Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Xác định, phân loại và lập danh sách các từ ngữ dùng theo nghĩa hoán dụ trong tiếng việt đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.88 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----&-----

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NĂM 2008

XÁC ĐỊNH, PHÂN LOẠI VÀ LẬP DANH
SÁCH CÁC TỪ NGỮ DÙNG THEO NGHĨA
HOÁN DỤ TRONG TIẾNG VIỆT

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Hữu Chương

TP. HỒ CHÍ MINH - 2008


PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.

Đặt vấn đề
Hoán dụ (metonymy) là cách gọi tên một sự vật này bằng tên gọi của một sự

vật khác dựa trên cơ sở của một mối liên hệ gần gũi (closely association), còn
gọi là tương cận (contiguity association) nào đó.
Hốn dụ là một hiện tượng của lời nói, một biện pháp tu từ, sau được cố
định trở thành hoán dụ từ vựng.
Theo quan điểm của ngơn ngữ học truyền thống thì hốn dụ được coi là một
hiện tượng ngơn ngữ, cịn theo quan điểm của ngơn ngữ học tri nhận hiện đại thì
hốn dụ được coi là một phương thức tư duy. Nhờ hoán dụ cũng như ẩn dụ mà
con người nhận thức về thế giới và về bản thân mình ngày càng sâu sắc hơn.
Để có thể đi đến một nhận định chính xác hơn về bản chất của hoán dụ là


một hiện tượng ngôn ngữ hay là một hiện tượng của tư duy thì cần phải nghiên
cứu thật kỹ lưỡng cơ chế, cơ sở của hoán dụ theo cả hai quan niệm. Ở đề tài này,
chúng tôi tiếp cận vấn đề theo quan điểm của ngôm ngữ học truyền thống, cụ thể
là nghiên cứu các hoán dụ từ vựng.
Các nhà nghiên cứu đã đạt được những thành tựu quan trọng khi nghiên cứu
về hiện tượng hoán dụ trong tiếng Việt, trên cả hai phương diện lý thuyết và ứng
dụng. Về lý thuyết, đã có những cơng trình nghiên cứu về hốn dụ từ vựng,
hoán dụ tu từ (xin xem phần lịch sử vấn đề). Về ứng dụng, các nhà làm từ điển
đã tách các nghĩa hoán dụ trong từ đa nghĩa.
Các nhà nghiên cứu đã chú ý phân loại các loại hoán dụ trên cơ sở chỉ ra các
mối liên hệ tương cận, chỉ ra một số loại sự vật có thể làm cái biểu trưng cho
nghĩa hoán dụ. Tuy nhiên, do chưa có một cơng trình chun khảo nào nghiên
cứu một cách toàn diện về vấn đề này cho nên đến nay, chúng ta vẫn chưa có thể
đi đến kết luận là trong tiếng Việt hiện có bao nhiêu loại hốn dụ từ vựng,
những từ loại nào, những sự vật hiện tượng nào đã được dùng làm cái biểu trưng
cho nghĩa hốn dụ và cũng chưa có một cuốn từ điển hoán dụ, hay thực tế hơn là
một cuốn từ điển ẩn dụ - hốn dụ nào được cơng bố để phục vụ cho việc tra cứu
1


của đông đảo các nhà nhiên cứu, giáo viên, sinh viên, học sinh, và những người
nước ngoài học tiếng Việt v.v…
Việc biên soạn một cuốn từ điển ẩn dụ - hoán dụ chuyên dụng là rất cần
thiết, bởi các loại nghĩa hoán dụ và ẩn dụ là loại nghĩa biểu trưng, khó hiểu.
Nhiều từ ngữ cần phải tra cứu mới hiểu được đúng nghĩa hốn dụ của nó. Người
bản ngữ do có kinh nghiệm và thói quen sử dụng ngơn ngữ nên có thể sử dụng
các từ đa nghĩa, có nghĩa hốn dụ một cách vơ thức. Thế nhưng khi gặp các
hoán dụ tu từ, do chỉ mới là cách nói của một cá nhân nào đó, thường thấy trong
các sáng tác văn chương, chưa quen dùng đối với cả xả hội thì thường lại khơng
hiểu được. Vì người ta không nhận ra được cơ sở (mối liên hệ tương cận) của

hốn dụ ở đây là gì, do đó khơng suy ra được nghĩa bóng hốn dụ là gì.
Để hiểu đúng các nghĩa hốn dụ thì phải hiểu được cơ chế, cơ sở của hoán
dụ. Dựa vào nghĩa đen (nghĩa gốc) mà suy ra được nghĩa bóng của hốn dụ theo
cơ chế, cơ sở đó. Nếu có được một cuốn từ điển ẩn dụ - hoán dụ để tra cứu,
người ta có thể nhận biết loại hốn dụ tu từ đó thuộc loại nào, từ đó suy ra nghĩa
hốn dụ của nó theo nguyên tắc suy luận đồng dạng. Chẳng hạn báo Người lao
động ngày 13 tháng 12 năm 2007, mục thể thao có một bài viết mang tiêu đề
“Cần có một cuộc thay máu”. Bạn đọc có thể hiểu được thay máu ở đây là thay
cầu thủ theo nguyên tắc suy luận bộ phận – toàn thể.
Với những lý do như trên, chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu. Về mặt
lý luận, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần nhiên cứu bản chất của hiện
tượng hoán dụ, cơ sở của các phép chuyển nghĩa theo hoán dụ, phân loại các loại
hoán dụ, vv... Về mặt ứng dụng, đây là bước chuẩn bị để đi đến biên soạn một
cuốn từ điển ẩn dụ - hoán dụ trong tương lai.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau
đây:
1/ Phương pháp phân tích nghĩa của từ
2/ Phương pháp thống kê
3/ Phương pháp biên soạn từ điển.
2


Phương pháp phân tích nghĩa của từ được sử dụng để phân tích nghĩa của từ,
xác định các nghĩa phái sinh theo hoán dụ, phân lập các trường từ vựng, trường
phái nghĩa…
Phương pháp thống kê được sử dụng để thống kê số lượng từ có nghĩa hốn
dụ trong mỗi trường, số lượng từ có nghĩa hốn dụ dùng độc lập.
Phương pháp biên soạn từ điển được sử dụng để lập danh sách các từ dùng
theo nghĩa hoán dụ dưới dạng từ điển.

3. Đối tượng nghiên cứu, ngữ liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các từ, các thành ngữ có từ mang nghĩa hoán dụ.
Ngữ liệu nghiên cứu là cuốn Từ điển tiếng Việt, 1992 Trung tâm Từ điển
Ngôn ngữ, Hà Nội, Việt Nam do Hoàng Phê chủ biên [39]. Dựa vào cuốn từ
điển trên, chúng tôi nhận diện các từ có nghĩa hốn dụ. Tuy nhiên, cũng cần lưu
ý là quyển từ điển trên khơng nêu lên nghĩa hốn dụ của từ trong một số trường
hợp. Đó là “khơng tách thêm nghĩa trong trường hợp có hiện tượng chuyển
nghĩa đều đặn, có tính quy luật, trong hàng loạt từ cùng một loại của tiếng Việt,
như: từ chỉ đồ đựng, dùng để chỉ lượng đựng; tên gọi của cây đồng thời dùng để
chỉ quả, củ, hoa, lá, gỗ, v.v… nói chung là bộ phận hữu ích, sản phẩm thu được
từ cây; từ chỉ quan hệ thân thuộc đồng thời dùng làm từ xưng gọi; từ chỉ số dùng
để chỉ thứ tự; một số từ vừa có nghĩa nội động, vừa có nghĩa ngoại động, v.v…”
[39,12]. Trong cơng trình này, chúng tơi có nêu một số trường hợp mà từ điển
khơng nêu như đã kể trên. Những trường hợp là các tên riêng (tên người, tên
nước, tên thủ đơ, …) có số lượng quá lớn, những cách nói mới như thay máu
(thay cầu thủ), chúng tôi cũng không đưa vào nghiên cứu.
4.

