Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài thuyết minh về chùa Trấn Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.62 KB, 16 trang )

BÀI THUYẾT MINH

Kính thưa quý khách! Trước mặt quý khách là chùa Trấn Quốc - ngôi
chùa cổ nhất Hà Nội. Chùa nằm giữa bốn bề mặt nước mênh mông của Hồ Tây,
chỉ có một con đường lát gạch đỏ au và hai cây bàng cành lá xum xuê nối từ
đường Thanh Niên vươn ra bãi kim ngư để vào chùa Trấn Quốc. Trấn Quốc là
một ngơi chùa có quy mơ lớn, tạo lạc trên một khu đất nổi ở Đông Bắc Hồ Tây.
Theo thuyết phong thủy thì nơi này rất đẹp vì bãi đất có hình con cá vàng – đầu
cá là ngôi chùa, đuôi cá là đường đi vào chùa, diện tích tồn bãi rộng 3000m2.
Để thuận theo hình thể và địa lý của khu vực, cổng chùa được xây đằng sau
chùa về phía tay phải, quay mặt ra đường để thuận tiện cho người dân vào lễ
Phật.
Thưa quý khách! Trong kiến trúc truyền thống của người Việt, việc lựa
chọn vị trí dựng đình, chùa, miếu đóng vai trị rất quan trọng. Chính vì thế,
trước khi khởi tạo một cơng trình kiến trúc nào đó, cha ơng ta đã chú ý rất nhiều
đến việc chọn vị trí sao cho phù hợp với chức năng sử dụng và đảm bảo về mặt
thẩm mỹ của cơng trình. Chùa Trấn Quốc nằm ở vị trí đẹp. Chùa quay hướng
Nam, là một hướng đẹp và phổ biến trong việc xây dựng đình chùa. Hướng
Nam là một hướng đầy dương tính, sáng sủa, hợp với khí hậu nước ta (mùa
1

1


đơng tránh được giá rét, mùa hè thì mát mẻ). Hướng Nam gắn với quan niệm
dân dã (lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam) đồng thời hướng Nam cũng là
hướng của đế vương, là phương của trí tuệ. Người Trung Hoa có câu: “Thánh
nhân nam diện nhu thính thiên tạ” có nghĩa là: vua ngồi quay mặt về hướng
Nam nghe thiên hạ tâu bày. Với ngơi chùa thì phần nào cịn có nghĩa các đức
Phật và Bồ tát ngồi quay hướng Nam để nghe lời kêu cứu của chúng sinh trong
kiếp đời tục lụy, đặng dùng pháp lực vô lượng vô biên qua tứ đại vô lượng tâm


(từ, bi, hỉ, xả) mà cứu vớt. phía Nam đối với đạo Phật là Bát nhã, tức trí tuệ
(cứu cánh của Phật đạo), có trí tuệ sẽ diệt trừ được ngu tối, bởi ngu tối là mầm
mống của tội ác, và hướng Nam đối với nhà Phật là hướng thiện.
Chùa Trấn quốc được bao bọc bởi Hồ Tây, thế đất của chùa thể hiện mối quan
hệ âm dương tứ tượng và dịch học. Cụ thể là kiến trúc chùa cao biểu tượng cho
đương, diện nước thấp biểu tượng cho âm; nhưng kiến trúc cao thì rêu phong,
trong dương ấy có âm (thiếu âm) mạch nước tuy thấp bản chất là âm nhưng
sánh lên đã chứa yếu tố dương trong đó (thiếu dương) hợp lại là tứ tượng. nhìn
chung lưỡng nghi, tứ tượng của kiến trúc này là cầu sự phát sinh, phát triển.
Tôi xin giới thiệu sơ qua về lịch sử của chùa Trấn Quốc. Chùa được khai
sáng từ giữa thế kỉ thứ XI, thời tiền Lý Nam Đế, tức Lý Bôn, xây dựng khoảng
năm 541-548. Ban đầu chùa ở bãi sông Hồng thuộc địa phận Yên Phụ ngày nay.
Chùa lúc sơ khai do vị Lý Phật Tử khi chưa làm vua Hậu Lý Nam Đế đứng
hưng công xây dựng chùa, trong những năm vua Tiền Lý Nam Đế khởi nghiệp
và ở ngôi. Lúc đầu lấy hiệu chùa là Khai Quốc.
Đến đời Lê Kính Tơng, năm 1615, bãi sơng Hồng bị lở, nhân dân rời
chùa vào bãi đảo Kim Ngư là chỗ ngày nay. Bán đảo Kim Ngư trước kia bốn bề
là nước Hồ Tây, chưa có con đường ra vào ra vào như bây giờ va đó là cung
Thuý Hoa của nhà Lý và điện Hàm Nguyên của nhà Trần. Năm 1639,chúa
2

