Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN, NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.57 KB, 38 trang )

1

1

THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ PHẠM TRÙ LÝ LUẬN
1. Phạm trù thực tiễn
Các nhà triết học trước Mác đã đề cập đến vấn đề thực tiễn với nhiều
quan niệm khác nhau. Từ xưa các nhà triết học đã tìm hiểu đời sống hiện thực
của con người, đã cố gắng tìm kiếm phương pháp để giải thoát con người khỏi
kiếp “trần ai khổ cực”. Tuy nhiên vì nhiều hạn chế nên họ đã không hiểu đúng
về thực tiễn. Một số nhà triết học coi thực tiễn như là hoạt động kiếm sống
của con người cần lao, số khác lại hạn chế thực tiễn dưới hình thức quan sát,
thí nghiệm, thậm chí có người coi thực tiễn là hoạt động “ bẩn thỉu” có tính
chất “con bn”. Hêghen, nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX đã có một số tư tưởng hợp lý sâu sắc về thực tiễn. Ông cho rằng
bằng thực tiễn chủ thể tự “nhân đơi” mình, đối tượng hóa bản thân mình trong
quan hệ với thế giới bên ngồi, nhưng ơng chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở
hoạt động tư tưởng.
Tổng kết thành tựu khoa học và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của
nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra vai trị cách mạng của thực tiễn,
đồng thời đưa nó vào trong hệ thống phạm trù triết học. Việc đưa thực tiễn
vào triết học với tịnh cách là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội, là cơ sở,
động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác đã làm cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và
trong nhận thức luận. Lênin viết: “Quan điểm về đời sống , về thực tiễn phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. 1Từ đây, nhận
1 Lênin toàn tập, tập 18, Nxb tiến bộ Mátxitcơva, 1980, tr 167.




2

2

thức của con người khơng những có cơ sở, động lực, mục đích của mình mà
cịn có tiêu chuẩn khách quan duy nhất là thực tiễn. Vì vậy, “Vấn đề tìm hiểu
xem tư duy của con người có thể đạt tới một chân lý khách quan hay không,
không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính
hiện thực và sức mạnh tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính
hiện thực hay tính khơng hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn là một vấn đề
kinh viện thuần túy”2.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt
động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là hoạt động mà chủ
thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất định
nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người sử dụng các
phương tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và những mức
độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích của con người. Kết quả của quá trình
hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu
tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
Mỗi một hoạt động của con người đều mang tính lịch sử cụ thể. Nó chỉ
diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có q trình hình thành, phát
triển và kết thúc hoặc chuyển hóa sang giai đoạn khác, khơng có hoạt động
thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi phối
của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích

hoạt động.

2 C.Mác và Ph.Ănghen tồn tập, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội 1995. Tập3. tr 9 - 10.


3

3

Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm
người nhưng hoạt động của từng cá nhân, từng nhóm người ấy lại khơng thể
tách rời các quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối tượng, phương tiện
và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt động thực tiễn của con
người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng, vì cộng
đồng, do cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng là hoạt động tất yếu có
nhận thức, có ý thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức
về đối tượng… đặc biệt là ý thức về mục đích của quá trình hoạt động. Mục
đích của hoạt động thực tiễn là nhằm thảo mãn những nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần của cá nhân và xã hội. Mỗi một hoạt động đều có mục đích khác
nhau để giải quyết những nhu cầu cụ thể, khơng có hoạt động nào là khơng có
mục đích, mặc dù kết quả của hoạt động thực tiễn không phải lúc nào cũng
diễn ra phù hợp với mục đích của con người. Thực tiễn là quá trình tác động
tương hỗ lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể. Do quá trình tác động và trao
đổi lẫn nhau mà chủ thể và khách thể đều có sự biến đổi, khách thể hóa chủ
thể và chủ thể hóa khách thể. Như vậy thực tiễn vừa có tính khách quan vừa
có tính chủ quan. Nếu xem xét thực tiễn như một q trình thực hiện mục đích
và lợi ích của chủ thể, như một quá trình nhận thức và cải tạo năng động của
chủ thể đối với khách thể, thì thực tiễn có tính chủ thể. Cịn nếu xem xét thực
tiễn như một quá trình tác động qua lại giữa lực lượng vật chất của chủ thể

