Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ CÔNG CUỘC CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG. VẬN DỤNG VÀO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.76 KB, 22 trang )

ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ CÔNG CUỘC
CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG. VẬN DỤNG VÀO CUỘC ĐẤU TRANH
CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Bệnh quan liêu hết sức nguy hiểm, những người nào,
nhất là lãnh đạo mà mắc phải bệnh này thì “có mắt mà khơng thấy suốt, có tai mà khơng
nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ đúng, có kỷ luật mà khơng nắm vững”, nơi nào bệnh
quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ơ. Nó phá hoại đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên, phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của
Chính phủ và nhân dân. Nó làm “biến dạng” các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước, làm
cho những tổ chức đó vốn là cơ quan lãnh đạo, đại diện quyền lực và là đầy tớ của dân
trở thành những tổ chức xa dân, đứng trên nhân dân, thoát ly thực tế, dẫn đến đề ra quyết
định, chính sách, chủ trương cơng tác khơng sát, thậm chí sai lầm làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến mối quan hệ Đảng, Nhà nước và quần chúng.
Từ Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng ta cũng đã thẳng thắn kiểm điểm và chỉ rõ một trong
bốn nguy cơ, đó là tệ nạn quan liêu và tham nhũng. Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001)
cũng đã khẳng định: “Tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lịng tin trong
nhân dân”.
Đảng, Nhà nước ta và nhân dân đều đồng tình kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng,
nhưng tệ nạn quan liêu, tham nhũng, vẫn chưa được đẩy lùi. Do vậy, việc phân tích đạo
đức cách mạng trong việc phịng chống quan liêu, tham nhũng, sẽ giúp ta hiểu rõ bản chất
của hiện tượng này, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp phòng chống quan liêu, tham


nhũng, lãng phí có hiệu quả trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy em chọn đề tài: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và cơng cuộc chống quan liêu, tham
nhũng. Vận dụng vào cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện


nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cơng cuộc chống quan liêu, tham nhũng ở Việt Nam,
không mở rộng ra các quốc gia khác.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài tiểu luận được thực hiện trên cơ sở phép biện chứng duy vật, kết hợp với phương
pháp tổng hợp, phương pháp phân tích để hồn thành đề tài
4. Lịch sử ngun cứu
Quan liêu, tham nhũng luôn là một vấn đề bức xức đối với mọi quốc gia trên thế giới
nói chung và đối với sự phát triển của nước Việt Nam nói riêng. Đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam như: Nguyễn Đình Gấm có đề tài: “Tệ nạn tham
nhũng: căn nguyên sâu xa và biện pháp phòng chống”, Nguyễn Thị Doan (PGS – TS, ủy
viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương) có các bài viết:
“tăng cường cơng tác kiểm tra của Đảng góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng” và
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu theo tư tưởng
HCM”…. Nhưng chưa có đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng HCM về đạo đức
cách mạng và công cuộc chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay, vì thế đây là đề
tài nghiên cứu có tính chun sâu vào vấn đề này.


NỘI DUNG
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG.
1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách mạng xuất
hiện trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn
đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; ln u thương, q trọng con người, sống có tình, có nghĩa và
tinh thần quốc tế trong sáng… Và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền

tảng của người cách mạng.
Hồ Chí Minh xây dựng nền đạo đức cách mạng với hai nội dung cơ bản:
Một là, xây dựng những hệ thống chuẩn mực của nền đạo đức mới. Tổng hợp
những chuẩn mực đó thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân và tập thể…
Hai là, xây dựng những nguyên tắc trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức mới.
Hai nội dung này nhằm mục đích phát triển con người một cách toàn diện, hướng tới các
giá trị cao đẹp Chân - Thiện - Mỹ.
Tóm lại, đạo đức, đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự
do cho con người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng.Vì vậy tu dưỡng
đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự nguyện dựa vào
lương tâm và trách nhiệm của mỗi người. Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cách mạng
khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển
và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung
sướng, vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng lồi người”.
1.2.

Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.

1.2.1. Truyền thống đạo đức dân tộc


Truyền thống đạo đức dân tộc được hình thành và phát triển trên cơ sở của chủ
nghĩa yêu nước. Nhiều giá trị đạo đức từ đó được tích luỹ như : đạo lý yêu quê hương đất
nước, yêu thương, quý trọng con người; đồng cam cộng khổ cứu giúp lẫn nhau; cần cù
trong lao động sản xuất, dũng cảm hy sinh trong đánh giặc cứu nước; sống có thủy
chung, có tình nghĩa, uống nước nhớ nguồn.
Tất cả những giá trị đạo đức ấy đã đi vào tâm hồn HCM ngay từ khi cịn nằm
trong nơi nghe những lời hát ru của mẹ và trở thành yếu tố nội sinh giúp HCM kế thừa,
vận dụng tinh hoa đạo đức nhân đạo và đi đến với chủ nghĩa

Mác – Lênin
1.2.2. Đạo đức cách mạng được thể hiện trong học thuyết Mac-Lênin
Theo quan điểm chủ nghiac Mac-Lênin, đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn
mực nhằm điều chỉnh đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với
xã hội, chúng được thể hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội.
Đạo đức là một hình thái cơ bản của ý thức xã hội, xuất hiện từ rất sớm trong sự
phát triển lịch sử. Nó nãy sinh trong nhu cầu của đời sống xã hội mà trước hết là nhu cầu
phối hợp hành dộng trong trong lao động sản xuất vật chất, trong phân phối sản phẩm để
tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của sản xuât, của các quan hệ xã hội, hệ thống
đạo đức cũng theo đó mà được nâng cao, mở rộng, phong phú, phức tạp.
Đạo đức và pháp luật cùng tác động đến hành vi của con người, nhưng pháp luật
thực hiện dựa vào sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, còn đạo đức thực hiện vào sức
mạnh của dư luận xã hội, của tập quán, phong tục truyền thống, niềm tin. Uy tín đạo đức
của mỗi người không gắn với bất cứ quyền lực, cấp bậc, chức vụ…cũng như bất cứ qyền
hạn chính thức nào. Đạo đức là sản phẩm của lịch sử. Mỗi hoạt động, những nhu cầu của
con người khi thay đổi, địi hỏi phải có sự thay đổi trong đánh giá các giá trị đạo đức để
phù hợp với sự phát triển của lịch sử.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp có những lợi
ích riêng và do đó cũng có những quan niệm đạo đức, có nền đạo đức riêng. Tuy nhiên
nền đạo đức được áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là nền đạo đức của giai cấp thống
trị, mặc dù trong cuộc sống hằng ngày mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo những lợi ích trực
tiếp của mình.