2


Trịnh biến đảo Kim Ngư thành hành cung riêng của nhà chúa để vui chơi giải trí
nên đã cho sửa chữa lại chùa. Chúa Trịnh cho xây Tam quan, hành lang 2 bên,
trồng sen xung quanh đảo. Nơi thờ tự bỗng trở thành chốn hành lạc của nhà
Chúa. Sự lạm dụng ngang ngược đó ở nơi cửa Phật thiêng liêng này kéo dài cho
mãi tới khi quân Tây Sơn ra Bắc mới thơi (1788). Khi đó nhà Lê được dịp trả
thù họ Trịnh, cho lửa đốt cháy tất cả nhà cửa trên đảo. Hàng ngàn người ra ngăn

giữ việc nhà Lê đốt phá để nơi đây cho dân thờ Phật tiếp tục. Do vậy nhà Lê
ngừng thiêu đốt tất cả mà chỉ phá đi những căn phòng là nơi cung nữ và bọn
hoạn quan từng ăn ở …Sau đó chùa Trấn Quốc lại được nhân dân tu bổ sớm tối
đèn nhang. Chốn cửa thiền trở lại thanh tịnh phong quang.
Năm 580 có vị cao tăng Ấn Độ đi du hố qua nước ta, pháp danh là Tỳ Ni
Đa Lưu Chi cũng dừng chân ở chùa Trấn Quốc một thời gian sau mới đến chùa
Pháp Vân ở Bắc Ninh. Dưới thời nhà Lý ,hoàng hậu Nguyên Phi Ỷ Lan thường
lui tới đây. Tương truyền rằng vua Lý Huệ Tôn sau khi thối vị nhường ngơi
cho con đã đến tu tại chùa này.Năm 1624 và 1629 chúa Thanh Đô Vương Trịnh
Tráng phát tâm sửa chữa lại toà Tam Bảo, làm 2 dãy hành lang và nhà Tổ, xây
dựng lại Tam quan rất lộng lẫy . Cuối thế kỉ XVIII chùa lại bị dổ nát, nhân dân
lại xây dựng lại chùa,sau 2 năm mới xong. Năm 1934 chùa được trùng tu,năm
1983 Hoà thượng Kim Cương Tử về trụ trì chùa được tu bổ đẹp.
Kính thưa Q khách! Mời Q khách cùng tơi vào thăm ngôi chùa.Bước
chân vào chùa Trấn Quốc, Quý khách sẽ không khỏi ngạc nhiên và khâm phục
bởi con mắt tinh tường của người xưa, khi dựng ở nơi đây một ngơi chùa để
người dân gửi gắm lịng thành kính của mình vào đó. Nằm giữa bốn bề mây
nước, các cơng trình kiến trúc của chùa được bố trí hài hịa trong khn viên
rộng tạo ra một khơng gian thống đãng. Quý khách có thể cảm nhận được sự
thanh tĩnh trong chính tâm hồn mình… Chùa Trấn quốc tuy khơng nhiều bậc đá
3

3


rêu phong, hay núi non trùng điệp, nhưng từ xa xưa cho đến nay vẫn là một
danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà mặt nước Hồ Tây đầy huyền thoại làm chứng
quả: “chùa Trấn Quốc cảnh đẹp phủ Phụng Thiên, danh lam miền kinh địa…
phía Bắc có sơng Nhị, phía Nam giáp đế thành. Nơi cảnh trí thiêng liêng, sinh
ra người hào kiệt. thật là cõi tiên trên thế giới, danh thắng đất kinh kỳ, làm vẻ

vang cho hiện tại, lưu truyền cho tới ngày sau”. (Bia Dương Hòa 5/1639)
Vâng, thưa Q khách, có thể nói, di tích chùa Trấn Quốc chưa hội tụ trọn vẹn
những yếu tố địa hình, cảnh quan của một nơi linh địa, hút được sinh lực của
tầng trên, song có thể coi đây là mảnh đất đẹp, gần yếu tố nước, hợp với tư duy
nông nghiệp của người Việt Nam chúng ta.
Kính thưa quý khách! Trước mặt Quý khách là cổng Tam quan - kiến trúc
đầu tiên báo hiệu một ngôi chùa. Chùa Trấn quốc trước đây cũng có Tam quan
theo lối chồng diềm, bao hàm ý nghĩa Phật triết sâu sắc. Vào lần trùng tu gần
đây, chùa đã dựng cổng mới bằng vật liệu hiện đại (vôi, vữa, xi măng) nhưng
vẫn thể hiện theo phong cách truyền thống.
Quý khách có thể quan sát, cổng chùa có bốn trụ lớn tạo vịm cửa có độ
sâu, sát phía hồ mỗi bên có hai trụ nhỏ được làm theo kiểu trụ biểu lồng đèn.
Phần nối giữa trụ chính và trụ nhỏ là tường bao, gờ tường có trang trí hoa chanh
và lá cúc. Các trụ có kết cấu và trang trí giống nhau gồm ba phần: đầu trụ, thân
trụ, đế trụ. Đế trụ làm dạng quả găng, xây gờ giật cấp, ăn sâu xuống lịng đất
làm móng chịu lực chính. Thân trụ xây hình vng, trên thân đắp gờ kẻ nổi để
nhấn mạnh các câu đối chữ Hán. Tiếp đến là phần lồng đèn, lồng đèn ở đây
khơng trang trí mà được lắp bằng kính. Đỉnh trụ dắp kiểu bốn con chim phượng
chụm lại thành bốn múi, chĩa lên trên. Hình thức này thường gọi là kiểu lá lật,
đi phượng mang hình thức một thứ lá cách điệu.