với lực lượng vật chất của khách thể, hay từ góc độ chủ thể tất yếu phải nhận
thức và vận dụng quy luật khách quan thì thực tiễn vốn có tính khách quan.
Đương nhiên, q trình thực tiễn khơng phải là q trình hành động một cách
mù qng, coi thường tính khách quan, tính quy luật của chủ thể, đồng thời
cũng khơng phải là một q trình mà chủ thể có thái độ tiêu cực, bị động và
hồn tồn khơng đóng vai trị gì đối với tính quy luật, tính khách quan của


4

4

khách thể. Trước đặc tính tồn tại khách quan của khách thể, chủ thể phải thừa
nhận tính khách quan của đối tượng, tính khách thể, tính khách quan của thực
tiễn, phủ nhận tích khách quan của khách thể tất yếu sẽ dẫn đến phủ nhận tính
định hướng đối tượng khách quan của hoạt động thực tiễn. Đối tượng khách
quan có thể trở thành khách thể hay khơng, điều đó cịn phụ thuộc vào chủ thể
có xuất phát từ yêu cầu nhận thức và cải tạo của mình hay khơng để “rút” nó
ra trong mối liên hệ với thế giới khách quan.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia làm ba
hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, và
hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp tác động vào tự
nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của con người trực tiếp tác
động vào xã hội, cải biến các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ. Đó là những
cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phong dân tộc, đấu tranh bảo vệ hịa
bình, bảo vệ môi trường sinh thái, những cuộc cải tạo đổi mới, cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa xã hội… tất cả những hoạt động này làm biến đổi các quan

hệ xã hội và mọi mặt khác nhau của đời sống xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các nhà khoa học tác
động làm cải biến những đối tượng nhất định, trong một điều kiện nhất định,
theo một mục đích nghiên cứu nhất định.
Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau tương đối nhưng
chúng thống nhất với nhau, có chung chủ thể hoạt động, có cùng mục đích,
chúng hỗ trợ ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy việc phân biệt các hình thức hoạt
động thực tiễn là tương đối. Hoạt động sản xuất vật chất không thể không
hoạt động trong cộng đồng xã hội, không thể khơng có vai trị của thực


5

5

nghiệm khoa học. Mặc dù hoạt động chính trị xã hội trực tiếp tác động đến
những vấn đề của đời sơng chính trị tinh thần, nhưng kết quả hoạt động của
lĩnh vực này lại tác động đến phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội,
cũng như những vấn đề có tính quy luật mà hoạt động thực nghiệm khoa học
đang quan tâm. Cũng như vậy hoạt động thực nghiệm khoa học khơng thể
khơng lấy mục đích phát triển kinh tế xã hội, phục vụ cải tạo xã hội làm mục
đích hoạt động của mình.
Trong các hình thức hoạt động thực tiễn thì hình thức hoạt động sản
xuất vật chất là cơ bản nhất. Mặc dù các hoạt động chính trị xã hội vẫn diễn ra
thường xuyên quan trọng nhưng hoạt động sản xuất vật chất tác động sâu sắc,
tồn diện đến các hoạt động khác, nó là hoạt động trung tâm chủ yếu của con
người . Trên cơ sở những hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản nói trên mà
hình thành và phát triển những hình thức hoạt động thực tiễn đa dạng phong
phú của đời sống xã hội như: sinh hoạt gia đình, y tế, giáo dục, nghệ thuật,
đạo đức tôn giáo, thể dục thể thao…