Cũng theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Leenin, các giá trị đạo đức phổ biến của
nhân loại sẻ không ngừng được sáng tạo và phát triển qua mọi thời đại và được kế thừa
trong đạo đức cộng sản- một nền đạo đức mang tính nhân loại phổ biến của xã hội tương
lai.
Tóm lại, đạo đức cách mạng là đạo đức của công nhân. Các tiêu chuẩn luôn hướng

tới chân, thiện, mỹ thực chất là hướng tới cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội chủ nghĩa, hướng tới phục vụ Đảng, phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đó là nền
đạo đức đối lập về chất so với nền đạo đức phong kiến và nền đạo đức tư sản.
1.2.3. Nội dung chuẩn mực đạo đức cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng.
1.2.4. Trung với nước, hiếu với dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tận trung với nước là chuẩn mực có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu.Đó là lẻ phải, là chân lý.Nước mất thì nhà tan, mỗi người dân sẽ thành nơ
lệ. Do đó người cơng đân phải tận trung với nước, tận lực phụng sự Tổ quốc: suốt đời
phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng
hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh, không phản bội, quy hàn
kẻ thù…Tận trung với nước cũng chính là tận trung với Đảng, quyết tâm đưa đất nước
phát triển theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vì Đảng là người đại
diện cho nước cho dân “ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta
khơng có lợi ích gì khác”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, với Đảng, và hiếu với dân là hai mặt
thống nhất của một vấn đề, gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với nhau.Đã tận trung với nước thì
phải hiếu với dân.Tận hiếu với dân tức là đã thấy rõ sức mạnh, vai trị thật sự của nhân
dân.Phải làm hết sức mình để nhân dân hiểu được quyền cũng như trách nhiệm của người
chủ đất nước.
Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành trung với nước, tận hiếu với
dân, Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc cách mạng về đạo đức: “đạo đức cũ như người đầu
ngược xuống đất chân chống lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được
dưới đất, đầu ngẩng lên trời”.(11,320-321.)


1.2.5. Yêu thương giúp đỡ con người, sống có nghĩa, có tình
Tình u thương con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng mà rất
cụ thể, sâu sắc và bao dung. Hồ Chí Minh chẳng những thương yêu tất cả những người
lao động, mà đặc biệt còn thương yêu những người bị áp bức, bóc lột, đọa đầy, đau khổ,

bị bị nô dịch giai cấp và dân tộc. Tình thương u con người của Hồ Chí Minh khơng chỉ
dừng lại ở lòng “trắc ẩn” mà còn nâng lên ở tầm cao nhận thức tư tưởng.
Sống có nghĩa, có tình, giúp người, cứu người, hướng tới giải phóng con người là
động cơ mạnh mẽ, là mục tiêu lý tưởng cao cả của Hồ Chí Minh. Người nói rõ: “Chúng
ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng
làm gì”. Do đó để giải phóng con người triệt để con người thì khơng chỉ đánh đổ bọn
thực dân xâm lược giải phóng dân tộc mà cịn xóa bỏ tình trạng người bóc lộc người.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện được mục tiêu đó thì “khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
1.2.6. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Cần là thường xun cố gắng, luôn chăm chỉ trong suốt cả cuộc đời. Cần cịn là
biết chủ động và sắp xếp cơng việc có kế hoạch, có sáng tạo, biết ni dưỡng tinh thần và
lực lượng để có thể là việc lâu dài, đạt kết quả cao. Cần còn được hiểu là tăng năng suất
trong công tác. Cần là phải chống bệnh chay lười biếng nhát, ỷ lại, thụ động, vô kỷ luật…
Kiệm là tiết kiệm công sức, tiền của và thời gian, sử dụng chúng sao cho có ích,
hiệu quả nhất. Kiệm cũng có nghĩa là khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi trong
sản xuất và đời sống. Tiết kiệm theo Hồ Chí Minh hồn tồn trái ngược với bủn xỉn.
Người nói: “Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc
đang làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì hao bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu
cũng vui lịng”.
Theo Hồ Chí Minh, liêm là: “Khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà
nước, của nhân dân. Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.


Khơng tham người tân bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến
bộ”. Người nói: “Những người ở các công sở từ làng cho đến Chình phủ trung ương đều
dễ tìm dịp phát tài hoặc xoay tiền của Chính phủ. Đến khi lộ ra, bị phạt mất hết cả danh
giá mà của phi nghĩa đó cũng khơng được hưởng”. Vì vậy cán bộ, cơng chức trong các
công sở trước hết phải giữ lấy chữ liêm làm đầu.
Chính là khơng tà, là thẳng thắn và đúng đắn. Theo Hồ Chí Minh trong xã hội tuy