4

4


Cổng chùa được xây cao vượt hẳn lên với hai tầng mái. Hiện tượng hai
tầng mái này gợi cho chúng ta nghĩ tời ảnh hưởng của triết học Nho giáo tác
động vào kiến trúc, đó là cửa chùa tượng trưng cho tháo cực, tần mái trên tượng
cho Dương, nhẹ. Tầng mái dưới tượng cho Âm, nặng; Âm Dương đối đãi mà

thành Tứ tượng được coi như bốn mái, rồi từ đó mà hình thành nên Bát qi tức
tám lá mái. Khởi đầu của mn lồi mn vật.
Kính thưa Q khách! Q khách hãy nhìn hướng theo hướng tay tơi chỉ.
Tầng mái thứ nhất có bốn đầu đao trang trí hình rồng, phượng đầu hướng lên
trên, đuôi và cánh phượng được cách điệu hình là cúc. Phần cổ diêm nối hai
tầng mái được đắp nổi bốn chữ “Trấn Quốc Cổ Tự”.
Trên tầng mái thứ hai, chính giữa bờ nóc là mặt trời bốc lửa, hai con kìm
được kết bằng rồng, song chỉ có râu tóc và những vân xoắn. Trong hình thức
này, rồng gợi cho chúng ta nghĩ tới con thủy qi Macara chỉ có đầu và đi
cịn phần thân rất ngắn. Như vậy, có thể thấy rồng đầu kìm này hóa thân gần gũi
của con thuỷ quái đó nhất là ở mặt biểu tượng. Theo giáo sư Trần Lâm Biền thì
trong nghệ thuật tạo hình, các vân xét trên một phương diện nào đó được xem là
biểu tượng của sấm và chớp. Con rồng đầu kìm với đi là cả một hệ thống vân
cuộn trịn đã như muốn nói với chúng ta về một ước vọng của tổ tiên muốn
thông qua thần linh để cầu mưa, cầu được mùa.
Chúng ta thấy cổng chùa Trấn Quốc không đơn giản là chiếc cổng đơn
thuần với những mảnh đắp để cho đẹp mà thực ra nó cịn cái gạch nối mang tính
chất thiêng liêng bởi khi Quý khách qua cửa là đi vào thế giới siêu linh, ít nhiều
giác ngộ được cái vi diệu của Đạo pháp. Cửa ở đây có dạng cuốn vòm, gỗ làm
cửa khá tốt, dày dặn, cửa cao 2,7m gồm hai cánh, mỗi cánh rộng 1m để trơn,
không trang trí.

5

5


Như vậy, Quý khách có thể thấy, cổng chùa Trấn Quốc là sự kết hợp hài
hòa giữa yếu tố hiện đại và phong cách truyền thống, tuy nhiên vẫn không mất
đi nét uyển chuyển, thâm nghiêm, đồng thời phần nào xóa đi được sự khơ cứng

của vơi vữa.
Kính thưa Q khách! Con đường nhỏ lát gạch mà chúng ta đang đi
thường gọi là nhất chính đạo, nối từ cổng với Tiền đường. Cuối con đường có
hai cửa nhỏ dẫn đến nhà Tiền đường từ hai phía trái và phải, cửa vào lối bên
phải mà Quý khách đang đi thì phải đi qua nhà khách và hành lang chùa. Lối đi
này thường xuyên mở vì nhà chùa quan niệm rằng: khi vào Tiền đường, đi theo
bên phải để hợp với chiều quay của chữ Vạn, với lửa Tam muội để tinh tấn
Thiện căn. Đồng thời đó cũng là biểu hiện xuất phát từ tục thờ Mặt trời của
nhiều cư dân trên thế giới.
Thưa Quý khách! Bên tay phải và phía trước mặt Quý khách là hành lang
của chùa Trấn Quốc. Hiện nay hành lang trái dùng làm tăng phòng, hành lang
phải là nơi tiếp khách và treo những bức ảnh kể về sự tích Phật Thích Ca. Mỗi
bên hành lang gồm 7 gian hai trái.
Thưa Quý khách! Nối liền hai dãy hành lang là gác chuông. Gác chuông
được chia làm hai tầng, tầng trên thấp hơn để treo chuông, tầng dưới hiện nay
dùng làm nhà khách. kết cấu của gác chuông được dựa lực chính trên 8 cột mái,
các cột này chạy thẳng tới các bộ vì nóc mái trên. Quả chng đựơc treo ở đây
lớn, có dáng cân đối hài hồ. Trên thân chng có trang trí hoa văn rồng, có
khắc 4 chữ Hán “Trấn Bắc Tự Chung” – chng chùa Trấn Bắc. Tât cá các
chuông ở đây thương đánh vào chập tối và rạng sáng, mang ý nghĩa thức tỉnh,
thúc đẩy con người tịnh tiến tu hành để vưon ra ngồi tội lỗi của kiếp ln hồi.
Cịn bây giờ, xin mời Quý khách theo tôi vào thăm quan gian chính của
ngơi chùa! Để đi vào Tiền đường chúng ta phải bứơc qua ngưỡng cửa, cao
6