Thực tiễn khơng chỉ là nền tảng của tồn bộ đời sống xã hội, mà còn là
cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý. Vì vậy,
vai trị của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện ở những điều chủ yếu
sau:
Một là, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Con người muốn tồn tại và phát triển phải tổ chức hoạt động thực tiễn. Trong
thực tiễn cả chủ thể và khách thể đều bộc lộ những thuộc tính, những quy
luật…để con người nhận thức chúng. Như vậy, thực tiễn đã cung cấp những
tài liệu sinh động cho nhận thức, mà khơng có chúng thì khơng thể có tri thức,
lịch sử phát triển của khoa học đã chứng minh rằng, mọi tri thức lý luận dù là
trực tiếp hay gián tiếp cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Không những chỉ cung


6

6

cấp tài liệu cho nhận thức, thực tiễn còn làm xuất hiện những nhu cầu, đề ra
nhiệm vụ và cung cấp những công cụ, phương tiện để nhận thức giải quyết.
Cơng cuộc đổi mới tồn diện ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra
những yêu cầu, nhiệm vụ địi hỏi nhận thức lý luận phải giải đáp đó là: mơ
hình về chủ nghĩa xã hội và con đường phương pháp xây dựng nó, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ cơng bằng xã hội, vấn đề phân
hóa giàu nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, vấn đề cơng
nghiệp hóa rút ngắn, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc…nghiên cứu làm sáng tỏ
những vấn đề nói trên, nhận thức lý luận có vai trị quan trọng góp phần đắc
lực thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Hai là, thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức khơng phải là

hoạt động tự thân vì nhận thức mà là vì thực tiễn, vì cuộc sống của con người.
Chính vì vậy nhũng tri thức đạt được phải được đem vào thực hiện trong thực
tiễn, phải hướng dẫn, điều chỉnh và chỉ đạo hoạt động thục tiễn.
Ba là, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Tri thức của con người là kết
quả của quá trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản ánh đúng hoặc khơng
đúng hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, tiêu
chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý là thực tiễn. Chỉ có thực tiễn
mới có thể “vật chất hóa” được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó
mới có thể khẳng định hay phủ định một giả thuyết khoa học nào đó. Do có
nhiều hình thức hoạt động thực tiễn khác nhau nên cũng có nhiều hình thức
kiểm tra chân lý khác nhau như bằng thực nghiệm khoa học, bằng việc áp
dụng lý luận xã hội vào cải biến xã hội…Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ
thực tiễn mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để


7

7

khẳng định chân lý bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ thực tiễn
luôn vận động biến đổi và phát triển. Vì vậy, xem xét thực tiễn trong không
gian càng rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh thể thì càng thấy rõ đâu
là chân lý đâu là sai lầm, chính vì vậy những chân lý đạt được trước kia và đã
được thực tiễn kiểm nghiệm cũng phải thường xuyên bám sát thực tiễn mới,
tiếp thu bổ sung để hồn thiện hơn. Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin yêu cầu
quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của
lý luận về nhận thức.
2. Phạm trù lý luận
Lý luận là sản phẩm phát triển cao nhất của quá trình nhận thức, là hệ

thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất yếu của hiện thực
khách quan. Các nguyên lý, quy luật, phạm trù là hạt nhân của lý luận. Lý
luận khơng hình thành tự phát mà xuất phát từ thực tiễn, được khái quát, hình
thành trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn, phục vụ cho hoạt động thực tiễn và
khi được thực tiễn kiểm nghiệm đúng đắn, lý luận đó trở thành khoa học. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người,
là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình
lịch sử”3.
Để hình thành lý luận, con người phải thơng qua quá trình nhận thức
kinh nghiệm. Con người muốn biến đổi tự nhiên và xã hội thì cần phải có
những hiểu biết về chúng, nhưng những hiểu biết đó khơng có sẵn trong con
người. Muốn có tri thức, con người phải tác động vào thế giới khách quan
bằng hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, con người tích lũy được tri thức kinh
nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và
tri thức kinh khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu
được trong quá trình sinh hoạt và hoạt động hàng ngày của con người. Nó
33. Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8. tr 497.


