiền lo lắng. Khi đó, ngồi ngõ vang
lên tiếng sứ giả rao mõ báo tin nước có ngoại xâm và nhà vua đang cầu
hiền tài ra giúp nước. Chợt cậu bé Gióng bật ra tiếng nói, thưa với mẹ
cho gọi sứ giả vào. Bà mẹ và dân làng làm theo. Gặp mặt sứ giả, cậu
Gióng ngồi dậy truyền bảo: Ngươi hãy về tâu với đức vua đúc cho một
con ngựa sắt cao hơn 18 thước, một cây kiếm sắt dài 7 thước, một roi sắt
và một chiếc nón sắt để Gióng đi dẹp giặc. Nhận tin sứ giả tâu lên, vua
tức tốc truyền cho làm vật dụng mà Gióng yêu cầu. Rồi sứ giả chuyển
đến cho Gióng. Lại nói chuyện cậu bé Gióng. Từ sau ngày gặp sứ giả,
Gióng bảo mẹ và dân làng cứ lo cơm, cà cho Gióng ăn no sẽ lớn lên và
đánh được giặc. Bà mẹ cùng dân làng cuống cuồng chạy ngược xi lo
cơm cà phục vụ cậu Gióng. Khi ăn đến mười nong cơm, ba nong cà, mỗi
lần ăn xong một nong lại vươn vai và vụt lớn lên như thổi. Vải vóc do
5



dân làng mang đến rất nhiều để may quần áo mà vẫn không đủ. Dân làng
đành phải lấy hoa lau buộc thêm vào để che kín thân. Sau một bữa ăn,
Gióng vươn vai đứng dậy, thân cao mười thước, hắt hơi mười tiếng rồi
nhảy lên ngựa sắt. Ngựa bị bẹp rúm. Sứ giả sợ hãi cho về đúc lại thành
ngựa mới, có đủ nội tạng như ngựa thật, chịu được sức nặng của Gióng.
Khi mang ngựa sắt đến nơi cũng là lúc có tin cấp báo giặc Ân đang
hồnh hành cướp bóc ở Trâu Sơn (!). Thánh Gióng liền đội nón sắt, cầm
roi sắt, nhảy lên mình ngựa và thét lớn: Ta là Thiên Tướng đây! Rồi giật
cương, ngựa chồm lên, hí dài một tiếng và phi như gió, miệng phun lửa
bừng bừng, làm cháy xém cây cối, nhà cửa mấy làng bên (tức các làng
Phù Chấn, Phù Lưu và Phù Tảo được mang tên là làng Cháy hiện nay).
Gióng phi ngựa đến chỗ vua đang đóng quân nhận lệnh rồi hướng
phía giặc Ân làm tướng tiên phong, quân sĩ ào ào theo sau. Thấy vậy, dân
làng trên đường đội quân Gióng đi qua cũng chạy theo, từ trẻ chăn trâu,
người đánh cá đến người đập đất, người chài lưới ven sông,… Hai tướng
Dực và Minh của đất Hà Lỗ cũng đưa quân theo Gióng. Xung giữa trận
tiền, giặc Ân bị đánh tơi bời, đứa thì bị giết, đứa sụp lạy quy hàng. Đang
hăng chiến đấu, roi sắt của Gióng bị gãy, chàng liền quờ tay nhổ những
khóm tre làng đầy gai mọc gần đấy quật vào quân giặc. Giặc chết như
ngả rạ. Hàng loạt dãy tre làng được Gióng dùng vào đánh giặc. Chỗ rặng
tre bị nhổ gần núi Trâu Sơn sau biến thành một dải đầm lớn gọi là đầm
Thất Gian. Và những mảnh tre bị gãy ném rải rác khắp chiến trường, từ
vùng Quế Dương cho đến Đơng Ngàn sau này mọc thành loại tre đặc biệt
có màu vàng óng ánh nên gọi là tre đằng ngà.
Đánh xong trận ở Trâu Sơn và Hà Lỗ, Gióng cho ngựa phi đến bến
Bồ Đề và dừng lại uống nước sơng Hồng. Vết chân của ngựa cịn để lại
hình lồi lõm ở một phiến đá lớn tại làng Phú Viên. Tiếp đó, Gióng lại phi
ngựa vượt sơng, đi ngược lên hồ Tây, rồi buộc ngựa vào gốc đa bên bờ,