6


0,2m. đây không chỉ là một cấu kiện kiến trúc thuần t mà cịn có ý nghĩa tâm
linh: mọi cái xấu xa đều phải được gạt lại, chỉ còn thân tâm trong sáng bước vào

thế giới thiêng liêng.
Tiền đường được dựng quay ra Hồ Tây. Chiều ngang Tiền đường là
19,4m, sâu 5,3m nền nhà lát gạch Bát Tràng kích thước 0,2m x 0,2m. Cửa được
làm hết sức đơn giản, để nguyen ván gỗ khơng trang trí, cao 2m sơn màu cánh
gián, chiền ngang biến dổi theo thời gian. Xà cửa được bào soi vỏ măng, trên
cửa gian chính được làm chấn song để lấy ánh sáng và tạo sự thông thống cho
cơng trình, các gian bên che kín bằng gỗ. Khung cửa có gắn các núm gỗ trịn
gọi là mắt cửa. Có nhiều người cho rằng đây là biểu tượng của bầu sữa mẹ được
nghệ thuật hoá và linh thiêng hoá, với ý nghĩa cầu phúc cho Phật tử mỗi khi vào
chùa.
Kính thưa Q khách! Q khách có thể nhìn theo hướng tay tơi chỉ. Đây
là ban Đức Ơng. Đức Ông là ngài cấp cô độc, một vị trưởng giả giàu có nhưng
đầy từ tâm, thường đem của cải giúp đỡ nhừng người cô quả, cô dơn mà thành
tên. Ngài nghe Phật giảng Đạo mà giác ngộ, đã tự bỏ tiền mua vườn của thái tử
Kỳ Đà dâng cho Phật, được Thích Ca tán thán và cho cai quản tất cả mọi cảnh
chùa thế gian. Vì thế ban thờ của Ngài được đặt ở bên trái nới các khách hành
hương cần phải tiếp cận trước khi vào lễ Phật, vì phải đi thep chiều quay chữ
Vạn nhằm tịnh tiến thiện căn. Hai bên bàn thờ Đức Ơng có hai tượng phụ tá
được lam nhỏ hơn đứng hai bên, đó là Già Lan và Chân Tể.
Kính thưa Quý khách! Được đặt đối xứng với bàn thờ Đức Ơng, ở phía
bên tay phải của nhà Tiền Đường là ban Quan Công. Tượng có dáng người to
lớn, phương phi, gương mặt đen cương trực, mắt xếch, mũi cao. Tượng mặc áo
thụng màu xanh, chạm khắc rất đẹp. Thân và tay áo có hình mây bay, gấu áo có
hình sóng nước. Tượng ngồi trên bục, chân bng thẳng đi hài. Tay tr đặt trên
7

7


đầu gối trái, tay phải giơ ngang ngực, các ngón tay hơi co. Hai bên Quan Cơng

có hai tượng nhỏ đứng hai bên là Châu Xương và Quan Bình.
Cịn hai vị to lớn mà Quý khách nhìn thấy đây lầ tượng Hộ Pháp mà Quý
khách thường bặt gặp ở nhiều chùa. Vị bên trai là Khuyến Thiện (mặt trắng) và
vị bên phải là Trừng Ác (mặt đỏ), gọi tắt là ông Thiện và ông Ác.Tượng mang
hình thức võ tướng, đầu đội mũ kim khôi, đầu mũ của vị Khuyến Thiện có chiếc
lá sen úp đội bình nước cam lồ. Cịn vị Trừng Ác đội chiếc giản có ba mũi.
Chân tượng đi hài. Chiếc áo tượng mặc đày những hoa văn biểu hiện cho sức
mạnh và hạnh phúc nông nghiệp, cũng gọi là áo nhẫn nhục, chống dục vọng
nhờ đó mà giữu được tâm trong sáng và cương quyết như kim cương nên còn
được gọi là tượng Kim Cương. Tượng ở thế đứng, kích thước trung bình, tay
cầm vũ khí.
Kính thưa Quý khách! Gian thiêu hương và thượng điện chính là vị trí ở
trước mặt Q khách. Tồ thiêu hương có một nhang án rất đẹp, được chạm khá
kỹ và tỉ mỉ, thể hiện tài hoa của người nghệ sĩ và nói lên ước mơ hạnh phúc của
con người trong cuộc sống. Nhang án có dang hình hộp chữ nhật dài, bốn góc
có chân vng. Mặt trước được thể hiện bằng một ván gỗ lớn với những đương
viền văn thực vật đã khéo léo chia làm hai phần. Phần trên là trang trí hoa văn
hổ phù - hiện thân của ước vọng cầu mong no đủ của cư dân nông nghiệp. Phần
dưới là trang trí nhưng hoa văn sóng nước, có chạm nổi đề tài tứ linh: long, ly,
quy, phượng. Toàn bộ bức điêu khắc này được bố cục chặt chẽ, tỉ mỉ thể hiện sự
khéo léo tài tình của những người nghệ nhân đồng thời mang một ý nghĩa mênh
mông của người xưa là ý thức cầu nước cầu mùa.
Như Quý khách có thể quan sát, hệ thống tượng ở đây khá là dày đặc.
Nhìn chung chủ yếu được làm bằng gỗ, mang phong cách muộn, có niên dại
khoảng cuối thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX.
8