8

8

giúp con người giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá
trình tác động trực tiếp đến đối tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học là kết
quả của q trình thực nghiệm khoa học. Nó địi hỏi chủ thể phải tích lũy một
lượng tri thức nhất định trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động khoa
học mới có thể hình thành tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh
nghiệm khoa học giúp các nhà khoa học hình thành lý luận. Tri thức kinh
nghiệm tuy là bộ phận của tri thức nhưng ở trình độ thấp, thế nhưng nó là cơ

sở để hình thành lý luận. Lý luận được hình thành trên cơ sở khái qt kinh
nghiệm thực tiễn, song khơng phải cứ có kinh nghiệm thực tiễn là hình thành
được lý luận. Lý luận được hình thành thơng qua tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn của các nhà lý luận.Vì vậy lý luận khơng thể ra đời một cách tự phát và
luôn luôn phải được bổ sung, phát triển bằng những kinh nghiệm thực tiễn
mới, phong phú. Do tính độc lập tương đối của mình, lý luận có thể vượt
trước các dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét đến cùng, lý luận không thể không dựa
trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính
trừu tượng và khái quát cao, tính lơgíc và tính hệ thống chặt chẽ. Vì vậy, lý
luận mang lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật, tính tất yếu
của sự vật hiện tượng của thế giới khách quan. Cho nên, phạm vi ứng dụng
của lý luận rộng hơn, phổ biến hơn so với kinh nghiệm.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy thuộc phạm vi phản ánh và vai
trò phương pháp luận của nó. Có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và
lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát
triển của một ngành nhất định như lý luận về kinh tế học, chính trị học, tâm lý
học…Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận cho hoạt
động của ngành đó.


9

9

Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới
và con người, là thế giới quan và phương pháp luận cho nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người.
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp

luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng
những quy luật chung hay chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức
lý luận đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những phạm vi, lĩnh vực
và trình độ khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương
pháp luận nhận thức và cái tạo hiện thực khách quan bằng hoạt động thực
tiễn.
II. SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀ MỘT
NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VẬN
DỤNG VÀO CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG QUÂN ĐỘI
HIỆN NAY
1. Cơ sở của nguyên tắc
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết
học Mác - Lênin là một trong những nội dung tạo nên cuộc cách mạng trong
lịch sử triết học. Điều đó xuất phát trước hết từ mục đích của triết học Mác.
Trong tác phẩm luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã chỉ rõ: “Các nhà triết học
đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới”4. Nó cũng xuất phát từ vai trị của thực tiễn đối với lý luận và vai trò
của lý luận đối với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí minh thường căn dặn chúng ta:
học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Người nhấn
mạnh rằng, lý luận khơng có thực tiễn là lý luận sng, thực tiễn mà khơng có
lý luận là thực tiễn mù qng.
4 C.Mác và Ph.Ănghen tồn tập, Tập3, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội 1995, tr12.


10

10

Lênin đã khái quát con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân
lý là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng

đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan.”5 Lý luận là sản phẩm của quá trình nhận
thức, là sự phản ánh gián tiếp, khái quát, trừu tượng về hiện thực khách quan.
Nó là trình độ cao của nhận thức khoa học. Tri thức lý luận dựa trên một loạt
các thao tác lơgíc phức tạp của tư duy con người và các phương pháp nhận
thức khoa học như đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, khái qt hóa, trừu
tượng hóa, lơgíc và lịch sử… Tri thức lý luận mặc dù không phải là sản phẩm
của nhận thức lý tính thuần tính mà là kết quả của sự hoạt động tích cực của
cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, trong đó ưu thế thuộc về các hình
thức của nhận thức lý tính. Lý luận phản ánh hiện thực có thể đúng hoặc sai,
nhưng vì khơng phải là phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan nên lý luận
ln có khuynh hướng tự phát thốt ly q xa thực tiễn, thậm chí rơi vào giáo
điều kinh viện. Cho nên đòi hỏi lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, quay về
với thực tiễn.
Trong xã hội thường có sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn. Sự lạc
hậu này trước hết bắt nguồn từ sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã
hội. Lý luận không thể phản ánh được chính xác, đầy đủ sự phong phú đa
dạng của tất cả các mối liên hệ, các thuộc tính, quy luật, khả năng, khuynh
hướng của hiện thực. Thực tiễn đã chứng minh những nguyên lý căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn toàn đúng đắn, nhưng con đường cụ thể của sự
vận động của lịch sử của các dân tộc lại rất phong phú đa dạng vì vậy khơng
có đáp án sẵn cho mọi vấn đề của q trình đó, đặc biệt là q trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước khác nhau.
5 Lênin toàn tập, tập 18, Nxb tiến bộ Mátxitcơva, 1980, tr 167.