Nhiệm vụ nghiên cứu

(1) Xác định các từ đa nghĩa có nghĩa hốn dụ.
(2) Phân lập các trường từ vựng (word field) để biết được số lượng các loại đối
tượng được dùng làm cái biểu trưng cho nghĩa hoán dụ.
(3) Nêu nghĩa hoán dụ, các trường ngữ nghĩa (semantic field) theo nghĩa hoán
dụ, chỉ rõ cơ sở (mối liên hệ tương cận – contiguity) của mỗi nghĩa hoán dụ.
(4) So sánh các nghĩa hoán dụ đồng nghĩa.
3


(5) Lập danh sách dưới dạng từ điển các từ ngữ có nghĩa hốn dụ.

5. Lịch sử vấn đề
Metonymy (hốn dụ) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp – Mεt
xa xôi, thay đổi” và –

nghĩa là “xa hơn,

νum , một hậu tố, có nghĩa là “lối nói” (theo Wikipedia,

the free encyclopedia). Một từ được dùng theo nghĩa hoán dụ được gọi là
metonym. Hốn dụ khơng những được nghiên cứu trong từ vựng học (một quy
luật chuyển nghĩa của từ đa nghĩa), tu từ học mà còn được nghiên cứu trong
nhiều lĩnh vực khác vì nó là một phương thức sử dụng từ có liên quan đến tâm lý
của con người, chẳng hạn như : Y học, Phân tâm học, v.v… Hiện nay, theo quan
điểm của Ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics), người ta quan niệm hoán
dụ cũng như ẩn dụ (metaphor) là những phương thức tư duy, hình thành một
cách tự nhiên trong đời sống tinh thần của con người (theo các cơng trình [44],
[45], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59], [60], [61],
[62], [63]).
Ở Việt Nam, các nhà Việt ngữ học đã và đang nghiên cứu về hiện tượng
hoán dụ ở địa hạt: Từ vựng học, Tu từ học và gần đây là Ngôn ngữ học tri nhận.
Ở địa hạt Từ vựng học, hoán dụ được coi là một phương thức chuyển nghĩa
của từ đa nghĩa (polysemy). Các nhà nghiên cứu rất chú trọng xác định khái
niệm hoán dụ, phân biệt hoán dụ với ẩn dụ, phân loại các loại hốn dụ. Đó là
Nguyễn Văn Tu, 1960, trong Giáo trình khái luận ngơn ngữ; Đỗ Hữu Châu,
trong các giáo trình Từ vựng học tiếng Việt 1962 [2], 1981 [3]; Nguyễn Thiện
Giáp, trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt; 1985 [8]; Sái Phu, 2005 [25]. Các
nhà biên soạn từ điển giải thích tiếng Việt đã tách các nghĩa hoán dụ thành
những nghĩa riêng trong hệ thống nghĩa của các từ đa nghĩa.
Ở địa hạt Tu từ học, đã có nghiều cơng trình đề cập đến phép tu từ hốn dụ. Đó
là các giáo trình Phong cách học của các tác giả như: Cù Đình Tú. 1983 [37];

Nguyễn Nguyên Trứ, 1988 – 1989 [35]; Đinh Trọng Lạc (chủ biên) – Nguyễn
Thái Hòa, 2002 [14]; Đinh Trọng Lạc, 2005 [15], v.v...
Hồng Trinh, 1997 [33] tìm hiểu vai trị của hốn dụ trong Thi pháp học.
4


Nhiều nhà nghiên cứu khác nghiên cứu về nghĩa biểu trưng hốn dụ của từ
trong văn bản. Đó là Bùi Khắc Việt, 1978 [40]; Nguyễn Đức Dân, 1986 [5];
Nguyễn Thế Lịch, 1987 [17]; Vũ Trọng Khánh – Chăm Phôm Ma Vông, 1998
[13]; Nguyễn Thị Thanh Nga, 2001 [20]; Nguyễn Đức Tồn, 2008 [32], v.v…
Nhiều luận văn đại học, thạc sĩ, tiến sĩ đã và đang nghiên cứu về hoán dụ trong
văn bản, chẳng hạn Nguyễn Thị Hường, 2006 [12]; Hà Thị Tuyết Nhung, 2008
[22], v.v…
Hiện nay, có nhiều người đi vào nghiên cứu hốn dụ theo quan điểm của
Ngơn ngữ học tri nhận.
6. Định nghĩa và phân loại các loại hốn dụ
6.1 Các định nghĩa của nước ngồi về hốn dụ, các loại hoán dụ
(1) Định nghĩa của Từ điển di sản văn hóa Mỹ (American Heritage
Dictionary) [55]: “Hốn dụ (metonymy) là một lối nói mà trong đó một từ hay
một cụm từ dùng để thay thế cho một từ hay một cụm từ khác, dựa vào mối liên
hệ gần gũi (closely associated)”. Chẳng hạn như dùng Washington thay cho The
United States government hay dùng the sword (thanh gươm) thay cho military
power (sức mạnh quân sự).
(2) Định nghĩa của Từ điển các thuật ngữ Văn học của ChirsBaldick
2001, 2004 [56]: “Hốn dụ (metonymy) là lối nói thay thế tên của một vật này
bằng tên của một vật khác mà giữa hai vật có mối liên hệ gần gũi (closely
associated) với nhau”. Chẳng hạn như: the bottle (cái chai) thay thế cho
alcoholic drink (rượu), the press (báo) thay cho journalism (nghề báo, báo giới),
skirt (cái váy) thay cho woman (phụ nữ), Mozart thay thế cho Mozart’s music
(nhạc của Mozart), the Oval office (tòa nhà bầu dục) thay cho the US presidency

(tổng thống Mỹ), hand (cái tay) thay cho worker (người lao động, cơng nhân).
Từ điển này cho rằng hốn dụ và ẩn dụ khác nhau tựa như quan hệ ngữ đoạn
(syntagm) và quan hệ hình (paradigm).
(3) Định nghĩa của Từ điển bách khoa đại học Colombia [57]: “Hoán dụ
(metonymy) là lối nói sử dụng một đặc trưng (attribute) của vật hay một số vật
có liên hệ gần gũi với vật đó để thay thế cho chính bản thân vật đó”. Chẳng hạn
5


như: sweat (mồ hơi) có thể dùng với nghĩa là hard labor (lao động vất vả) và
Captal Hill (tòa nhà Capital Hill) thay thế cho The US Congress (Quốc hội Mỹ).
(4) Định nghĩa của Từ điển quốc tế về phân tâm học [58]: “Hốn dụ
(metonymy) là lối nói lấy tên gọi của vật này chỉ vật khác trên cơ sở những mối
liên hệ tiêu biểu nào đó, như lấy tên gọi của kết quả để chỉ nguyên nhân, lấy
toàn thể để chỉ bộ phận, lấy cái chứa đựng để chỉ cái được chứa đựng”. Chẳng
hạn như cách nói: “a sail on the horizon” (một cánh buồm ở phía chân trời)
được hiểu là “a ship on the horizon” (một con tàu ở phía chân trời).
(5) Định nghĩa của Từ điển Y khoa [59]: “Hốn dụ (metonymy) là một
sự rối loạn ngơn ngữ mà trong đó một từ khơng thích hợp nhưng có liên quan
được dùng trong vi trí của một từ thích hợp”.
(6) Định nghĩa của Michael A.Fischer [60]: “Hốn dụ (metonymy) là
lối nói dùng một từ hay một cụm từ thay thế cho một từ hay cụm từ khác dựa
trên mối liên hệ gần gũi (closely associted)”. Chẳng hạn như trong cách dùng
Washington thay cho the United States government hay the sword thay cho
military power.
(7) Định nghĩa của Từ điển thuật ngữ thơ ca [61]: “Hốn dụ
(metonymy) là lối nói mà trong đó có sự thay thế một danh từ này cho một danh
từ khác bằng một thuộc tính (attribute) hay một mối liên hệ gần gũi nào đó
(closely associated)”. Chẳng hạn the kettle bloils (ấm nước) hay He drank the
cup (Anh ta đã uống cốc nước).