có trăm cơng nghìn việc. Song những cơng việc ấy có thể chia là hai thứ: việc CHÍNH và
việc TÀ. Làm việc CHÍNH là người thiện, làm việc tà là người ÁC. Cán bộ công chức là
những người làm việc công cho nên chính cịn là sự cơng tâm, cơng đức khi giải quyết
cơng việc. Theo Hồ Chí Minh: chớ đem của công là vào việc tư, chớ đem người tư làm
việc cơng. Việc gì cũng cơng bằng chính trực, khơng nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư
ốn.Mình có quyền dùng người thì phải dùng người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà
con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài
năng hơn mình. Người cịn nhấn mạnh, cán bộ, cơng chức, phải tự mình “chính” trước
mới giúp được người khác “chính”, nếu mình khơng “chính” mà muốn người khác
“chính” là vơ lý.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư và ngược lại.Chí cơng vơ tư là
khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau,
tức là lo trước thiên hạ, lo sau thiên hạ.Người nhấn mạnh, thực hành chí cơng vơ tư cũng
có nghĩa là phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.
1.2.7. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc trưng của đạo đức cộng sản, bắt nguồn
từ vai trò của giai cấp công nhân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế chính là quan hệ hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ tương trợ với
các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người yêu hịa
bình,cơng lý và tiến bộ trên thế giới. Chủ nghĩa quốc tế chỉ tốt đẹp khi mỗi quốc gia phải
phát huy tinh thần chủ động, tự lực, tự cường và phải hồn thành nghĩa vụ quốc tế của
mình chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, nước lớn. Đó là tinh thần quốc tế cao đẹp mà Hồ
Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên đều phải thấm nhuần và rèn luyện trong các


cuộc đấu tranh chung vì hịa bình, phát triển và tiến bộ trên thế giới. Tong cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn định
hướng lâu dài cho cho việc bồi dưỡng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng ở mỗi cán bộ,
đảng viên và nhân dân
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG.

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ QUAN LIÊU, THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY.
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống quan liêu tham nhũng
2.1.1. Đấu tranh tố cáo nạn quan liêu, tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế
quốc thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh tinh thần quần chúng
nhân dân, tiến hành vận động cách mạng.
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, khi còn đi tìm đường cứu nước, Nguyễn
Ái Quốc đã viết rất nhiều bài báo, phóng sự tố cáo nạn quan liêu, tham nhũng trong các
loại quan chức chính quyền thực dân ở Đông Dương, coi quan liêu, tham nhũng là hiện
tượng bản chất của chế độ này, Người viết: “Trong cái xứ này, do thiếu sót, hay nói đúng
hơn do ý đinh của Chính phủ, nên đâu từ trên xuống dưới cũng đều có nạ tham nhũng
mua quan bán nước”(2,12-13)
Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pari năm
1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành hẳn một chương để viết về nạ quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy cai trị của những kẻ tự xưng là “quan phụ mẫu” của dân. Tệ tham ô cùng
các thủ đoạn bóc lột làm cho gánh nặng thuế khóa đè lên vai người dân thuộc địa. Trong
bài báo “Văn minh Pháp ở Đông Dương” viết bằng tiếng Đức, đăng trên tập san
Inprekorr, số 17(1927), với bút danh A.P, người đã tố cáo sự thối nát của qua thú nhận
của tờ L’ Impartial của Pháp ở Đông Dương rằng viên thống đốc Cônhat đã phạm một
loạt hành động quan liêu, tham nhũng.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong bài “Công lý của Mỹ” đăng trên báo
cứu quốc, số 1877, ngày 6/8/1951, kí bút danh Đ.X. Người tố cáo chế độ xã hội Mỹ nhân
danh công lý, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng “Quốc hội Mỹ đã thừa nhận những tổ
chức chính trị, kinh tế, tài chính, pháp luật, báo chí của Mỹ thơng đồng với lũ trộm cắp để
ăn hối lộ và để trị những công nhân và công chức giác ngộ. Và cì vậy nên Mỹ khơng trị
những bọn trộm cướp đó”(1)
Trong bài “Tâm lý của binh sĩ Hoa Kỳ” đăng báo Nhân Dân, số 4384, ngày
7/4/1966, với bút danh Chiến Sĩ, Người đã nêu bức thư của một binh sĩ Mỹ ở Việt Nam
gửi bạn ở Hoa Kỳ biểu thị thái độ phản chiến vì phải chiến đấu để bảo vệ chế độ quan
liêu, tham nhũng làm tay sai Mỹ. Bức thư có đoạn: “Những ngời lãnh đạo cái nhà nước



Nam Việt Nam đều là bọn trộm cướp, hủ bại, đê hèn, hồ đồ. Họ đều ghét cộng sản nhưng
tên nào cũng có rất nhiều tiền bạc gửi nhà băng nước ngồi. Số tiền đó nhiều gấp mấy lần
số tiền lương của họ. Nơi tơi làm cố vấn, Chính phủ Mỹ trả lương cho 338 nhân viên,
nhưng thực tế chỉ có 50, 60 người làm việc. Thế là mỗi tháng lương, bọn quan lại Nam
Việt Nam tham ô hơn 4000 đơ-la. Tơi đã báo việc đó lên cấp trên. Nhưng kết quả là tôi bị
điều đến một đơn vị trực tiếp chiến đấu”.(3)
Đó chỉ là ví dụ điển hình cho thấy các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa, tay sai
đều bị Hồ Chí Minh vạch trần bản chất quan liêu, tham nhũng thối nát, nhằm mục đích
thức tỉnh quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh đánh đổ những chế độ đó, xây dựng
chế độ mới tốt đẹp hơn.
2.1.2. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong lòng chế độ mới.
Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tiếp đến khánh chiến chống
Pháp,kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rồi xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
khơng lúc nào lơi lỏng cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng ngay trong lòng chế độ
mới mà người sáng lập nên. Có điều mục tiêu đấu tranh khơng phải là để xóa bỏ chế độ
mới mà để xây dựng, củng cố, hồn thiện nó. Bởi vì quan liêu, tham nhũng, thối nát
không phải là bản chất của chế độ mới nó chỉ là tệ nạn nguy hiểm, một biểu hiện cao độ
của sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước.
Hơn một tháng sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, trong thư gửi cho ủy ban các kỳ, tỉnh,
huyện, và làng. Người đã vạch ra và cảnh báo một số hành vi quan liêu, tham nhũng mà
công chức nhà nước dễ mắc phải, đó là tham ơ của công, đục khoét của dân, nhận hối lộ
và mắc một số sai phạm khác như: làm việc trái phép, cậy thế, hù hóa, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo, bè phái quan liêu, địa phương chủ nghĩa, hẹp hòi, quân phiệt…
Trong các cuộc đấu tranh chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như
trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chủ tịch Hồ Chí Minh đều
không quên nhiệm vụ đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Tổng hợp các bài báo, bài
hội nghị, hoặc thư gửi các đồn thể, địa phương, các ngành giới, có thể thấy Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề cập một cách khá cơ bản, toàn diện các vấn đề về quan liêu, tham nhũng.