11

11


Mặt khác trong đời sống hiện thực luôn tồn tại một khoảng cách nhất
định giữa lý luận mới và việc thực hiện chúng trong thực tiễn. Lý luận muốn
trở thành hiện thực trước hết nó phải phản ánh đúng đắn quy luật của sự phát
triển xã hội và lợi ích của đông đảo quần chúng. Lý luận ấy phải được thâm
nhập vào đông đảo quần chúng và biến thành mục đích, nội dung chương
trình, kế hoạch, phương pháp hành động của quần chúng. Tổ chức chỉ đạo
hành động thực tiễn của quần chúng. Tự bản thân lý luận không thể là hiện
thực, để biến lý luận thành hiện thực đòi hỏi vừa phải có thời gian, vừa phải
có những phương tiện và phương pháp thực tiễn. Trong đời sống xã hội không
phải ở đâu và mọi lúc con người cũng giải quyết được đầy đủ mọi vấn đề do
cuộc sống đặt ra. Trên thực tế, có những lý luận khoa học, đường lối chính
sách đúng đắn nhưng chậm được thực hiện, hoặc khi thực hiện chúng thì đã bị
biến dạng khơng cịn đúng như ngun mẫu ban đầu nữa.
Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn cũng chứa đựng tính phức tạp và mâu
thuẫn. Điều đó được quy định bởi cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái
tích cực và cái tiêu cực, cái tự giác và cái tự phát, cái đang nảy sinh và cái
đang lụi tàn. Thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đã chứng minh
điều đó, rất nhiều chủ trương quyết sách đúng đắn nhưng vẫn không đi vào
được cuộc sống, hoặc đi vào cuộc sống thì đã bị méo mó biến dạng vì lực cản
của những cái cũ, cái lạc hậu, cái bảo thủ còn quá mạnh. Ngay cả bản thân lý
luận và thực tiễn cũng chữa đựng những mâu thuẫn bên trong của chính mình.
Trong lý luận đơi khi có sự khơng ăn khớp giữa tri thức mới và tri thức cũ.
Còn trong thực tiễn con người hành động không chỉ bằng những tri thức khoa
học, sự quyết tâm, tính tích cực tự giác mà cịn có cả những kinh nghiệm
thường ngày và những phẩm chất tiêu cực (tính bảo thủ, thói quen cũ, tính tự
phát, mê tín, ích kỷ, chủ quan, vơ trách nhiệm…) từ đó làm xuất hiện những
mâu thuẫn giữa các hình thức hoạt động của thực tiễn: giữa hoạt động kinh tế