8



Thưa Q khách! Sau đây tơi xin giải thích lần lượt hệ thống tượng phật
ở đây cho Quý khách có thể hiểu rõ hơn.
Theo hướng tay tôi chỉ, ba pho Tam Thế được đặt ở trên cao và sâu nhất
của Thượng điện. Tên đầy đủ gọi là Tam Thế Thường Trụ Pháp Thân (Tam Thế:
ba thời, quá khứ gọi là Trang Nghiêm kiếp, hiện tại gọi là Hiền kiếp, vị lai gọị
là Tinh Tú kiếp. Mỗi đại kiếp này xấp xỉ 1.344.000.000 năm; Thường Trụ: tôn
tại vĩnh hằng; Diệu: đẹp đẽ, linh thiêng, nhiệm màu; Pháp Thân: cái chân thực
không biến đổi, khơng lệ thuộc vào hình- danh- sắc- tướng, không sinh, không
diệt, tức cái đạo thể, Phật thân). Một tên khác là Tam Thế Tam Thiên Phật, có
nghĩa là ba nghìn vị thần nối tiếp nhau giáo hóa chúng sinh trong ba đại kiếp.
Như vậy, Tam Thế Phật mỗi một tượng là hiện thân, hội tụ của 1000 vị phật
trong một thời.
Bộ tượng Tam Thế chùa Trấn Quốc kích thước trung bình, dạng cân đối
theo bố cục hình tháp, vững chãi, có tính chuẩn mực. Cả ba pho đều đặt tay lên
lòng đùi, kết ấn thiền định (còn gọi là ấn tam muội), ngục tượng có chữ Vạn.
Tượng sơn màu vàng ròng (với vẻ bề thế uy nghiêm, nhưng không mất đi sự từ
bi, cao cả).
Tượng an tọa trên đài sen, biểu hiện sự cao quý, trong sạch về lý trí. Đài
sen được sơn đỏ, có hai lớp cánh chính, một lớp cánh phụ, bên dưới có lớp cánh
úp ngược xuống.cánh sen mập, đầu cánh trịn, hướng lên phía trên.
Kính thưa Q khách!
Thơng thường lớp tượng thứ 2 trên phật điện là bộ Di đà Tam Tôn, nhưng chùa
Trấn Quốc lại đặt tượng Thích Ca cùng với 2 đệ tử thân thiết là A Nan và Ca
Diếp.

9

9



Tượng Thích Ca có kích thước tương đối lớn, ngồi ở tư thế thiền định bán
kiết già, bàn chân phải đặt ngửa trên đùi trái, hai tay đặt ngửa trên lịng đùi kết
ấn tam muội.
Thưa Q khách! Như tơi vừa nói, hai bên tượng Thích Ca tọa thiền là
tượng của hai đệ tử gồm: Ca Diếp – tổ thứ nhất, người hiểu sâu sa yếu nghĩa
của đạo lý, có cơng lập tăng chúng san định Tam Tạng kinh . tượng được tạc ở
thế đứng với khn mặt già có nhiều nếp nhăn. tượng vấn tóc lên đỉnh bao bằng
“thiên quan”( một hình thức kết hợp giữa mũ và khăn ). tay phải cửa tượng cầm
bình nước cam lồ, tay trái đặt trên miệng bình biểu lộ sức mạnh của dịng nước
thiêng liêng ấy.
Kính thưa Quý khách!
Lớp tượng thứ ba trên Phật điện chùa Trấn Quốc như quý khách nhìn thấy là bộ
Di Đà Tam Tôn bao gồm Adiđà Phật ngồi giữa, bên trái là Quan Thế Âm Bồ tát,
bên phải là Đại Thế Chí Bồ tát. Bộ tượng mang chức năng tiếp dẫn chúng sinh
có phật quả về thế giới tịnh độ tức thế giới cực lạc nằm ở phía Tây. Người Việt
Nam coi Phật Adiđà là vị cứu tinh giải thoát những tâm hồn đau khổ, và tin rằng
cứ thành tâm niệm Adiđà Phật thì sẽ được siêu sinh. Vì thế tên Adiđà đã trở
thành lời chào nhau của các tín đồ Phật giáo ở Viêt Nam
Tượng Adiđà có kích thước lớn hơn các tượng khác tại chàu Trấn Quốc.
Tượng ngồi ở tư thế kiết già, bàn chân phải đặt ngửa trên lịng đùi trái, tóc kết
thành nhiều cụm nhỏ xoắn ốc, chúng ta có thể nghĩ đó là sự dung hội của tín
ngưỡng dân dã vào tạo hình Phật giáo, địng thời đó cịn là biểu tượng của chữ
vạn, của lửa, của chớp sấm, tiếng gọi phồn thực. Tóc tượng màu xẫm là biểu
tượng của bầu trời hạnh phúc chứa nguồn nước no đủ.Tượng được làm bằng gỗ
sơn màu tử kim( vàng ròng) an toạ trên dài sen sơn đỏ.