2.2.

Xác định bản chất quan liêu, tham nhũng


Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta có được rất nhiều thuận
lợi: sự đồng tình, ủng hộ và tin tưởng của quần chúng nhân dân; sự chăm lo và định
hướng phát triển đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, nhưng
đồng thời chúng ta cũng gặp khơng ít những thách thức, khó khăn. Một trong những vấn
đề gây khó khăn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam là tệ quan liêu, tham nhũng - quốc nạn của nước ta.
Bệnh quan liêu đang ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham nhũng.Có nạn tham
nhũng là vì có bệnh quan liêu. Bệnh quan liêu không phải đơn thuần là sai lầm về tác
phong, phương pháp cơng tác mà chính là một căn bệnh nguy hiểm, tác động đến lập
trường tư tưởng, đạo đức cách mạng, ảnh hưởng đến tồn vong của Đảng và nhà nước…
Nó làm “biến dạng” các tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước dẫn đến cửa quyền, coi
thường quần chúng, làm khó cho họ…Do tác hại to lớn mà Bác Hồ đã lên án tham ô,
bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, là “giặc ở trong lòng”, “giặc ngoại xâm”, là tội ác.
Bác đã nói rõ: “những cán bộ và cơ quan mắc bệnh quan liêu thường không đi sâu
đi sát phong trào, không nắm được tình hình cụ thể của đơn vị, địa phương mình, khơng
gần gũi học hỏi quần chúng…Họ ngại đi xuống cơ sở để hiểu dung thực tế. Bác bảo: biểu
hiện quan liêu rất nhiều, nhưng bộc lộ rõ nhất là xa rời quần chúng và xa rời thực tế. Bác
chỉ rõ một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến bệnh quan liêu: Do cái tâm người cán bộ,
Đảng viên, công chức nhà nước không trong sáng, động cơ vào Đảng không rõ ràng, giác
ngộ Đảng thấp,quan điểm quần chúng lệch lạc…
Chống tham ơ, lãng phí, chống bệnh quan liêu là mối quan tâm lớn, thường xuyên
của Hồ Chí Minh trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.Hồ Chí Minh coi tham ơ,
lãng phí là tội lỗi như việc gian bán nước.Còn về tham nhũng Người thường dùng từ
tham ô và hay gắn với bệnh qua liêu, lãng phí. Theo Người “Tham ô là lợi dụng quyền
hành hoặc chức trách để ăn cắp của công. Tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận,

tham lam.
Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ơ là: Ăn cắp của công làm của tư; đục khoét
của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều; lợi dụng của chung, của Chính phủ
để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình.
Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ơ là: ăn cắp của cơng, khai gian, lậu thuế.


Bất cứ hành vi lấy "của công" làm "của tư" nào cũng đều là hành vi tham ơ. Đây chính là
hành vi tham ô hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa này, chủ thể của hành vi tham ô không
chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước.
Người dân bình thường, nếu "ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế" cũng là chủ thể của
hành vi tham ô.
Hành vi tham ô tinh vi khác được Hồ Chí Minh chỉ ra là tham ô gián tiếp với biểu
hiện như: một số cán bộ được Chính phủ và nhân dân trả lương hằng tháng đều cho,
nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp
giờ... Đây là hình thức tham ơ đặc biệt, tuy khơng gây hậu quả nghiêm trọng ngay,
nhưng xảy ra hằng ngày, thường xuyên, liên tục, làm ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn
của bộ máy nhà nước, hiệu lực quản lý của nhà nước, là một trong những mối nguy hại
lớn đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước.
2.3. Thực trạng vấn đề quan liêu, tham nhũng trong những năm qua của nước ta.
Bệnh quan liêu đang ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham nhũng. Nơi nào bệnh
quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều tham ơ. Bệnh qua liêu không phải đơn thuần là
sai lầm về tác phong, phương pháp cơng tác màchính là một căn bệnh nguy hiểm, có
quan hệ trước hết và chủ yếu đến lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng; có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và Nhà nước. Quan liêu đi liền với mệnh lệnh, cửa
quyền, coi thường quần chúng, làm khó cho người... Nó làm “biến dạng” các tổ chức
Đảng và cơ quan Nhà nước, làm cho những tổ chức đó vốn là cơ quan lãnh đạo, đại diện
quyền lực và là đầy tớ của dân trở thành những tổ chức xa dân, đứng trên nhân dân, thoát
ly thực tế, dẫn đến đề ra quyết định, chính sách, chủ trương cơng tác khơng sát thực tế,
thậm chí sai lầm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối quan hệ Đảng, Nhà nước và quần