12


12

với hoạt động văn hóa xã hội, giữa phát triển kinh tế với hoạt động bảo vệ
môi trường sinh thái, …điều đó địi hỏi phải có lý luận khoa học, chính sách
đúng đắn và những biện pháp thực tiễn phù hợp để điều chỉnh, định hướng
các hình thức hoạt động thực tiễn theo cùng chiều cùng hướng với sự phát
triển của xã hội.
2. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ quan hệ giữa con
người và thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động tích cực vào thế
giới khách quan - tự nhiên và xã hội, nhằm cải biến thế giới khách quan bằng
thực tiễn. Trong q trình đó, sự phát triển của nhận thức con người và sự
biến đổi của thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Thực chất nội dung
nguyên tắc của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là: thực tiễn nào thì lý
luận đó, lý luận nào thì vận dụng vào thực tiễn ấy và khi thực tiễn đã thay đổi
thì lý luận cũng phải thay đổi theo. Cụ thể là:
Thứ nhất, lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh dược yêu
cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nhiệm của thực tiễn.
Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Để hiểu được
thực tiễn dưới dạng hình tượng lơgíc nhất thiết phải xây dựng lý luận. Bản
thân thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Q trình đó diễn ra
hết sức phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức phải bám sát quá trình đó.
Bám sát thực tiễn để phản ánh đúng thực tiễn đương đại đã hết sức khó khăn,
nhưng điều quan trọng hơn là phải so sánh, đối chiếu phân tích để chọn lọc
những thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật làm cơ sở cho q
trình hình thành lý luận. Nếu lý luận nào đó phản ánh khơng đúng nhu cầu
của thực tiễn, không phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn lý luận đó cũng
bị bác bỏ. Kinh nghiệm hoạt động của con người là cơ sở để hình thành lý
luận. Đó là tri thức trực tiếp góp phần tích cực vào q trình tồn tại của loài



13

13

người. Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của lồi người thì mới có
tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn
chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của
chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính
tồn vẹn của nó. tính tồn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình
tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn.
Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát
một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa
rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính tồn vẹn của
thực tiễn thì mới đạt đến chân lý.
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình
thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà
còn từ nhu cầu thực tiễn. Thực tiễn phong phú đa dạng luôn vận động và biến
đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết lý luận phải đáp ứng thực tiễn.
Con người nhận thức hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con
người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính nhờ
khả năng thơng qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận lý
luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan con người khơng hề
chống ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận thức theo định hướng mục đích.
Thơng qua tính mục đích đó mà lý luận được hình thành. Lồi người có khả
năng trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách
quan, nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn, con người tích lũy lý luận, mà
trước hết là những lý luận phù hợp với nhu cầu hoạt động thực tiễn của con
người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo

hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu quả
cao. Lý luận trước hết phải đáp ứng mục tiêu đó. Quan hệ giữa người với
người, giữa người với tự nhiên đòi hỏi con người phải có lý luận sâu sắc về


14

14

chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho hoạt
động trong đó có hoạt động sáng tạo tri thức, phát minh, sáng chế những tư
liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con
người, do đó hệ thống lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục
đích của con người thì được con người quan tâm khái quát. Vì vậy, lý luận
phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự khái quát từ thực tiễn phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong những giai đoạn khác nhau của
lịch sử vì vậy mà nội dung của nó cũng được bổ sung và phát triển cho phù
hợp với thực tiễn của từng thời kỳ lịch sử. Mác, Ăngghen, Lênin là những
người trực tiếp hoạt động trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
biết tổng kết những tri thức kinh nghiệm và những tri thức lý luận trên các
lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên một hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh và
không ngừng phát triển. Trên cơ sở trung thành và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh Việt Nam trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể để đề ra đường lối chiến lược và sách lược cho
đúng đắn cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân.
Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến thắng lợi trong khởi
nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 và thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là từ khi

tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước từ đại hội đảng toàn quốc lần
thứ VI (1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu kinh nghiệm
thực tiễn Việt Nam và thế giới để tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là thể hiện sinh động
tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ


15

15

nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Đảng ta chỉ rõ những đặc
điểm cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là : “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.”6
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và tổng kết 20 năm
đổi mới, tiếp thu kinh nghiệm của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
thế giới, Đại hội lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Trong
quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới
không phải tù bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới
không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động cách mạng.” 7 Trong quá trình thực hiện công
cuộc đổi mới, chúng ta đã nhận thức rõ hơn những đặc trưng chủ yếu của xã
hội mà chúng ta đang xây dựng là: “Xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr. 84.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.70.