nhảy xuống hồ tắm. Nơi này về sau được dân làng Xuân Tảo lập đền thờ

6


cúng. Ăn cơm nắm xong, ngựa đưa Gióng dạo khắp vùng Đơng Anh,
Kim Anh, Hiệp Hịa. Mỗi nơi ngựa Gióng đi qua đã để lại những cụm ao
chm mang hình vết chân ngựa. Khi qua Phù Lỗ, đến chân núi Phù Mã,
Thánh Gióng bèn cởi áo giáp sắt mắc vào cành đa, thúc ngựa lên đỉnh núi
Sóc, để lại nón sắt, roi sắt, nhìn non sơng đồng ruộng quanh vùng và
hướng về Kẻ Đổng lần cuối, rồi một mình một ngựa bay thẳng lên trời.
Hơm đó là ngày mồng chín tháng tư lịch trăng.
Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập
đền thờ Gióng ở làng quê, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương,
phong mẹ Gióng là Thánh Mẫu Bảo Vương, cho làng có xóm Ban nơi
Gióng sinh ra được đặt tên là làng Phù Đổng.
Từ đấy trở đi, người dân quê Phù Đổng của Gióng năm nào cũng
mở hội vào ngày Gióng bay về trời, để nhớ lại chiến trận năm xưa và
tưởng nhớ cơng ơn của vị Thánh làng mình. Trong khi đó, người dân
hàng trăm làng quanh vùng núi Sóc lại mở hội để tưởng nhớ ngày Gióng
sinh ra, cùng nhau nhớ về người anh hùng đã có cơng giúp dân đánh giặc
ngoại xâm, cứu nước.”
Tùy điều kiện lịch sử và không gian sinh sống của mỗi vùng miền
mà xuất thân của Thánh Gióng có nhiều dị bản khác nhau. Tuy nhiên,
nhìn từ góc độ dân tộc học, chúng ta có thể cho rằng truyền thuyết trên là
xuất hiện sớm hơn cả. Qua những tín hiệu văn hóa trong câu chuyện,
truyền thuyết đã phản ánh rõ nét buổi đầu của lịch sử, thời kỳ mà con
người mới rời bỏ miền núi tiến xuống khai thác vùng đồng bằng châu
thổ. Ta có thể liệt kê một số ví dụ như:
Gióng là do một người phụ nữ trong làng sinh ra, khơng có cha do sự

ảnh hưởng của thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ, người mẹ được đề cao. Sau này
khi truyền thuyết được giới nho sĩ viết lại, ghi chép thành văn bản đàng hồng
thì dân ta đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho gia khắt khe, không chấp nhận
chuyejn không chồng mà chửa nên đã thêm thắt vào những yếu tố như mẹ
Gióng bị dân làng đuổi ra khỏi làng.
7


Hình ảnh vết chân khổng lồ xuất hiện sau một cơn mưa to có thể
hiểu là do ơng Đổng – cơn mưa dơng đầu mùa hạ để lại. Gióng là người nhà
trời đầu thai xuống trần. Hành động áp chân của người mẹ như một vạch nối để
sự chuyển hóa diễn ra, trở thành sự kết hợp giữa cái thực và cái ảo. Như đã nói
ở trên, khoảng đầu mùa hạ là khi lúa trổ đòng, cần mưa nhất. Việc ông Đổng về
hái cà vườn mẹ Gióng thể hiện điềm tốt lành, mưa xuống như mong muốn, hứa
hẹn một vụ mùa sinh sơi nảy nở. Câu chuyện qua đó đã thể hiện rõ tín ngưỡng
nơng nghiệp của người xưa.
Hình ảnh Gióng yêu cầu ngựa sắt, gậy sắt, roi sắt đã phản ánh sự
thắng thế của công cụ đồ sắt, bởi lúc này đây chúng ta đang bước vào thời đại
kim khí. Tuy nhiên, cũng chính vì mới bước vào nên kĩ thuật đúc sắt còn chưa
cao. Một số truyền thuyết xuất hiện chi tiết Gióng đặt tay lên mình ngựa, ngựa
liền khuỵu xuống, triều đình phải đúc lại con ngựa khác, đặc ruột, tinh xảo hơn.
Khi Gióng vỗ lên ngựa, ngựa khè ra lửa cũng là chi tiết đan xen màu sắc của ma
thuật.
Khi Gióng đang đánh giặc thì gậy sắt bị gãy, Gióng phải nhổ tre để
đánh giặc. Điều này càng thể hiện rõ do mới bước vào thời kì kim khí nên kĩ
thuật rèn sắt vẫn thua nơng nghiệp, gậy sắt vẫn thua tre làng, công cụ thô sơ vẫn
thắng thế kĩ thuật.
Tuy không được thể hiện rõ trong truyền thuyết sau này nhưng có
những bản đã kể rõ rằng người dân đánh giặc cùng Gióng rất đơng, cả người
lớn, trẻ con lẫn động vật. Từ đó lại càng thấy rõ hơn sự cố kết cộng đồng là cảm

thức quan trọng nhất đối với nhân dân ta trong suốt thời kì phát triển của lịch
sử. Gióng đánh giặc không phải là hành động của một cá nhân, mà đó là sức
mạnh tổng hợp của cả cộng đồng.
2.2.