chúng. Quan liêu là mặt đối lập rất nghiêm trọng với dân chủ.
Còn tham nhũng ở nước ta hiện nay đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
triển bền vững của đất nước, làm cho kinh tế chậm phát triển, gây thất thốt, lãng phí tài
sản của dân, thiệt hại ngân sách, gia tăng khoảng cách giàu nghèo... Tham nhũng cũng
đang làm xói mịn lịng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước, làm cho chế độ chính
trị dần suy yếu từ bên trong, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công, dẫn đến sụp
đổ nếu không kịp thời chấn chỉnh.
Tham nhũng đang hiện diện trong tất cả các lĩnh vực, từ công an đến hải quan, từ
tài nguyên môi trường đến xây dựng, thuế, ngân hàng, y tế, giáo dục, thanh tra, kiểm sát,
tòa án,… Tham nhũng đang diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Theo thống


kê của Tổ chức Minh bạch quốc tế về chỉ số tham nhũng trên thế giới, năm 2012, Việt
Nam xếp thứ 123/174 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Chỉ số tham nhũng của Việt Nam qua các năm gần đây

m

2003

2004

2005

2006

2007

2008


2009

2010

2011

2012

Chỉ
số,
điể
m

2.4

2.6

2.6

2.6

2.6

2.7

2.7

2.7

2.9


3.1

Hạ
ng

100/1
33

102/1
45

107/1
58

111/1
63

123/1
79

121/1
80

120/1
80

116/1
78


112/1
82

123/1
74

Số liệu thống kê 10 năm trở lại đây (từ 2003 đến 2012) cho thấy, tình trạng tham
nhũng ở nước ta có xu hướng tăng lên, mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản để chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, nhưng đến nay vẫn chưa đẩy lùi được
tình trạng nay.
3.

3.1.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG CỦA NƯỚC
TA HIỆN NAY.
Mối quan hệ giữa đạo đức cách mạng với chủ nghĩa cá nhân – nguyên nhân
sâu xa của các tệ nạn tham nhũng, quan liêu.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức cách mạng
và chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng. Người coi đó là cuộc đấu tranh trực tiếp
liên quan tới vận mệnh của Đảng và quyết định đến thành công của sự nghiệp cách
mạng. Tinh thần đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, nâng cao u tín, năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng được Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong gần 200
bài nói, viết về cơng tác xây dựng đảng, về rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên, góp phần hình thành tư tưởng lý luận, thực tiễn về cơng tác
xây dựng đảng và có ý nghĩa đối với xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện
nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi
ích của riêng mình, khơng quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. Miễn là mình béo,

mặc thiên hạ gầy. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu như: lười biếng, suy bì,
kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ơ. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức
cách mạng”(8.320). Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của cách mạng,
nó là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm
tha hóa Đảng, chừng nào cịn chủ nghĩa cá nhân thì cách mạng cịn gặp rất nhiều khó


khăn. Do vậy, chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của
những người cộng sản chân chính. Người cho rằng, mỗi cán bộ, đảng viên “trước
mặt quần chúng, không phải ta cứ viết trên trán chữ “cộng sản” là được họ yêu
mến”(5.197), mà phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện và thực hành đạo đức cách
mạng, chống sa vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho Đảng ta thực sự “là đạo
đức, là văn minh”.
Theo Người, chừng nào cịn chủ nghĩa cá nhân nó sẽ “ngăn trở” người cán bộ,
đảng viên phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của Đảng, của dân tộc, làm mất lòng tin
cậy của dân với Đảng. Và “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua
là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”(9.340). Nguyên nhân sâu xa, xét đến cùng dẫn tới sự suy thoái biến
chất, làm giảm sức chiến đấu trong Đảng đó chính là chủ nghĩa cá nhân: ”Do cá
nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách
nhiệm, khơng chấp hành đúng chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến
lợi ích của cách mạng, của nhân dân”(4.102); “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian
khổ, khó khăn, sa vào tham ơ, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích
địa vị quyền hành. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh
lệnh. Họ khơng có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”(7,211)
3.2. Đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong những năm qua của
Đảng ta.
Đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu là một nội dung quan trọng trong hệ thống tư
tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền của nhân dân. Hiện

nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
65 năm qua, nhất là gần 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng. Cùng với việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng,
kiện toàn bộ máy Nhà nước và đồn thể chính trị-xã hội, Đảng và Nhà nước ta ln coi
cơng tác đấu tranh phịng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ chính trị
thường xuyên, quan trọng của cả hệ thống chính trị; có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống
cịn của chế độ XHCN. Theo đó, một mặt, Đảng và Nhà nước ta tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật Nhà nước, đạo đức
cách mạng cho tồn dân; khơng ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị; nêu cao vai trò giám sát của nhân dân với các cơ quan Nhà nước; đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN.


Tuy nhiên, tệ quan liêu ở nước ta đang diễn ra rất phức tạp, nghiêm trọng trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị-xã hội cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đầu mối, hoạt động thiếu hiệu quả; bệnh hội
họp, giấy tờ văn bản, thủ tục hành chính cịn rườm rà; thái độ, phong cách làm việc của
đội ngũ cán bộ, cơng chức cịn có biểu hiện hách dịch, sách nhiễu nhân dân,... Đi liền với
đó là nạn cửa quyền, mệnh lệnh, tham ơ, lãng phí...
Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp là do
nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về đấu tranh chống tệ quan liêu chưa đầy đủ;
cơ chế kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và nhân dân chưa đủ mạnh; không ít
cán bộ, công chức nặng tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, thiếu tinh thần trách nhiệm, trình độ
tổ chức, quản lý hạn chế... Một số cán bộ khi có chức, có quyền thì coi thường nhân dân,
cho mình là người “đứng trên”, “ban ơn”, chứ không phải là những công bộc của nhân
dân. Họ ngại khó khăn, gian khổ, thích ngồi bàn giấy hơn là đi sâu sát cơ sở, sát thực tiễn
sản xuất và đời sống của nhân dân; thích thổi phồng thành tích, “lừa trên, dối dưới”, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân...Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở

cho nạn tham ô, lãng phí.Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ơ, lãng phí thì trước mắt phải
tẩy sạch bệnh quan liêu”(11,490).
Thực tế cho thấy, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp để
ngăn chặn tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng kết quả vẫn cịn rất khiêm tốn, “Tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng”(6,63.). Cơ chế phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân; cơng tác giáo dục, đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức;
công tác kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, các tổ
chức chính trị-xã hội các cấp uỷ, chính quyền vẫn cịn nhiều bất cập, chưa thật sự đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…
Đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế.
Để vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào đấu tranh phịng, chống tệ
quan liêu hiện nay, thiết nghĩ cấp uỷ, chính quyền các cấp cần tập trung giải quyết một số
vấn đề cơ bản sau:
Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi tổ chức, cá
nhân, trước hết là cấp uỷ, chính quyền, đội ngũ cán bộ, cơng chức các cấp nhận thức rõ
bệnh quan liêu và tác hại của nó. Nội dung cơng tác tun truyền, giáo dục cần tập trung
làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước nói chung, về đấu
tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí nói riêng.
Hai là, coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên”.
Bởi đây là nhân tố trực tiếp quyết định đến sự thành bại của cách mạng nói chung, của
cuộc đấu tranh phịng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí nói riêng. Thực tế cho
thấy, đội ngũ cán bộ, cơng chức là “cái gốc” của mọi công việc, đang nắm giữ hầu hết các
cương vị chủ chốt, lĩnh vực quan trọng trong đời sống của đất nước; họ là “tiền vốn của
đồn thể”, “có cán bộ tốt việc gì cũng xong”, ... Vì vậy, trong quá trình xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cần hết sức coi trọng cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và
năng lực công tác. Cấp uỷ các cấp cần thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch
trong các khâu: đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đề bạt, luân chuyển



cán bộ, công chức. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình; xây dựng quy chế để nhân dân được tham gia đánh giá, nhận xét cán
bộ, công chức; hết sức tránh tư tưởng coi công tác cán bộ là độc quyền của một số cá
nhân hay của riêng cơ quan chức năng, kiên quyết đào thải những cán bộ, công chức yếu
kém về năng lực, phẩm chất, đạo đức, lối sống.
Ba là, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN. Quản
lý đất nước không chỉ là việc riêng của cơ quan nhà nước mà còn là của nhân dân. Chỉ
khi nào nhân dân trực tiếp tham gia vào các khâu, các bước của công tác quản lý nhà
nước theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thì khi ấy mới có thể
đả phá tận gốc tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Theo đó, cấp uỷ, chính quyền các cấp
cần tăng cường thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra nhân dân và phối hợp với các hoạt động thanh tra của Nhà nước; tiếp tục nghiên
cứu, đa dạng hố các hình thức đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân theo hướng dân chủ
trực tiếp; động viên đội ngũ cán bộ, cơng chức sống trung thực, giản dị, lời nói đi đôi với
việc làm, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân.
Phát huy dân chủ bao giờ cũng đi liền với giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp
chế XHCN. Vì vậy, để loại trừ tệ quan liêu ra khỏi đời sống xã hội, mọi người dân, trước
hết là cán bộ, công chức phải “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”; kiên quyết
đấu tranh với mọi hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương, phép nước.
Cùng với đó, cấp uỷ, chính quyền, đồn thể chính trị-xã hội các cấp cần đẩy mạnh cải
cách hành chính, theo hướng giảm các đầu mối trung gian, hội họp, các thủ tục hành
chính rườm rà; gần dân, hiểu dân và đáp ứng nhanh nhất những nguyện vọng chính đáng
của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu mang giá trị thời
đại sâu sắc. Vận dụng tư tưởng của Người vào quá trình xây dựng và hồn thiện Nhà
nước Việt Nam pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước là một nội dung quan
trọng, địi hỏi cấp thiết trong tình hình hiện nay
3.3. Vận dụng tư tưởng hồ Chí Minh về phòng chống quan liêu, tham nhũng ở
nước ta hiện nay.

Phòng, chống quan liêu, tham nhũng từ gốc tức là loại trừ “căn nguyên” sinh ra
các tệ nạn này. Sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phịng, chống các tệ nạn
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc biệt là việc “phòng” - tức loại trừ ngay từ căn
nguyên sinh ra chúng, trong điều kiện khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền.
Theo Hồ Chí Minh, căn nguyên sinh ra các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, chính là
do sự tha hóa quyền lực (quyền hạn) được trao của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ
máy nhà nước. Hơn nữa, sự tha hóa quyền lực của đội ngũ này là do thiếu cơ chế kiểm
soát. Mặc dù Hồ Chí Minh khơng nói đến từ “tham nhũng”, chỉ nói đến “tham ô”, nhưng


cũng cần phải hiểu rằng, tham ô là một cách diễn đạt dễ hiểu của tham nhũng. Chính
những kẻ tham nhũng đã lợi dụng “cái ô” quyền lực được trao để nhũng nhiễu, vòi vĩnh
nhân dân hay những người dưới quyền đòi ăn “của đút”, ăn “hối lộ”. Theo Hồ Chí Minh,
“chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là dân chủ”(9,494.). Do vậy, có thể thấy rằng, thực
hành dân chủ, xây dựng cơ chế kiểm sốt sự tha hóa quyền lực của đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong bộ máy nhà nước được coi là giải pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí có hiệu quả. Đó cũng chính là các biện pháp thực hiện phòng, chống các tệ nạn
quan liêu, tham nhũng lảng phí từ gốc.
Ngay từ những năm tháng đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đề cập đến,
đồng thời muốn có một thiết chế nhà nước cầm quyền ở Việt Nam. Sau này, khi Đảng đã
trở thành đảng cầm quyền, với tư cách là người đứng đầu nhà nước, Hồ Chí Minh đã tổ
chức bộ máy theo hướng nhà nước pháp quyền trong bản Hiến pháp năm 1946. Trong đó,
cơ cấu tổ chức quyền lực của bộ máy nhà nước bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp tương đối độc lập về mặt tổ chức, thể hiện sự phân quyền theo chiều ngang
khá rõ.
Trong bộ máy nhà nước này, Đảng được coi là lực lượng “cầm quyền” chứ không
phải là lực lượng “lãnh đạo Nhà nước”. Đảng cầm quyền chủ yếu thông qua sự lãnh đạo,
quản lý (chỉ đạo, điều hành) trực tiếp của đội ngũ đảng viên giữ các vị trí chủ chốt trong
bộ máy nhà nước. Đội ngũ đảng viên thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý trong bộ máy
nhà nước đều phải do nhân dân bầu ra trực tiếp hoặc gián tiếp. Đảng cầm quyền như vậy