10

10



Pho bên trái là tượng Quan Thế Âm Bồ tát, là vị Bồ tát lấy hạnh cứu khổ
cứu nạn đối với mọi chúng sinh bằng những pháp lực vô biên. Quan Âm cũng
có nghĩa là nhìn thấy hoặc nghe thấy tiếng kêu đau khổ của chúng sinh ở khắp
vòm trời và dùng qyuền lực để cứu giúp.
Pho bên phải là Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là hiện thân của trí tuệ và cũng
là đại diện cho tứ đại: đại hùng, đại lực , đại trí, đại tuệ.
Hai pho tượng này được tạc giống nhau ngồi xếp tròn, tránh sự tác động xấu
của ngoại cảnh, mắt khép hờ mũi cao vừa phải,miệng ngậm, đôi tai chảy dài ,cổ
2 ngấn. Tượng an toạ trên đài sen và đặc biệt là cả 2 tượng này đều có tóc bụt
ốc.
Kính thưa Q khách!
Cịn đây là lớp tượng thứ 4 sau bộ Di Đà Tam Tơn. Thơng thường chỉ có một
pho Phật Di Lặc khi đầy đủ thì có thêm 2 vị bồ tát.
Bồ tát Di Lặc là người Nam Ấn, sinh trong gia đình Bà La Mơn, sau theo
Phật Thích Ca xuất gia tu hành, được Phật thọ ký cho rằng về sau Bồ tát Di Lặc
sẽ sinh về cung trời Đâu Suất, trụ trên đó 4000 năm rồi sinh xuống thế giới này,
tu hành ở vườn Hoa Lâm, dưới gốc cây Long Hoa, thành Phật di Lặc. Đức Phật
Di Lặc là hiện thân của hỉ xả, của nguồn hạnh phúc, no đủ yên lành. Vì thế
tượng Di Lặc chùa Trấn Quốc được tạc với thân hình béo tốt, ngộ nghĩnh và
sinh động. Ngực tượng nở, bụng no tròn, miệng cười tự nhiên rạng rỡ. Tượng
ngồi trên tồ sen sơn đỏ có trang trí những vạch khắc nổi chạy song song. Hai
vị bên cạnh là Bồ tát Pháp Hoa Lâm và Đại Diệu Tường, được tạc dưới dạng
nữ, nét mặt phúc hậu dịu hiền.
Kính thưa Quý khách!
Lớp tượng thứ 5 là Quan Âm chuẩn đề, được đặt ở chính diện. Tượng có 11 tay,
đan xen theo hình khai mở. Đơi tay chính chắp trước ngực, kết ấn chuẩn đề. Với
11

11



ấn này chỉ được kết khi đức Phật hoặc Bồ Tát cần hội lại một sức mạnh vô biên
để cứu độ chúng sinh.
Kính thưa Quý khách!
Lớp tượng thứ 6 là Tồ Cửu Long. Tượng Thích Ca sơ sinh khơng đơn giản chỉ
nói về sự xuất thế của một thánh nhân, mà cịn là lời tun ngơn gắn với Phật
đạo. Phật tích ghi rằng khi Thích Ca vừa lọt long bà Magia, Ngài đi 7 bước trên
7 bông hoa sen (con số 7 là số nhiều của văn hóa Ấn Độ và Đông Nam Á ) với
ý nghĩa bước vào vũ trụ, đem hạnh phúc cho muôn vạn chúng sinh. Ngài chỉ tay
trái lên trời, tay phải xuống đất nói : ‘Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”
(trên trời dưới trời, chỉ có ta là cao quý hơn cả). Chữ “ta” mang nghĩa đại ngã
trường tồn, một tâm hồn lớn bao trùm cả vũ trụ; mang tính bản thể chân như,
tức pháp thân chân thực. Nó đối lập hẳn với cái tơi đầy tính cá nhân trong thế
giới vơ thường. Khi Thích Ca xuất thế, vua trời đã hết sức vui mừng, cho các
thiên tướng, nhạc sĩ và vũ nữ thiên thần đến tung hoa, hát múa đầy trời để xưng
tán. Bao quanh đức Thích Ca là bầu trời đầy những nhân vật của thiên quốc,
hiện ra dưới dạng cửu long.
Tượng Thích Ca sơ sinh trong tịa Cửu Long là tượng mới làm lại, trơng
cịn mới và có tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, theo các nhà nghiên cứu mỹ
thuật thì tượng này làm sau năm 1954 vì tượng cổ có tay trái chỉ trời, tay phải
chỉ đất.
Nhìn chung tòa Cửu Long được tạo tác rất sống động với đường nét hài
hòa tinh tế. Tượng được làm bằng gỗ, sơn son thiếp vàng.
Hai tượng Phạm Thiên hay còn gọi là (Đại Phạm Thiên Vương) và Đế
Thích (Indra) được gắn hai bên tòa Cửu Long với tư cách là thiên thần trợ thủ
cho Thích ca sơ sinh lúc chưa thành đạo. Tượng Đế Thích ở bên trái, Phạm
Thiên ở bên phải.
12