(8) Định nghĩa của Đại học Princeton qua thơng tin trên mạng về hốn
dụ [62]: “Hoán dụ là sự thay thế tên của một thuộc tính hay một số đặc điểm nổi
bật cho tên gọi của chính vật đó”. Chẳng hạn như lấy head (đầu) làm đơn vị chỉ
người, ví dụ: They counted heads (Họ tính theo đấu người).
(9) Định nghĩa của chính Từ điển bách khoa trên mạng [63]:
(9.1) Định nghĩa theo quan điểm Tu từ học: “Hoán dụ là sự thay thế
một từ cho một từ khác mà chúng có liên hệ với nhau”.
(9.2) Định nghĩa theo quan điểm của Ngôn ngữ học tri nhận: “Hoán dụ
được hiểu là việc sử dụng một đặc trưng riêng (a single characteritics) để chỉ
6


một thực thể phức tạp hơn (to indentify a more complex entity) và là một trong
những đặc trưng cơ bản của nhận thức”.
Ví dụ về hốn dụ:
Word

Original Use

Metonymic Use

sweat (mồ hôi)

perspiration (mồ hôi, sự hard work (làm việc cực
đổ mồ hôi)

dish (dĩa)

the press (báo)


item of crockery (loại a course (in dining) một
bát dĩa bằng sành)

món ăn (trong phịng ăn)

printing press (báo in)

the new media (nhà báo)

The Crown (vương King’s
miện)

nhọc)

head

gear The British monarchy

(vương miện của vua)

(đế chế quân chủ nước
Anh)

(10) Định nghĩa hoán dụ theo quan điểm tri nhận của Zoltan Kovecses
2002: “Hốn dụ là một q trình tri nhận, trong đó một khách thể ý niệm đem lại
khả năng nhận biết một khách thể ý niệm khác ở trong cùng một lĩnh vực ý niệm
hay mơ hình tri nhận lý tưởng hóa (ICM)” (Zoltan Kovecses – Metaphor: A
practical Introdution. New York: Oxford University Press, 2002, P450 – Dẫn
theo Võ Kim Hà, chuyên đề: Phân biệt ẩn dụ và hoán dụ trong Ngôn ngữ học tri
nhận, ĐHKHXH và NV TPHCM, 2008).

Nhận xét:
Các định nghĩa về hoán dụ như đã nêu ở phần trên đã cho thấy loại bản chất
của hoán dụ là cách gọi tên một sự vật này bằng tên gọi của một sự vật khác dựa
vào một mối liên hệ gần gũi (closely association) tức tương cận (contiguity) nào
đó. Có nhiều loại liên hệ gần gũi và mỗi loại làm thành cơ sở của một loại hốn
dụ. Đó là: lấy bộ phận chỉ toàn thể hay ngược lại (synecdoche), như lấy hand
(cái tay) chỉ worker (người lao động, công nhân), lấy cái chứa đựng chỉ cái được
chứa đựng như bottle (cái chai) chỉ acoholic drink (rượu), lấy tên gọi của sản
phẩm để chỉ nghề nghiệp, như lấy press (báo) để chỉ journalism (nghề báo), lấy
7


y phục để chỉ người mặc, như lấy skirt (cái váy) để chỉ woman (phụ nữ), lấy tên
người sáng tác để chỉ tác phẩm, như lấy Mozart để chỉ Mozart’s music (nhạc của
Mozart), lấy tên gọi của tòa nhà để chỉ người làm việc ở đó, như lấy the Oval
office để chỉ the US presidency (tổng thống Mỹ), lấy đồ dùng để chỉ chế độ, như
lấy Crown (vương miện) chỉ the British monarchy (chế độ quân chủ nước Anh)
v.v…
Những mối liên hệ gần gũi chính là những mối liên hệ logic.
6.2 Các định nghĩa của các nhà Việt ngữ học về hoán dụ, các loại hoán dụ
6.2.1 Định nghĩa hoán dụ theo quan điểm Từ vựng học
1. Nguyễn Lân trong cuốn Ngữ pháp Việt Nam lớp 7, Bộ giáo dục xuất
bản, H, 1956, dẫn theo [42], đã quan niệm: “Hoán dụ là phương thức chuyển đổi
tên gọi, cách sử dụng từ ở nghĩa chuyển của từ đa nghĩa bằng cách thay tên gọi
của sự vật này bằng sự vật khác theo quan hệ tiếp cận của hai sự vật; hai sự vật
liên quan với nhau về một khía cạnh nào đó có thể được định danh bởi một từ”.
“Cơ sở của hoán dụ là các quan hệ phạm trù riêng rẽ của hiện thực được
phản ánh trong nhận thức của con người và được định danh bằng ý nghĩa của từ.
Các quan hệ đó có thể là quan hệ giữa các sự vật, q trình, hoạt động, cịn
người, vị trí, thời gian, sự kiện, v.v...

Hoán dụ là cách nêu lên một bộ phận để nói cả tồn thể hoặc nêu hình
thức bên ngồi để nói đến nội dung bên trong, hoặc trái ngược lại”.
2. Nguyễn Văn Tu trong cuốn giáo trình “Khái luận ngơn ngữ học,
NXB Giáo dục, H, 1960, tr 159 [dẫn theo 42] đã định nghĩa: “ Hoán dụ là phép
gọi tên một sự vật bằng tên của một sự vật khác. Hoán dụ dựa vào mối liên hệ
trực tiếp tức là chỗ giống nhau của hai sự vật mà người ta thấy trực tiếp được”.
3. Đỗ Hữu Châu trong cuốn Giáo trình Việt ngữ, tập 2, phần Từ hội
học, 1962, [2] đã định nghĩa: “Hoán dụ là hiện tượng chuyển hóa về tên gọi –
tên của một đối tượng này được dùng để gọi vật kia – dựa trên quy luật liên
tưởng tiếp cận”.
Có các loại hốn dụ như sau:
8


(1) Lấy bộ phận thay cho toàn bộ hay ngược lại lấy tồn bộ thay cho bộ
phận. Kiểu hốn dụ này được gọi là cải dung (synecdoque). Ví dụ: một tấm lòng
vàng, một chân trong nghị viện, một tay anh chị.
- Tên vũ khí, tên dụng cụ có thể chỉ người sử dụng: Tiểu đội có mười tay súng,
một cây viôlông.
- Tiếng kêu, màu sắc, bộ phận của cơ thể dùng để gọi tên, các động vật. Ví dụ:
chim chào mào, cá bạc má, con cuốc, con tu hú, con vành khun, vv...
- Hiện tượng hốn dụ lấy tồn bộ thay cho bộ phận. Ví dụ: một ngày cơng, một
buổi lao động, một tuần lễ vệ sinh, vv...
(2) Lấy vật chứa đựng thay cho cái bị chứa được. Ví dụ: Cả thành phố
xuống đường. Cả nhà vui hẳn lên. Cả rạp vỗ tay. Cả làng hốt hoảng, vv...
(3) Tên sản phẩm được gọi bằng tên nguyên liệu chế tạo. Ví dụ: đồng,
bạc là những từ chỉ tiền tệ do tên gọi các nguyên liệu của nó.
(4) Tên người, tên riêng của sản phẩm, tên của địa phương sản xuất có
khi được dùng chỉ chỉ các sản phẩm. Ví dụ: Anh đã đọc Nguyễn Du chưa?, Y
uống hết một chai Văn Điển, vv...