cũng tức là nhân dân cầm quyền, bởi nhân dân là “ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân
bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”(12,218-219)
Do vậy, đây có thể được coi là một phương pháp để kiểm soát được quyền lực của
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước khỏi bị tha hóa. Hồ Chí Minh đã thiết
lập một số ban Thanh tra, Tịa án thể hiện tính độc lập như “Ban Thanh tra đặc biệt”,
“Tòa án đặc biệt”. Chẳng hạn, Sắc lệnh số 261/SL ngày 28-3-1956 về việc thành lập Ban
Thanh tra Trung ương của Chính phủ, trong đó quy định rõ nhiệm vụ của Ban này là
“thanh tra việc thực hiện kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước,
chống phá hoại, tham ơ và lãng phí”. Hồ Chí Minh cịn lưu ý cả việc bảo đảm yếu tố độc


lập của các tổ chức xã hội - tổ chức có thể giám sát, kiểm sốt sự tha hóa của đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong tổ chức bộ máy của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh nêu rõ sự cần
thiết về tính độc lập của các tổ chức đó như sau: “Nơng hội chưa biểu hiện hết tính chất
độc lập của nó. Nơng hội phải nêu rõ vai trị của mình để thu hút quần chúng. Nhưng lề
lối tổ chức Nông hội chưa tốt, hầu hết mọi công việc đều do đảng viên bao biện, các đồng
chí này không biết chọn lấy cán bộ ở trong hàng ngũ nông dân..."(5,164)
Đảng ta đã nêu rõ: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng, với
những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã
hội”(6,172). Mặc dù Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp khắc phục nhưng
tình trạng này chưa có chiều hướng suy giảm. Có thể thấy, những biện pháp phòng,
chống các tệ nạn này trong những năm qua ở nước ta dường như mới chủ yếu được thực
hiện từ “ngọn” với các hình thức như: tăng cường chỉnh đốn Đảng bằng việc đẩy mạnh
phê bình và tự phê bình; đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
thi hành pháp luật nghiêm minh, trừng trị kẻ tham nhũng hay kiên quyết thu hồi tài sản
tham nhũng... Thực tế cho thấy, với các biện pháp như vậy hiệu quả chưa cao.Bởi chúng
chỉ tương tự như các biện pháp cắt đi các “ngọn”, “cành” của các tệ nạn đó. Các biện
pháp đó chỉ có thể hạn chế được một cách tức thời, tức “chống” là chính chứ chưa phải là
các biện pháp “phịng” để hạn chế về lâu dài.
Việt Nam đã và đang đổi mới mạnh mẽ về mặt kinh tế, đang xây dựng và hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng hiện đại gắn với CNH, HĐH và phát triển
kinh tế tri thức. Tuy nhiên, đổi mới trong lĩnh vực chính trị, xã hội cịn có mặt chưa tương
xứng với đổi mới kinh tế.Thể chế chính trị, xã hội cịn khơng ít những khiếm khuyết. Đó
là nhà nước pháp quyền chưa được xây dựng hồn thiện theo các tiêu chí của Liên hợp
quốc. Tính minh bạch, cơ chế kiểm sốt sự tha hóa quyền lực của đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước còn chưa đáp ứng với các mục tiêu đặt ra
về dân chủ trong nhà nước pháp quyền của dân, do dân,vì dân. Thực tế trên thế giới cũng
cho thấy, ở các quốc gia có nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự được xây dựng hồn
chỉnh đều có mức độ thấp về tình trạng tham nhũng, lãng phí. Mới đây, cuối năm 2014,
Tổ chức minh bạch thế giới đã xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng của nước ta đứng


thứ 119/175 quốc gia, đạt 3/10 điểm (thang điểm 10 dành cho quốc gia có chỉ số cảm
nhận tham nhũng thấp), đứng sau hơn một trăm quốc gia có điểm số cao hơn(5).
Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện đồng bộ sự phát triển nền kinh tế thị
trường theo hướng hiện đại, xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân cần được coi là trụ cột trong các giải pháp để vừa phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí có hiệu quả, vừa nâng cao được uy tín của Đảng, giữ vững vai trị lãnh
đạo và vị thế cầm quyền, đồng thời, vừa tạo ra nền tảng vững chắc cho yêu cầu phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần tăng
cường hơn nữa việc nghiên cứu, tiếp thu các phương pháp, cách thức, kinh nghiệm phát
triển nền kinh tế thị trường hiện đại, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, xã hội
dân sự ở các quốc gia phát triển trên thế giới để áp dụng vào điều kiện cụ thể ở nước ta,
nhằm đẩy lùi tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí đưa đất nước phát triển tới mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.(7,121)
4.

NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG, TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG
CÔNG CUỘC CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG


4.1.