12


Kính thưa Quý khách!
Lớp tượng thứ 7 là tượng Thích Ca nhập niết bàn.
Đây là tượng có niên đaị sớm nhất trong số các tượng Phật ở chùa Trấn Quốc.
Tượng bằng gỗ thếp vàng lỗng lẫy, có thể nói là một kiệt tác của nghệ thuật tạc
tượng Việt Nam.
Kính thưa Q khách!
Q khách hãy nhìn theo hướng tay tơi chỉ. Ban cao nhất trên cùng là ban
Thánh Tăng, được đặt bên phải Thượng điện. Thánh Tăng được người tu hành
Việt Nam coi là A Nan Đà, đại diện cho tất cả các sư sãi ở mọi thời đại. Tăng là
một trong tam bảo nhà Phật : gồm Phật – người sáng tạo đạo pháp, Pháp – giáo
lý nhà Phật, Tăng – người truyền bá giáo lý để cứu đời. Như đã nói trên A Nan
là em thúc bá của Thích Ca, xuất gia trong dịp đức Phật về thăm quê lần thứ hai
và trở thành một trong mười đại để tử của Phật. Ngài là vị Tổ truyền đăng thứ
hai, người thiết lập lại toàn bộ lời Phật thành trong kinh sách, truyền cho đời
sau.
Diện Nhiêm và Đại Sĩ là hai thị giả, hỗ trợ cho Thánh Tăng giáo hóa cho
chúng sinh cõi bên dưới và cõi nhân gian. Hai tượng trong trang phục võ tướng.
Diệm Nhiên có bộ mặt cường điệu trông rất đẹp, sơn xanh, mắt xếch ngược,
miệng há rộng hung dữ. tay phải cầm một chiếc vòng giơ cao ngang đầu, tay
trái chống ngang hông. Đại Sỹ mặt thanh tú, phảng phất nét chân dung nữ. Tay
phải nắm hờ giơ ngang vai, tay trái đưa ra sau cầm một chiếc vòng.
Thưa Quý khách!
Một trong những tượng thường gặp mọi cơng trình tơn giáo là tượng Thập Điện
Diêm Vương. Tục thờ Thập Điện Diêm Vương xuất phát từ lòng tin cho rằng
chúng sinh sau khi chết, cứ qua 7 ngày lại qua 1 cửa điện dưới âm ty để cho một
Diêm Vương xét công tội khi sinh thời, thưởng phạt theo luật luân hồi, trải qua
13


13


7 tuần gọi là tứ cửu (49 ngày) tiếp đến là bách nhật (100 ngày ) giỗ đầu (1 năm)
và giỗ hết (2 năm). Thập điện có ý nghĩa giáo dục con người tránh ác hành
thiện.
Xin mời Quý khách theo tôi bước ra sân chùa! Quý khách xin hãy dừng
bước ở trước hiên đây. Chùa Trấn Quốc có tất cả 14 bia nhưng trong đó có 4 bia
khơng ghi niên đại. Bia sớm nhất trong số đó chính là tâm bia trước mặt Quý
khách. Đó là bia “Trấn Quốc tự bi ký”, niên hiệu Dương Hồ thứ 5 (1639) có đế
đặt trên lưng rùa. Bia có dạng vịm, phần minh văn được giưói hạn trong khung
chỉ nổi, khép kín bốn cạnh. Diềm bia được chạm nổi dây lá, hai cạnh bên có
những bơng hoa cúc . Trán bia trang trí rông chầu mặt trời. Rồng ở đây được tạc
nổi, miệng há rộng để lộ rõ hàm răng nhọn sắc. Dưới trán bia là 5 chữ “Trấn
Quốc tự bi ký” được khắc nổi. Đối xứng với bia Dương Hoà là bia “Tái tạo
Trấn Bác tự bi”, niên hiệu Gia Long thứ 14 (1815). Xin mới Quý khách theo tôi
sang quan sát tấm bia. Bia này cũng có dạng vịm, diễm bia chạm nổi hoa lá
dây, trán bia cũng trang trí rồng chầu mặt trời. Cũng có trang trí rồng nhưng
một phần mang phong cách thời Nguyễn, một phần cách điệu thành những văn
thực vật. Khung khắc minh văn được mở đàu bằng hàng chữ nổi rõ nét “Tái tạo
Trấn Bác tự bi”.
Thưa Quý khách! Tám tấm bia còn lại được gắn ở tường bao nhà Tiền
Đường và nhà bia ở sân nhà Tổ, đều được trang trí đơn giản bằng hoa văn thực
vật.
Vâng, như vậy là chúng ta vừa tham quan xong gian chính của ngơi chùa.
Q khách hiện đang đứng tại sân chùa chính. Xung quanh là khung cảnh Hồ
Tây rộng lớn. Trước mặt Qúy khách là một cây bồ đề đại thụ. Điều đặc biệt là
cây bồ đề này được tách ở cây Bồ đề mà chính Đức Phật Thích ca mâu ni ngồi
thiền thành đạo cách đay hơn 25 thế kỷ. Nhân dịp sang thăm nước ta năm 1959,