Trong cuốn giáo trình Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, 1981 [3,155] Đỗ Hữu
Châu định nghĩa hoán dụ như sau: “Hoán dụ là phương thức lấy tên gọi A của x
để gọi y, nếu x và y đi đôi với nhau trong thực tế”. Theo ơng, trong hốn dụ, mối
liên hệ đi đôi với nhau giữa x và y là có thật, khơng tùy thuộc vào nhận thức chủ
quan của con người như trong ẩn dụ. Trong sách này, tác giả đã nêu ra 15 loại
hoán dụ như sau:
(1) Hốn dụ dựa trên quan hệ bộ phận _ tồn thể giữa hai ý nghĩa biểu
vật x và y; x là bộ phận của y hoặc x là toàn thể, y là bộ phận. Loại này có các
loại nhỏ như: Lấy tên gọi của bộ phận cơ thể thay cho cơ thể, cho cả người hay
cho cả tồn thể. Ví dụ: có chân trong đội bóng đá, một tay cờ xuất sắc, đủ mặt
anh tài, gia đình bảy tám miệng ăn. Trường hợp tiếng, (tiếng Việt) là dùng cái
vỏ âm thanh vật chất để chỉ cả ngôn ngữ. Các từ ghép đẳng lập như: đất nước,
quốc gia cũng là một loại hốn dụ lấy bộ phận thay cho tồn thể. Lấy tên gọi của
tiếng kêu, của đặc điểm hình dáng để gọi tên con vật. Ví dụ: con tu hú, con tắc
9


kè, con mèo, con quạ, con rắn sọc dưa, cạp nong, nạp nia, con vành khuyên. Lấy
tên gọi của đơn vị thời gian nhỏ gọi tên đơn vị thời gian. Ví dụ: xn, thu, đơng
để chỉ năm. Các từ ghép ngày tháng, năm tháng được dùng để chỉ thời gian. Tên
riêng được dùng để thay cho tên của loại. Ví dụ: Tam Đảo, Thăng Long, có
nhiều khi được dùng để chỉ thuốc lá. Lấy tên gọi của một số nhỏ để chỉ một số
lớn. Lấy tên gọi của một số cụ thể để nói một số khơng xác định. Ví dụ: trăm,
nghìn, trăm người như một.
Lấy tồn thể chỉ bộ phận. Ví dụ: một ngày cơng, một đêm văn nghệ. Có
thể lấy tên của chủng loại lớn để chỉ loại nhỏ: đi sửa xe (xe đạp hoặc xe máy).
(2) Hoán dụ dựa trên quan hệ vật chứa và vật bị chứa. Ví dụ: Một nhà
sum họp. Cả làng tỉnh dậy. Cả thành phố nhộn nhịp.
(3) Hoán dụ dựa trên quan hệ nguyên liệu và sản phẩm. Ví dụ: cái thau,
1000 đồng, đeo kính.

(4) Hốn dụ dựa trên quan hệ đồ dùng, dụng cụ và người sử dụng. Ví
dụ: cây viơlơng, cây sáo, cây bút trẻ.
(5) Hoán dụ dựa trên quan hệ dụng cụ và ngành nghề. Ví dụ: sân khấu
thủ đô để chỉ ngành nghệ thuật như tuồng, chèo, kịch, vv... Các từ tay búa (công
nhân), tay cày (nông dân), tay súng (quân đội), vv...
(6) Hoán dụ dựa trên quan hệ vật chứa và lượng vật được chứa đựng. Ví
dụ: mấy thùng gạo, ba bồ sách, vv...
(7) Hoán dụ dựa trên quan hệ cơ quan chức năng và chức năng. Ví dụ:
đầu chỉ trí tuệ, tim chỉ tình cảm, mũi chỉ thính giác, vv...
(8) Hốn dụ dựa trên quan hệ tư thế cụ thể và nguyên nhân của tư thế.
Ví dụ: tắt thở chỉ cái chết, khoanh tay chỉ sự bất lực, ngẩng đầu chỉ sự bất khuất,
vv...
(9) Hoán dụ dựa vào âm thanh để gọi tên động tác. Ví dụ: đét, bịch,
bợp, vv...
(10) Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa hoạt động và sản phẩm được tạo ra
do hoạt động đó. Ví dụ: điểm, chấm, nắm, gói, vv...
10


(11) Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa hoạt động và cơng cụ. Ví dụ: giũa,
đục, vv...
(12) Hốn dụ dựa vào quan hệ giữa động tác tiêu biểu và toàn bộ q
trình sản xuất. Ví dụ: đóng (đóng bàn), đúc (đúc tiền), cắt (cắt áo), vv...
(13) Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa nguyên liệu và hoạt động dùng
nguyên liệu đó. Ví dụ: muối (muối dưa), thuốc (thuốc chuột), vv...
(14) Hoán dụ dựa vào quan hệ sự vật và màu sắc. Ví dụ: da cam, da
lươn, da trời, nước biển, vv...
(15) Hốn dụ dựa vào quan hệ giữa tính chất của sự vật và bản thân sự
vật. Ví dụ: chất xám, chất cay, vv...
Tác giả cho rằng, trên đây chỉ là một số loại hoán dụ thường gặp, những

trường hợp khơng phổ biến lắm có thể bỏ qua.
Tổng hợp qua hai giáo trình 1962 [2], 1981 [3], Đỗ Hữu Châu đã nêu ra đến
17 loại hoán dụ.
4. Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn giáo trình Từ vựng học tiếng Việt,
1985 [8,185] định nghĩa: “Hoán dụ là hiện tượng chuyển tên gọi từ sự vật hoặc
hiện tượng này sang sự vật hoặc hiện tượng khác dựa trên một mối quan hệ logic
giữa các sự vật hoặc hiện tượng ấy”.
Ông chia ra 10 loại hốn dụ, đó là:
(1) Quan hệ giữa tồn thể và bộ phận (synecdoche). Ví dụ: Nhà có năm miệng
ăn, Cả thế giới ủng hộ Việt Nam.
(2) Lấy không gian và địa điểm để thay cho những người ở đó. Ví dụ: nhà bếp
(người nấu bếp), thành phố (người dân thành phố).
(3) Lấy cái chứa đựng thay cho cái được chứa đựng. Ví dụ: bát (bát cơm), chai
(chai bia).
(4) Lấy quần áo, đồ trang phục nói chung thay cho con người. Ví dụ: áo chàm
(người dân tộc thiểu số Việt Bắc).
(5) Lấy bộ phận con người thay cho bộ phận quần áo. Ví dụ: cổ áo, tay áo, vai
áo, vv...
11


(6) Lấy địa điểm, nơi sản xuất thay cho sản phẩm được sản xuất ở đó. Ví dụ: kẹo
Xìu Châu.
(7) Lấy địa điểm thay cho sự kiện ở đó. Ví dụ: Chín năm là một Điện Biên.
(8) Lấy tên tác giả để thay cho tác phẩm. Ví dụ: Suốt mười năm tôi đọc Nguyễn
Du.
(9) Lấy tên chất liệu thay cho tên sản phẩm. Ví dụ: 1000 đồng, kho bạc.
(10) Lấy âm thanh thay thế cho đối tượng. Ví dụ: con cuốc, cái bình bịch, chim
tu hú, mèo, vv...
Nhận xét: loại 5 và 7 khác Đỗ Hữu Châu.