Đối với cán bộ, Đảng viên:

4.1.1. Nói đi đơi với làm, nêu gương tốt, làm việc tốt.
Muốn có đạo đức cách mạng trước hết nói phải đi đơi với làm và luôn nêu gương
về đạo đức. Điều này đã được Người đề cập trong “Đường Kách mệnh” khi nói đến tư
cách của một người cách mệnh. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình
Người đã giáo dục mọi người và ngay chính bản thân mình đã thực hiện một cách nghiêm
túc và đầy đủ nhất. Đối với mỗi người đều nói nhiều mà làm ít, nói mà khơng làm, hơn
nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả phản tác dụng. “Hãy làm theo tơi
nói, đừng làm theo tơi làm”, đó là thói đạo đức giả của các giai cấp bóc lột. Cịn việc nêu
gương thì khơng ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực
đạo đức. Trong gia đình: Đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với
các em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy, cô giáo đối với học sinh; trong tổ


chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của những người đứng đầu, phụ trách, lãnh
đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối
với người khác; những gương “Người tốt việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã dầy công phát
hiện thu thập, chỉ đạo việc in thành sách để mọi người học tập và làm theo là một việc
làm rất cụ thể. Một bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống - điều mà Hồ Chí
Minh nói về Lê-nin đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là
sự nêu gương về đạo đức. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả
dân tộc và cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau học tập.
4.1.2. Xây đi đôi với chống
Nguyên tắc thứ hai để rèn luyện đạo đức cách mạng là xây đi đơi với chống. Bởi
vì trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái
vơ đạo đức vẫn cịn đan xen nhau, đối chọi nhau, thông qua hành vi của mỗi một con

người khác nhau. Thậm chí, những đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra ngay trong bản
thân mỗi một con người. Do đó việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức hồn tồn là
điều khơng đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục
đích xây. Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới phải đồng thời
chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức. ở đây điều quan trọng là phải phát hiện sớm,
hướng cho mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch và lành mạnh về đạo đức. Để
xây và chống có hiệu quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi; Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát động rất nhiều phong trào như vậy. Đó là phong trào thi đua thực hành
tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu (năm 1952); đó là phong trào: 3 xây, 3
chống” năm 1963)... Có phong trào, có cuộc vận động cho tồn Đảng, tồn dân; nhưng
lại có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới. Thơng qua đó mà
lơi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì, chống gì rất cụ thể, rõ ràng để mọi
người phấn đấu, tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng.
4.1.3. Tu dưỡng bền bỉ suốt đời.


Nguyên tắc thứ ba là: Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Bởi mỗi người phải thường
xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đó là cơng việc kiên trì,
bền bỉ suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nêu lại tấm gương của người xưa: Mỗi
buổi tối đều tự kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai cái lọ, để cứ nhìn vào đó có thể
biết mình tốt xấu ra sao? Trong thực tiễn, có người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung
thành, không sợ nguy hiểm, không sợ gian khổ, hy sinh, nhưng đến khi có ít quyền hạn
thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, biến thành người có tội
với cách mạng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới đưa ra một kết luận khái quát: “Một
dân tộc, một Đảng và mỗi một con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
khơng nhất định hơm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng
dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và
đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì
đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con
người”.

4.2.

Đối với bản thân:

Đối với bản thân mỗi con người việc rèn luyện đạo đức cách mạng phải được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong đời công, sinh hoạt, học tập,
lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn, từ gia
đình đến nhà trường, đồn thể, xã hội; từ quan hệ bạn bè đến đồng chí, anh em, cấp trên,
cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân và cả trong quan hệ quốc tế. Có rèn luyện cơng
phu theo các ngun tắc trên đây thì con người mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp,
những phẩm chất ấy sẽ ngày càng được bồi đắp và nâng cao.

KẾT LUẬN
Khi Đảng đã xác định quan liêu, tham nhũng là một nguy cơ, trở thành “quốc nạn”
thì phải coi nhiệm vụ chống tham nhũng như chống dịch, bất luận người đó là ai, giữ
chức vụ gì nếu đã dính đén tham nhũng thì phải xử lý, khơng được “nhẹ trên, nặng dưới”.
Thời gian qua, các vụ tham nhũng của cán bộ, đảng viên được phanh phiu và được xử lý


nghiêm là nhờ có sự phát hiện của quần chúng nhân dân, nhờ công an điều tra, kết luận
và sự tham gia tích cực của cơng luận. Vì vậy muốn chống tham nhũng cùng với việc
phát huy vai trò , trách nhiệm của cơ quan chức năng, của công luận cần sớm thực hiện
cơ chế dân được giám sát cán bộ, đảng viên. Dân là người biết rõ nhất kẻ tham nhũng,
chỉ cần tổ chức đảng và chính quyền các cấp thực sự chịu nghe tiếng nói của dân, chỉ đạo
kiểm tra, xác minh, kết luận rõ ràng, xử lý nghiêm minh đơn thư có liên quan đến cán bộ,
đảng viên thì nhất định chúng ta sẻ chống quan liêu, tham nhũng có hiệu quả. Trước mắt
lựa chọn nhân phục vụ đại hội đảng bộ các cấp phù hợp,không để cán bộ dính đến tham
nhũng, cơ hội suy thối về đạo đức. Đó chính là việc làm có ý nghĩa để bảo về Đảng thực
sự, trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN giàu đẹp.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cứu quốc, số 1877, ngày 6/8/1951
[2]. Báo L’Populaire, Hồ Chí Minh tồn tập, tập 1, trang 12,13.
[3]. Báo Nhân Dân, số 4384, ngày 7/4/1966.
[4]. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho sinh viên đại
học, cao đẳng khối khơng chun ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2014.
[5]. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.

[6]. ĐCSVN (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG,
Hà Nội
[7]. Điều 3, Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
[8]. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, bộ giáo dục và đào tạo,Hà Nội,2008
[9]. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 3
[10]. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 4
[11]. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 6
[12]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 7
 Tài liệu internet
/>


×