14

14


tổng thống Ấn Độ Razendra Pra-sat thân hành mang tặng cây bồ đề này, trao tay
chủ tịch Ho Chí Minh trong buổi lễ rất trọng thể, Nhà nước tiếp nhận cây tại
chùa Quán Sứ và rước lên trồng kỷ niệm tại chùa Trấn Quốc. Cây bồ đề là một
cây mang ý nghĩa sâu sa của đạo Phật, có nghĩa đại trí tuệ, đại giác ngộ, có
nghĩa giải thốt. Cây bồ đề trông trước sân chùa với ý thức để cho chúng sinh
trước khi vào đất Phật biết khởi lòng tĩnh đẹp, hướng tâm tới cõi linh thiêng…
Khung cảnh ở đây thật đẹp và n bình phải khơng Q khách? Q khách có
thể tự do chụp ảnh, ngắm cảnh trong 10 phút, sau đó chúng ta sẽ tiếp tục.
Kính thưa Q khách!
Nằm vng góc về bên trái, đằng sau gác chng là nhà Tổ với hai chức măng
chính hiện nay là thờ Mẫu và thờ Tổ. Nhà Tổ cũng được làm theo kiểu tường
hồi bít đốc, ngói lợp kiểu vẩy hến. Ở đây có bộ khung gỗ bề thế gồm 6 bộ vì
theo kiểu chồng rường giá chiêng, toạ thành 5 gian. Ba gian giữa thờ Tổ, hai
gian bên thờ Mẫu.
Nhà Tổ có 12 pho tượng, mang tính chân dung cao, nét mặt rất giống với
người sống, không giống tượng Phật. Tượng ngồi trong tư thế kiết già, áo cà sa
chạm nong kênh trùm xuống tận bệ. Đặc biệt là có một pho tượng mới làm, tạo
theo mặt của vị sư mới viên tịch ở chùa. Tượng bằng đồng thiếp vàng, lộng lẫy.
Kính thưa Quý khách!
Nằm bên phải nhà Tổ là một vườn tháp cổ kính soi bóng xuống mặt hồ. Đây là
những tháp mộ chôn những người đã tu và trụ trì ở chùa qua các đời. Với tổng
số mười bốn ngơi, tháp ở chùa Trấn Quốc có nhiều loại: có sáu tháp một tầng,
bảy tháp ba tầng và một tháp mười một tầng (theo các sư tăng trong chùa thì
tháp mười một tầng này xây nhằm mục đích trang trí). Năm 2001 trong vườn
tháp chùa xây một ngơi mộ của nhà sư trụ trì là hồ thưọng Kim Cương Tử. Mộ

xây kiểu hai tầng tám mái bên trong có đặt linh cữu.
15

15


Kính thưa quý khách! Tháp một tầng gọi là am sư - nơi chôn những người mà
công quả tu hành còn ở mức độ thấp. Tháp ba tầng là tháp của Hoà thượng,
nhưng các đồ đệ thường xây cho sư Tổ của mình, do chưa đủ làm Hồ thượng
nên ẩn ở dưới dạng hai tầng rưỡi.
Tháp mộ ở chùa Trấn Quốc có kết cấu giống các tháp mộ thơng thường
khác: đó là tháp có dang tu di toạ, phần chân đế giật cấp, phần thân là bốn cạnh
hình vng được làm hõm vào, một ơ hình chữ nhật trên có chạm chữ Phạn, bên
trong có đặt bài vị và bát hương. Đỉnh tháp là một bình cam lồ đặt trên một đài
sen, đỡ đài sen là một đấu dầy đặt theo kiểu giật cấp, toàn bộ được đặt trên mái
được làm mui luyện. Bao quanh khu vườn tháp là hệ thống tường bao được làm
khá cầu kì, phía trên là lồng đèn, phía dưới là các con tiện làm bằng vơi vữa.
Vâng, kính thưa q khách! Chúng ta vừa thăm quan tìm hiểu tồn bộ về
chùa Trấn Quốc. Q khách có thể tự do thư giãn, ngắm cảnh và chụp hình lưu
niệm trong 10 phút. Sau đó đồn ta sẽ tập trung tại cổng chùa và tiếp tục chuyến
thăm quan ngày hôm nay.

16

16



×