5. Lê Đức Trọng trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học
Việt – Anh – Pháp – Nga [34] đã nêu ra hai định nghĩa về hoán dụ:
(1) Theo quan điểm Từ vựng học: “Hoán dụ (metonymy) là phương thức biến
nghĩa (chuyển nghĩa) của từ đa nghĩa dựa vào tính chất tiếp cận của hai sự vật;
hai sự vật có liên quan với nhau về một khía cạnh nào đó có thể định danh bởi
một từ”. Ví dụ: Cả lớp siêng học, Anh ta là một cây bút trẻ.
(2) Theo quan điểm Tu từ học: “Hoán dụ là phép tu từ bao gồm việc dùng hình
ảnh mang nghĩa này để diễn đạt thay cho một ý khác có liên quan về mặt nào
đó”. Ví dụ: Áo chàm đưa buổi phân ly.

6.2.2 Định nghĩa hoán dụ theo quan điểm Tu từ học
1. Cù Đình Tú trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng
Việt”, 1983 [37, 296 – 297] đã định nghĩa: “Hoán dụ tu từ là cách cá nhân lâm
thời lấy tên gọi của đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên mối
quan hệ liên tưởng logic khách quan giữa hai đối tượng”.
Ông phân biệt nghĩa hoán dụ tu từ với nghĩa hoán dụ từ vựng như sau:
nghĩa hốn dụ tu từ thì có tính lâm thời, cịn nghĩa hốn dụ từ vựng thì có tính cố
định, được ghi trong từ điển tiếng Việt (trang 296).
Phân loại hoán dụ tu từ:

12


Theo ơng, về ngun tắc lý thuyết thì có bao nhiều mối quan hệ logic
khách quan chúng ta có thể cấu tạo nên bấy nhiêu kiểu hoán dụ tu từ. Trong thực
tế, chúng ta thường gặp 8 loại hoán dụ tu từ sau:
(1) Quan hệ logic khách quan giữa bộ phận và tồn thể. Ví dụ: đầu xanh chỉ con
người ở độ tuổi trẻ đẹp, má hồng chỉ người đàn bà sống kiếp lầu xanh.
(2) Quan hệ logic khách quan giữa chủ thể (người) và vật sở thuộc (y phuc, đồ
dùng). Ví dụ: áo tứ thân (bầm), đơi dép cũ nặng công ơn (Bác Hồ giản dị).

(3) Quan hệ logic khách quan giữa hành động, tính chất và kết quả của hành
động, tính chất. Ví dụ: “Đường cái đã nhọ mặt người” (nhọ mặt người (kết quả)
biểu thị bắt đầu tối (tính chất)), “Mồ hơi mà đổ xuống đồng” (mồ hôi (kết quả)
biểu thị lao động căng thẳng, vất vả (hành động)).
(4) Quan hệ logic khách quan giữa hành động và chủ thể. Ví dụ: “Một lúc anh
khẽ nói giọng chán nản của một anh chàng bị đánh cắp ái tình”, đánh cắp ái tình
(hành động) biểu thị người vợ phụ bạc (chủ thể của hành động). Hoặc “Một nắm
cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đến
phèo một cái cịn gì! (NC)”, cái dạ dày chăm chỉ (chủ thể) biểu thị sự đói nhanh
(trạng thái hành động).
(5) Quan hệ logic khách quan giữa số lượng và số lượng. Ví dụ: “Một trăm con
gái rửa chân cầu này”, một trăm (số lượng xác định) biểu thị rất nhiều (số lượng
không xác định).
(6) Quan hệ logic khách quan giữa vật chứa đựng và vật được chứa đựng. Ví dụ:
Vì sao trái đất nặng ân tình, thì trái đất (vật chứa đựng) biểu thị đông đảo nhân
loại (vật được chứa đựng).
(7) Quan hệ logic khách quan giữa cái cụ thể và cái trừu tượng. Ví dụ:
“Kháng chiến ba ngàn ngày khơng nghỉ
Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân”. (TH)
Thì “Bắp chân đầi gối vẫn săn gân” (cụ thể) biểu thị tinh thần kháng chiến dẻo
dai (trừu tượng).

13


(8) Quan hệ logic khách quan giữa tên riêng, tên nhân vật và tính cách con
người. Ví dụ: Thời đại ta có bao nhiêu Dơia, thì Dơia (tên riêng) biểu thị người
phụ nữ anh hùng (tính cách).
2. Nguyễn Nguyên Trứ, trong cuốn “Đề cương bài giảng về phong cách học”,
1988 – 1989, [35] đã định nghĩa: “Hoán dụ là biện pháp tu từ chuyển nghĩa cơ

sở trên mối liên tưởng tương cận (logic, vật chất, lịch sử, thới quen)”. Ví dụ:
“Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến q nửa thì chưa thơi”
(Nguyễn Du)
Các loại khác của hốn dụ cũng được định nghĩa riêng. Đó là cải dung, cải
danh, cải số, tượng trưng.
- Cải dung: “Cải dung là biện pháp tu từ chuyển nghĩa cơ sở trên mối liên
tưởng tương cận. Ở đây, người ta lấy vật chứa đựng thay thế cho vật bị chứa
đựng, địa danh thay cho con người”. Ví dụ: Cả thành phố xuống đường.
- Cải danh: “Cải danh là biện pháp tu từ chuyển nghĩa cở sở trên mối liên
tưởng tương cận. Ở đấy, người ta lấy tên riêng thay thế cho tên chung”. Ví dụ:
Thời đại ta có bao nhiêu Dơia (Nguyễn Văn Tý).
- Cải số: “Cải số là biện pháp tu từ chuyển nghĩa cở sở trên mối liên tưởng
tương cận. Ở đấy, người ta lấy một con số cụ thể thay cho một số chung”. Ví dụ:
Cắc bụp! Cắc bụp xịa !
Ba thằng giặc Pháp bắt gà bắt heo.
(Ca dao)
- Tượng trưng: “Tượng trưng là biện pháp chuyển nghĩa, ở đấy, sự biểu
hiện được thực thiện bằng những ước lệ”. Ví dụ: Búa liềm khơng sợ súng gươm
bạo tàn (Tố Hữu)
Tượng trưng có thể được hình thành từ hốn dụ hoặc ẩn dụ.
Phân loại hoán dụ:
Qua những định nghĩa ở trên, ta thấy Nguyễn Ngun Trứ chia ra thành 5
loại hốn dụ, đó là: (1) lấy bộ phận thay cho toàn thể, (2) lấy vật chứa đựng thay
cho vật bị chứa đựng, lấy địa điểm, nơi chốn để thay cho người ở đó (cải dung),
14


(3) lấy tên riêng thay cho tên chung (cải danh), (4) lấy một con số cụ thể thay
cho một số lượng khái quát (cải số), (5) tượng trưng (ước lệ).

3. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) – Nguyễn Thái Hòa, 2002 [14,203] nêu một nhóm
hốn dụ gồm hốn dụ, cải dung, cải danh, cải số, tượng trưng (có 9 loại nhỏ).
- Hoán dụ: “Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một
đặc điểm hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối
tượng ấy”. Định nghĩa này tương tự định nghỉa của Từ điển bách khoa Đại học
Columbia [57].
Ơng cho rằng tùy hồn cảnh mà một đối tượng có thể được gọi bằng một
tên gọi riêng, “do vậy số lượng của hoán dụ gần như là vô tận” (tr 203). Chẳng
hạn, để chỉ một người trong một hồn cảnh nào đó mà ta khơng biết tên, ta có
thể gọi bằng những cách khác nhau:
. Đặc điểm ngoại hình: chị tóc quăn, anh đeo kính, mụ lùn tịt, vv...
. Quần áo vật dụng: anh áo đỏ, cô áo xanh, bà áo lông, anh xe cub, bác
xích lơ, vv...
. Nghề nghiệp: cơ giáo, bà bác sĩ, nhà xe, bà đồng nát, anh phở bò, vv...
. Chức vụ: (chào) đại tá, giám đốc, thủ trưởng, lớp trưởng, vv...
. Quan hệ thứ bậc trong gia đình: ơng, bà, cha, mẹ, vv...
- Cải dung: “Cải dung là một phương thức hoán dụ chỉ cái chứa đựng thay
cho vật chứa đựng”, tr 205. Ví dụ: ăn ba bát cơm, Cả làng đổ ra xem, Cả hội
trường đứng dậy vỗ tay, khúc ruột miền Trung, khúc ruột của mình.
- Cải danh: “Cải danh là phương thức chuyển nghĩa biểu thị mối quan hệ
giữa tên riêng và tên chung, trong đó, tên riêng thay cho tên chung và ngược
lại”, tr 206. Ví dụ: Cho tơi một hai nơ ken (bia), một điếu ba số (555), Anh đã
đọc Tônxtôi chưa? (tác phẩm của Tônxtôi).
- Cải số: “Cải số là phương thức chuyển nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa
số ít và số nhiều, giữa con số cụ thể và con số tổng quát”, tr 206. Ví dụ: Ba cái
thằng xỏ lá ba que, Trăm mớ nở bà giằn, Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng, vv...
gọi đích xác là một trăm nhưng ai cũng hiểu là nhiều.
15



- Tượng trưng: “Tượng trưng là phép chuyển nghĩa dựa vào những ẩn dụ
và hốn dụ”, tr 207. Ơng cho rằng, tượng trưng là lối nói quen thuộc khơng cần
xếp vào một nhóm riêng. Ví dụ: màu xanh tượng trưng cho hịa bình, màu trắng
thần khiết, con cị là hình ảnh người nông dân, đào, mai, cúc, trúc tượng trưng
cho khí phách của bậc chính nhân quân tử.
4. Định Trọng Lạc, trong sách “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”,
2005 [15] đã nêu một nhóm hốn dụ gồm: hoán dụ, uyển ngữ, nhã ngữ, tượng
trưng.
- Hoán dụ: “Hoán dụ là định danh thứ hai dựa trên mối liên hệ hiện thực
giữa khách thể được định danh với khách thể có tên gọi được chuyển sang dùng
cho khách thể được định danh”. (trang 66). Ông chỉ ra hai loại hoán dụ là hoán
dụ từ vựng và hoán dụ tu từ. Hoán dụ từ vựng là những sự kiện ngơn ngữ và
khơng cịn ý nghĩa tu từ nữa. Hốn dụ tu từ là hốn dụ thực hiện hóa mối liên hệ
mới mẻ, bất ngờ giữa hai khách thể. Có các loại hoán dụ tu từ sau:
(1) Liên hệ giữa bộ phận và toàn thể.
(2) Liên hê giữa chủ thể (người) và vật sở thuộc (y phục, đồ dùng).
(3) Liên hệ giữa công cụ lao động và bản thân sức lao động hoặc kết quả lao
động. Ví dụ: Bàn tay ta làm nên tất cả.
(4) Liên hệ giữa số ít và số nhiều, giữa con số cụ thể và con số tổng quát (cải
số).
(5) Liện hệ giữa vật chứa đựng và vật được chứa đựng (cải dung). Ví dụ: ăn ba
bát cơm, Vì sao trái đất nặng ân tình.
(6) Liên hệ giữa hành động, tính chất và kết quả của hành động, tính chất. Ví dụ:
Mồ hơi mà đổ xuống đồng.
(7) Liên hệ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng. Ví dụ: Bắp chân, đầu gối vẫn săn
gân (cái cụ thể) biểu thị tinh thần kháng chiến dẻo dai (trừu tượng).
- Uyển ngữ: “Uyển ngữ thuộc nhóm hốn dụ, là hình ảnh tu từ, trong đó người ta
thay tên gọi một đối tượng (hoặc một hiện tượng) bằng sự miêu tả những dấu
hiệu cơ bản của nó, hoặc bằng việc nêu lên những nét đặc biệt của nó” (tr 71).
Uyển ngữ có những loại như:

16


(1) Tên đặc điểm thay cho tên gọi cả đối tượng. Ví dụ: phái yếu, phái đẹp (phụ
nữ).
(2) Một khái niệm rộng hơn được dùng để chỉ một đối tượng hoặc người cụ thể.
Ví dụ: một cơng cụ giết người (súng), người bảo vệ trật tự đường phố (cảnh sát
giao thơng).
- Uyển ngữ hình tượng. Ví dụ: Điện Biên Phủ trên không (chiến thắng của Hà
Nội đánh bại chiến dịch ném bom B52), rồng lửa bay (tên lửa bay), vv... Các
trường hợp đã được từ vựng hóa: vàng đen (than, dầu mỏ), than trắng (thủy
điện), xanh hịa bình (xanh da trời), vv...
- Nhã ngữ: Tác giả coi đây là một biến thể của uyển ngữ. Tuy nhiên, thực chất
đây là một lối nói ẩn dụ. Ví dụ như thay vì nói chết thì nói thành mất, đi gặp cụ
Các Mác, cụ Lênin.
- Tượng trưng là những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ, dùng nhiều lần trở nên phổ
biến. Chẳng hạn, trong văn học cổ thường dùng tùng, cúc, trúc, mai để chỉ người
qn tử, con cị là hình ảnh tượng trưng cho người nông dân, người đàn bà lam
lũ, vất vả.
5. Hoàng Trinh trong cuốn “Từ ký hiệu học đến thi pháp học, 1997 [33] đã chia
ra hai nhóm hốn dụ và đề dụ”. “Hốn dụ là chỉ một sự vật A bằng một sự vật B,
tuy vẫn là bộ phận đứng riêng, có ý nghĩa riêng nhưng có sự tồn tại là nhờ sự có
mặt của sự vật trước là A” (tr 73).
Có các loại hốn dụ sau:
(1) Hoán dụ về nguyên nhân: lấy nguyên nhân (nghĩa hiển ngơn) để nói về một
kết quả nào đó. Ví dụ: Đây đúng là một Trần Quang Khải, một Virgile (kết quả
là một tác phẩm kiệt xuất nào đó), một ngòi bút thép (chỉ hành văn mạnh mẽ),
những tấm lòng vàng (chỉ những người hảo tâm), v.v…
(2) Hoán dụ về phương tiện (lấy phương tiện để nói về con người, tính cách,
việc làm, v.v…). Ví dụ: Một ngịi bút tuyệt vời, con dao hai lưỡi, một đầu tàu