Lễ hội Gióng
Khi xã hội đã phát triển, đời sống nhân dân định cư thành làng mạc

ổn định, các nhu cầu tinh thần ngày càng xuất hiện nhiều hơn và được
nâng cao hơn. Lễ hội Gióng ra đời đã đáp ứng được hai nhu cầu lớn:

8


- Di dưỡng truyền thuyết Thánh Gióng trong đời sống cộng đồng
cư dân thông qua những chuẩn tắc, những nghi thức một cách chặt chẽ,
trong thời gian, không gian xác định (phần lễ) và thông qua hành xử,
phong tục (phần hội).
- Thơng qua lễ hội góp phần đào luyện tinh thần đồn kết cố kết
cộng địng và tăng cường ý thưc chống ngoại xâm của nhân dân.
Hội Gióng được tổ chức hàng năm vào đầu tháng tư âm lịch. Chính Hội
thì năm năm được tổ chức một lần vào các năm chẵn. Chính Hội cổ được mở từ
ngày 5 đến ngày 12 tháng tư, cịn ngày nay thì được mở từ ngày 7 đến ngày 10
tháng tư âm lịch.
Lễ hội Gióng chia là 3 giai đoạn:
2.2.1. Giai

đoạn thứ nhất (Mồng 1/3 đến 15/3 Âm lịch)- Hiệp thương

nhân sự, cắt cử bình chọn vai diễn:

Ngày mồng 1 tháng 3 âm lịch: trước mặt hội đồng hàng tổng, giáp hội
trưởng cúng trầu lên đền Gióng (đền Thượng) và nhận sổ hội lệ () và chiếu theo
sổ đó để tổ chức hội.
Ngày mồng 2 tháng 3 âm lịch: hội đồng giáp họp để phân cơng:
Các vai diễn chính.
1 – Ơng Hiệu Cờ: Số lượng: 1 - Tượng trưng người anh hùng Làng
Gióng
2 – Ông Hiệu Trống: Số lượng: 1 - Tượng trưng tướng tả của Gióng
3 – Ơng Hiệu Chiêng: Số lượng: 1 - Tượng trưng tướng hữu của Gióng
4 – Ơng Trung Quân: Số lượng: 1 - Tượng trưng tướng phái viên của
triều đình Hùng Vương
5 – Ơng Hiệu Tiểu Cổ: Số lượng: 2 - Tượng trưng tướng Mục đồng.
6 – Phù giá:
- Phù giá nội: 120 người – quân cận vệ chủ lực của Gióng.
- Phù giá ngoại (Làng ào đen) 48 người: Đội quân nhân dân của Gióng
7 – Làng áo đỏ: 90 em - Đội quân thiếu nhi của Gióng
8 – Bát tiên: 8 người – Lính chính quy của triều đình Hùng Vương
9 - Phường Ải lao: 25 người - Đội quân tổng hợp của Gióng
- Người đi câu: 1
- Người đi săn: 1
- Ông Hổ: 1
- Người cầm cờ lau: 2
9


- Ông Đội: 2
- Ông Trùm: 2
- Chiến binh: 16
10 - Hỷ đồng: 6 em – lính tạp dịch.
11 – Cô tướng (Tướng giặc): 28 bé gái - Tượng trưng 28 đạo quân xâm

lược nhà Ân.
12 – Các vai diễn khác.
- Ông Chấp Kỳ - Số lượng: 1 - Giữ cờ Lệnh
- Ông Khai Miều - Số lượng: 1 - Mở cờ Lệnh
- Ông Khởi Chỉ - Số lượng: 1 - Mở Miều Cờ
- Gia nhân - Số lượng hàng trăm - phục vụ các ông Hiêụ và cô Tướng
Từ mồng 6 tháng 3 âm lịch trở đi: hiệu cờ và các hiệu khác phải theo tục
trai giới. Riêng hiệu cờ phải ở riêng trong nhà cầu của đền, ăn ngủ một mình, có
người phục dịch cho.
2.2.2. Giai