đối với chúng ta.
(3) Hốn dụ về kết quả (lấy kết quả nói nguyên nhân). Ví dụ: Cách mạng đã đưa
lại ánh sáng cho bà con mù chữ (ánh sáng là biết đọc, biết viết, văn hóa).
17


(4) Hoán dụ về cái chưa đựng (lấy cái chứa đựng nói cái bên trong, được chứa
đựng). Ví dụ: cạn chén, uống cho hết cốc, thiên đường (hạnh phúc), địa ngục
(chết chóc, đau khổ), chiến trường (cuộc chiến đấu)…
(5) Hốn dụ về nơi chốn (lấy nơi chốn nói về nói về con người, sự vật). Ví dụ:
Đúng là người Hà Nội, một Booc Đơ, v.v…
(6) Hốn dụ về ký hiệu (lấy ký hiệu để nói sự vật, sự kiện). Đây là loại mà các
nhà nghiên cứu khác gọi là tượng trưng. Ví dụ: Ngai vàng của bọn chúng đã sụp
đổ (chính quyền), tịa áo đỏ (tồ hình sự), cịn đâu gươm giáo (bọn chiến bại).
(7) Hoán dụ về vật thể (lấy cái có tính chất vật thể để nói tinh thần, tư tưởng là
cái trừu tượng). Các nhà nghiên cứu khác gọi đây là loại hoán dụ dựa trên mối
quan hệ cụ thể , trừu tượng. Ví dụ: Mũ nỉ che tai (lờ hết), trái tim sắt đá (lòng
kiên trinh, vững vàng), bụng đói khơng có tai, v.v…
(8) Hốn dụ về sự vật (chỉ một con người, con vật bằng sự vật mang đặc điểm
của nó). Đây là loại hốn dụ dưa vào mối quan hệ đặc điểm, tính chất – bản thân
sự vật. Ví dụ: Ba vị áo thụng (bác sĩ), tàu ống khói (tàu chạy bằng hơi nước).
- Đề dụ: “Đề dụ là chỉ một sự vật bằng tên một sự vật khác cùng sự vật kia làm
thành một toàn thể (về mặt vật thể hay tinh thần), ý niệm về sự vật này được bao
gồm trong ý niệm sự vật kia” (tr 75).
Đề dụ có những loại như sau:
(1) Đề dụ về bộ phận (lấy một phần để nói đến tồn thể). Ví dụ: Một mái nhà
bình minh bao phủ (một gia đình), những bàn tay khéo léo (những người thợ
khéo léo).
(2) Đề dụ về toàn thể (lấy tồn thể để nói một phần). Ví dụ: Mua cho tơi màu đỏ
(một cái gì đó màu đỏ), Cơm nước xong rồi, ta đi thôi! (ăn xong rồi, đi!).

(3) Đề dụ về số lượng (lấy số ít để nói số nhiều hoặc ngược lại). Ví dụ: Con
người sinh ra (loài người), Phải học tập những Nguyễn Viết Xuân, những
Nguyễn Văn Trỗi (lấy số nhiều để nói một người anh hùng).
(4) Đề dụ về giống (lấy giống (cao hơn) để nói lồi (thấp hơn)). Ví dụ: Thương
hại cho con vật! (con chó, con mèo…gì đó), Tồn người là người (đàn ông, đàn
bà, trẻ em).
18


(5) Đề dụ về loài (lấy loài (thấp hơn) để nói giống (cao hơn)). Ví dụ: Bánh mì và
hoa hồng (bánh mì (lương thực) hoa hồng (hạnh phúc)).
(6) Đề dụ về cái trừu tượng (lấy cái trừu tượng để nói cái cụ thể). Ví dụ: Những
phường giáo áo túi cơm sá gì (loại người chẳng ra gì), tuổi thơ (các em bé), các
lứa tuổi (các lớp người già trẻ), vv...
(7) Đề dụ về cá nhân (lấy cá nhân này nói cá nhân kia có cái tương ứng, lấy cá
nhân nói tập đồn hay ngược lại). Ví dụ: một tú bà, một mã giáng sinh, một tên
phát xít, v.v… Đây là loại hoán dụ dựa vào vào quan hệ tên riêng – tên chung
hay tên riêng – tính cách đặc điểm.
(8) Hoán dụ hỗn hợp (một từ vừa dùng theo nghĩa ban đầu (nghĩa đen) vừa dùng
theo nghĩa nội hàm (nghĩa bóng)). Ví dụ: Anh học sinh đó chẳng cịn gì là học
sinh cả (nhác học, hư hỏng).
(9) Đề dụ hỗn hợp. Ví dụ: Chó sói vẫn là chó sói.
- Hai loại (8) và (9) thường được dùng trong câu trùng ngơn có cấu trúc D là D,
biểu thị quan hệ riêng – chung (cái riêng dù có thế nào cũng vẫn mang bản chất
chung).
6. Sái Phu, 2005, [25] đã nêu các loại hốn dụ sau: bộ phận – tồn thể, bên
ngoài – bên trong, đồ đựng – nội dung, nguyên nhân – kết quả, chất liệu – vật
phẩm, ngoại diện rộng – ngoại diện hẹp (thượng danh – hạ danh), trừu tượng –
cụ thể, khái quát – cá biệt.
6.2.3 Tổng kết các loại kiểu hoán dụ trong tiếng Việt.

(Trên cơ sở phân loại của các nhà nghiên cứu đã nêu ở trên; QH = quan hệ)
(1) QH toàn thể - bộ phận (nhiều loại, trong đó có cả số).
(2) QH khơng gian, địa điểm – người ở đó (cải dung).
(3) QH vật chứa – lượng vật được chưa (cải dung).
(4) QH nguyên liệu – sản phẩm.
(5) QH đồ dùng, y phục – người sử dụng.
(6) QH dụng cụ - nghề nghiệp.
(7) QH cơ quan chức năng – chức năng.
(8) QH tư thế - nguyên nhân của tư thế.
19


(9) QH âm thanh – động tác.
(10) QH âm thanh – đối tượng.
(11) QH hoạt động – sản phẩm tạo ra từ hoạt động.
(12) QH hoạt động – công cụ (từ chuyển loại).
(13) QH động tác tiêu biểu – cả quá trình sản xuất.
(14) QH nguyên liệu – hành động dùng nguyên liệu đó.
(15) QH sự vật – màu sắc.
(16) QH tính chất, đặc điểm – bản thân sự vật.
(17) QH tác giả – tác phẩm.
(18) QH tên người – tính cách.
(19) QH tên nơi chốn – tên đối tượng.
(20) QH địa điểm – sự kiện ở đó.
(21) QH nhân – quả.
(22) QH cụ thể – trừu tượng.
(23) QH nghề nghiệp – người làm nghề đó.
(24) QH chức vụ - người giữ chức vụ đó.
(25) Lấy QH thứ bậc trong gia đình để chỉ người dưng.
(26) QH chủng (thượng danh) – loại (hạ danh).

(27) Tượng trưng.
(28) QH khái quát (nói vòng) – cụ thể.
(29) QH riêng – chung (trong cấu trúc D là D).
6.2.4 So sánh kết quả phân loại của các tác giả
(Trong một loại lớn có thể gồm nhiều loại nhỏ)
Tác giả

Các loại HD

Đ.H
Châu
1962,
1981
17

N.T
Giáp
1985

C.Đ.