đoạn thứ hai (Từ 15/3 đến 6/4 Âm lịch) - Diễn tập hành hội
Ngày rằm tháng 3: Giáp hội trưởng rước bình hương lên đền và làm lễ
trình diện các tướng (hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng) trước bàn thờ Gióng.
Trước mặt quan viên hàng tổng, thủ từ kinh cẩn trao cho giáp hội trưởng lá cờ,
cái trống và cái chiêng. Các hiệu nhận các vật đó và rước về nhà để bắt đầu tập
biểu diễn. Cũng trong ngày đó và theo nghi thức đó, các hiệu trung quân và tiểu
cổ cũng được nhận những vật biểu diễn của mình như trống con có tay cầm hay
trống khẩu.
Từ đó trở đi, mọi người, mọi bộ phận đều phải tập luyện cho thành thạo.
Ngày 25/3 Âm lịch:Làm lễ lau chùi đồ thờ ở các Đền, Miếu, Chùa. Các
vai diễn lĩnh y phục và lễ cụ. Luyện tập ở từng thôn.
Ngày 1/4 Âm lịch: Các ông hiệu xin châm hương và diễn tập lần thứ nhất.
Ngày 2/4 Âm lịch: cắt cử đội quân phù giá.
Ngày 5/4 Âm lịch: tổng diễn tập múa, hát, đánh trống, đánh chiêng, hành
quân và dàn trận trước cửa đền Thượng
Ngày 6/4 Âm lịch: Diễn tập lần 2 các ông Hiệu, chấm dứt hoạt động diễn
tập. Bọc phong cờ lệnh.
2.2.3. Giai


3.
4.

đoạn thứ ba (từ 7/4 đến 10/4) - Hành hội theo kịch bản:

Ngày 7/4:
- 5h – 6h30: Trong tế, ngoài tập
10


5.
- 6h30 – 7h30: Lễ dâng hương của Ban tổ chức
6.
- 7h30 – 9h30: Lễ Rước Nước
7.
- 14h – 17h30: Lễ Rước Khám đường
Trưa hơm ấy, có Rước khám đường. Rước này có ý nghĩa thăm dị đường
đi đến trận địa.
Đêm đến có tục trai gái đuổi bắt nhau trên bãi sơng. Bên trai thường chỉ
đóng khố và để đầu trần để khỏi bị bên gái túm khăn áo lôi. Tục này rất cổ càng
ngày càng nhạt dần, chỉ còn dấu vết trong các lối trai gái giễu cợt nhau. Quần
chúng ngày càng được thu hút và các đám diễn tuồng, chèo trong những đêm
hội Gióng đường đi đến trận địa.
Ngày 8/4:
- 5h –7h: Tế Thánh
- 7h – 12h: nhân dân vào lễ Thánh
- 14h – 17h: Phù giá luyện tập
- 15h – 17h: Duyệt cơ Tướng
Ngày 9/4 - Chính hội:
- 5h – 7h: Tế Thánh

- 7h – 12h: Nhân dân vào lễ Thánh
- 11h – 11h30: Quân Thánh Gióng tập kết ở Đền Thượng
28 cô Tướng đồn trú ở Đống Đàm - Đổng Viên: Trong lúc đi thì ở cuối
làng Đổng - viên, trên bãi Đống - đàm cạnh một hồ sen giữa hai con đê cũ và
mới, 28 tướng nữ của giặc đã trực sẵn trên 28 kiệu, mỗi tướng như vậy có một
cơ gái đứng cạnh cầm lọng che xung quanh là quân gia gồm người nhà của gơ
gái đóng vai tướng ấy, phần lớn cũng là nữ.
- 12h: Ngoại Đàn
- 12h30: Rước trận ở Đống Đàm - đội quân thám báo chạy về đền đưa tin
có giặc vây đóng ở Đống - đàm (tức Vũ - ninh trong truyện).Thế là tiếng trống,
chiêng nổi lên ba hồi liền. Tất cả tướng quân chỉnh đốn hàng ngũ, vũ khí và
nhạc cụ cầm sẵn để chờ lệnh xuất trận.
Chiến trường rất đơn giản. ở giữa hai bờ đê có hồ sen. Quân địch làm chủ
hồ đó. Gần hồ có những cồn đất nhỏ, trên đó trải ba chiếc chiếu, ở giữa chiếu có
một cái bát úp lên tờ giấy trắng. Chiếu tượng trưng đồng bằng, bát tượng trưng
núi non, giấy trắng tượng trưng mây. Gần đó nữa có một bệ đất phẳng đặt bàn
thờ Gióng.
11