1983

11

7

N.N.
Trứ
1988,

1989
6

T. Hịa
2002

Đ.T
Lạc
2005

H.
Trinh
1997

S.Phu
2005

10

12

18

8

1. Tồn thể – bộ
phận

+


+++

++

++

+

++

+++

+

2. Khơng gian –
người ở đó

+

+

+

+

+

+

+


+

20


3. Vật chứa –
vật bị chứa

+

+

4. Nguyên liệu
– sản phẩm

+

+

5. Đồ dùng, y
phục – người

+

+

6. Dụng cụ –
nghề nghiệp


+

7. CQ
năng –
năng

+

chức
chức

8. Tư thế –
nguyên nhân

+

9. Âm thanh –
động tác

+

10. Âm thanh –
đối tượng

+

+

+


+

12. Hoạt động –
công cụ

+

13. Động tác –
quá trình

+

14. Ngun liệu
– hành động

+

15. Sự vật –
màu sắc

+

16. Tính chất –
sự vật

+

17. Tác giả –
tác phẩm


+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

+

18. Tên người –
tính cách

+
+


+

11. Hoạt động –
sản phẩm

19. Tên nơi
chốn – tên đối
tượng

+

+

+

+

+

+
21


20. Địa điểm –
sự kiện

+

+


21. Nhân – quả

+

+

++

+

22. Cụ thể –
trừu tượng

+

+

++

+

+

+

23.
Nghề
nghiệp – người

+


24. Chức vụ –
người giữ chức
vụ

+

25. QH thứ bậc
– người dưng

+

26. Tượng trưng
27. Chủng
loại

+



++

28. Khái quát –
cụ thể
29. Riêng
chung

+

+




+
+

++

7. Phân biệt hoán dụ và ẩn dụ
Cả hoán dụ (metonymy) và ẩn dụ (metaphor) đều là những lối nói dùng
tên gọi của sự vật, hiện tượng này để thay thế cho tên gọi của sự vật, hiện tượng
kia. Tuy nhiên, cơ sở ngữ nghĩa logic của hai lối nói này rất khác nhau. Theo
Roman Jakobson, 2002 trong tài liệu “Two aspects of language and two types of
disturbances” (theo Wikipedia, the free encyclopedia) thì hốn dụ hoạt động dựa
vào mối liên hệ tương cận (contiguity association) giữa hai khái niệm, ngược lại
ẩn dụ hoạt động dựa vào mối liên hệ tương đồng (similarity) giữa chúng. Chẳng
hạn, từ Crown (vương miện) cịn được dùng theo nghĩa hốn dụ là The British
monarchy (chế độ quân chủ nước Anh hay vua). Giữa Crown và The British
monarchy hay king khơng có điểm tương đồng nào, nhưng lại có liên hệ tương
cận: trang phục và người sử dụng trang phục (vua thì đội vương miện). Từ dish
22


(cái dĩa) dùng theo nghĩa hốn dụ thì có nghĩa là a course (món ăn)khơng có
mối tương đồng nào nhưng lại có mối liên hệ tương cận: dish là cái chứa đựng
và a course là cái được chứa đựng. Từ sweat (mồ hơi) dùng theo nghĩa hốn dụ
có nghĩa là hard work (lao động cực nhọc). Giữa sweat và hard work khơng có
điểm tương đồng nào nhưng có quan hệ tương cận: nguyên nhân – kết quả.
Ẩn dụ dựa vào mối liên hệ tương đồng giữa hai khái niệm. Chẳng hạn từ
eye (mắt) có thể dùng theo nghĩa ẩn dụ như trong cách nói: the eye of the needle

(lỗ kim khâu). Điểm tương đồng giữa eye và needle là cả hai đều có hình trịn.
Trong câu Lend me your ear (Cho tơi mượn cái tai của bạn) thì the lend chỉ có
thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ là quay cái tai của bạn về hướng tơi vì khơng thể cho
mượn cái tai, còn từ ear (cái tai) được hiểu theo nghĩa hốn dụ là chú ý nghe vì
người ta sử dụng tai để nghe ai đó nói. Một câu nói khác:
Fifty

keels

(50) (thân tàu)

ploughed
(cày)

the deep
(vùng nước sâu) : nghĩa đen

(50) (con tàu) (vượt qua) (đại dương)

: nghĩa phái sinh

Keels là một hốn dụ, vì nó lấy một phần của con tàu (cái thân tàu) để chỉ
cả con tàu the ship. Ploughed là một ẩn dụ ví nó thay thế khái niệm cày ruộng
cho khái niệm đi qua đại dương. The deep là một hốn dụ về vì deepness (vùng
nước sâu) là một đặc trưng tiêu biểu của đại dương.
Cách phân biệt hoán dụ và ẩn dụ của các nhà Việt ngữ học từ trước đến nay
cũng giống cách phân biệt của các nhà nghiên cứu nước ngồi.
8. Định nghĩa về hốn dụ được sử dụng để nghiên cứu đề tài này.
Ở đề tài này, chúng tơi nghiên cứu các loại hốn dụ từ vựng. Vì vậy,
chúng tơi sử dụng định nghĩa về hoán dụ của tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn

Giáo trình Việt ngữ tập 2, phần Từ hội học, NXB Giáo dục Hà Nội, 1962 [2].

23


PHẦN 2: TỪ VÀ CÁC TRƯỜNG TỪ VỰNG DÙNG THEO NGHĨA
HOÁN DỤ
1. Nhận xét chung:
1.1 Trường nghĩa là một tập hợp của các đơn vị từ vựng căn cứ vào một nét
đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa.
Trường nghĩa gồm hai loại: trường từ vựng (word field) dựa vào sự đồng
nhất về nghĩa biểu vật (dentotative meaning), trường ngữ nghĩa (semantic field)
dữa vào sự đồng nhất về nghĩa biểu niệm (significative meaning)
Việc xác định và phân loại các trường từ vựng sẽ cho chúng ta biết được
phạm vi, số lượng các loại sự vật được dùng làm cái biểu trưng cho nghĩa hốn
dụ, cịn xác định các nghĩa hốn dụ, các trường ngữ nghĩa theo nghĩa hoán dụ sẽ
giúp chúng ta xác định các cơ sở của quy luật chuyển nghĩa theo hoán dụ, phân
loại các hoán dụ.
1.2

Các bước làm cụ thể:

(1) Dựa vào nghĩa biểu vật xác lập các trường từ vựng lớn (30 trường)
(2) Dựa vào nghĩa biểu niệm riêng của mỗi từ để xác định các nghĩa hốn dụ,
các trường ngữ nghĩa theo nghĩa hốn dụ (có thể gọi tắt là các trường nghĩa theo
nghĩa hoán dụ).
(3) Một từ đa nghĩa có thể có một hay nhiều nghĩa hốn dụ. Khi nào nghĩa hốn
dụ có từ hai từ trở lên biểu thị thì mới có trường ngữ nghĩa.
(4) Các từ ghép, thành ngữ có từ hai yếu tố cấu tạo trở lên có nghĩa hốn dụ thì
về ngun tắc có thể xếp trong hai trường, ví dụ: tâm can, lịng dạ, bn phấn

bán son, v.v…
(5) Sau mỗi nghĩa hốn dụ, chúng tơi sẽ nêu cơ sở của phép chuyển nghĩa theo
hốn dụ.
(6) Có một số nhóm từ đồng nghĩa ở nghĩa hoán dụ, chẳng hạn: mặt, miệng,
khẩu, mũi, thân, mình, tay, chân, v.v… chúng tơi sẽ phân biệt nghĩa của các từ
trong những nhóm đó.
(7) Nhận xét về lớp từ vựng dùng theo nghĩa hoán dụ trong tiếng Việt.
24


×