- 15h: Ơng Gióng khao cỗ yến ở sân Đền Thượng
Các cô Tướng đồn trú ở Soi Bia
- 16h: Rước trận ở Soi Bia
- 18h: Ngoại đàn
- 18h30: Các vai diễn lễ Thánh và trả lễ cụ
- 19h – 21h: Các ơng Hiệu khao thưởng tại gia
Trong khơng khí tưng bừng phấn khởi của ba quân và nhân dân ở trong,
ngoài đền, hiệu Cờ ra lệnh nổi trống chiêng rồi lấy kiếm tước được của giặc
múa trên đầu giặc mấy vòng, đoạn dùng đầu kiếm ấy hất mũ và phanh thây
giặc. Vụ thừa tế hứng mũ áo giặc lên mâm và bưng vào nội cung dâng thần. Sau

lễ thủ cấp đó là mọi người ra khỏi đền phường ải - lao lại múa hát, kèn nhị
trống bát âm lại réo rắt tưng bừng. Tiệc khao quân tiếp tục thì trời cũng vừa
tối… Hàng tổng lại hướng vào các trò vui, các tiết mục văn nghệ khác trong
đêm.
Ngày 10/4: hàng tổng lại Rước vãn để duyệt quân và kiểm tra lại khí giới.
Lễ tạ ơn Gióng được tổ chức cùng với hội mừng thắng lợi và khao quân. Các
tướng giặc còn lại đã được phóng thích, mang vật phẩm dâng lên bàn thờ Gióng
và được quân ta cho dự tiệc cùng.
- 5h - 7h: Tế Thánh
- 8h – 9h: - Ban cỗ yến các cô Tướng.
- Trao tặng kỷ niệm chương Hội Gióng
- Các ơng Hiệu, cơ Tướng cùng gia đình lễ tạ Đức Thánh Gióng.
- Bế mạc lễ hội.
8.

Kết luận
8.1.
Ý nghĩa lịch sử của tín ngưỡng thờ Thánh Gióng
Tín ngưỡng thờ Thánh Gióng như một bài học lịch sử sinh động, giúp
chúng ta nâng cao tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm.
Lễ hội thờ Thánh Gióng thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng và nhu cầu sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ cộng đồng của cư dân trong vùng.
Thông qua các hoạt động của tín ngưỡng thờ Thánh Gióng, các thế hệ
ngày nay cịn hiểu được cội nguồn lịch sử cha ơng ta từ xa xưa. Nó khơng chỉ
đơn thuần là một cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, mà qua những tình

12


tiết của truyền thuyết, những hoạt động của lễ hội, chúng ta còn thấy được cả

đời sống sinh hoạt, tâm tư nguyện vọng cùng ý chí chiến đấu của tổ tiên.
Làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu tâm linh của con người hiện
nay đang bị thừa mứa bởi những hình thức văn hóa, văn nghệ hiện đại => Như
một sự thay đổi khẩu vị các món ăn tinh thần.
Tín ngưỡng thờ Thánh Gióng như một sự kết nối giữa quá khứ và hiện
đại, tạo thành mạch liền của văn hóa dân tộc, tạo thành truyền thống phát triển
trong nội tại của dân tộc Việt nam
Hướng bảo tồn, phát triển tín ngưỡng thờ Thánh Gióng
Truyền thống khơng phải là mãi ơm khư khư lấy lịch sử mà cịn phải làm
8.2.

mới lịch sử. Nhưng những yếu tố hiện đại mới mẻ ấy phải được cộng đồng chấp
nhận (ví dụ phần âm thanh khơng chỉ có kéo nhị, kéo đàn ở một góc đình mà có
thể phát triển kết hợp với hệ thống âm thanh, ánh sáng hiện đại v.v...). Ngoài ra,
chúng ta có thể dựa vào những phương tiện thơng tin đại chúng để đưa tín
ngưỡng thờ Thánh Gióng gần gũi với mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ hơn nữa.
Yếu tố hiện đại chỉ có tác dụng khi nó làm trọn vai trị phát huy sức mạnh
lan tỏa, tuyên truyền của giá trị gốc, cốt lõi, của truyền thống mà ở đây là tín
ngưỡng Thánh Gióng. Với riêng Thánh Gióng, giá trị nguyên sơ tập trung vào
các kinh nghiệm sản xuất nơng nghiệp, lấy đó làm gốc. Nhưng giờ đây nó đã
trở thành giá trị phụ hơn, làm nhẹ đi, cịn giá trị đồn kết chống ngoại xâm là
gốc, cốt lõi. Chỉ có hiểu rõ những ý nghĩa và giá trị cốt lõi này, các tác động
nhằm phát triển tín ngưỡng Thánh Gióng mới thực sự phát huy hiệu quả, giúp
bảo tồn và phát huy một vẻ đẹp thuần Việt đã được cả thế giới công nhận.

13




×