16

16

lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người được giải phóng khỏi áp bức bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Động sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới.”8Đây là kết quả của cả một quá trình trăn trở tìm tịi, suy tư, thể
nghiệm và đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và cơng sức của
toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta trong nhiều thập kỷ. Đặc biệt trong phát
triển khoa học xã hội đến năm 2010. Đảng ta xác định: Thường xuyên tổng
kết thực tiễn để phát triển lý luận; dự báo tình hình và xu thế phát triển của
thế giới, khu vực và trong nước, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên,

công tác lý luận tư tưởng của Đảng có lúc, có mặt chưa theo kịp sự phát triển
và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới: “Lý luận chưa giải đáp được một số vấn
đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt
trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng
phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa
độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…” 9. Từ những
phân tích nói trên, chúng ta thấy rõ vai trị to lớn của thực tiễn đối với quá
trình hình thành và phát triển lý luận. Chỉ khi có quan điểm thực tiễn đúng
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.17 - 18.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.69.


17

17

đắn mới có thể hình thành nên thế giới quan, phương pháp luận, nhận thức
luận đúng đắn. Quan điểm thực tiễn là quan điểm cơ bản và quan trọng nhất
trong triết học Mác - Lênin.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng
lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Lý luận được hình thành khơng chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà cịn là
mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong
lịch sử ln được lý luận khái qt. Chính vì lý luận phản ánh thực tiễn dưới
dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực
tiễn. C.Mác đã từng nói, người thợ xây khơng bao giờ tinh xảo như con ong
xây tổ, nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây một cơng

trình, họ đã hình thành được hình tượng của cơng trình đó trong đầu họ. Tức
là, hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động của
con người chưa có lý luận chỉ đạo, nhưng con người phải hoạt động để đáp
ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thơng qua đó, con người khái quát thành lý
luận. Từ đó, những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải
có lý luận soi đường, hoạt động thực tiễn của con người mới trở thành tự giác,
có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.
Lênin đã khẳng định: “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có
phong trào cách mạng” và “chỉ một đảng nào có được một lý luận tiên phong
hướng dẫn thì mới có thể làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong ”10. Lý luận
đóng vai trị soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng mục
tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự
báo được hả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo
được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, thất bại có thể có trong q
trình hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu
10 Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxitcơva 1977, tập 6, tr 30.


18

18

quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động
của con người. Mặt khác, lý luận cịn có vai trị giác ngộ mục tiêu lý tưởng,
liên kết các cá nhân trong cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của
quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã
cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng”11.Mặc dù lý luận mang tính khái qt cao, nhưng nó có

tính lịch sử cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một
cách cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều,
kinh viện thì chẳng những hiểu sai lý luận mà còn làm phương hại đến thực
tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận hình
thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của con người
trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng
nhưng khơng phải khơng có tính quy luật. tính quy luật của thực tiễn được
khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận khơng chỉ là phương
pháp mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu,
biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong
hoạt động thực tiễn. Không những thế, lý luận cịn định hướng mơ hình của
hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết từ lý
luận xây dựng mơ hình thực tiễn theo những mục đích khác nhau của q
trình hoạt động, dự báo các diễn biến, cá mối quan hệ, lực lượng tiến hành và
những phát sinh của nó trong q trình phát triển để phát huy các nhân tố tích
cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao hơn.

11 C.Mác và Ph.Ănghen tồn tập, Tập1, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội 1995, tr 580.


19

19

Lý luận tuy là lơgíc của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với
thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn
biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý
luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý
luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc có thể khơng, hoặc
kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực

tiễn quy định . Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp
với thực tiễn.
Cơng cuộc đổi mới tồn diện vì chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ lý luận
của tồn Đảng. Nếu lý luận không được phát triển, bổ sung để soi đường dẫn
dắt cho sự nghiệp đổi mới thì khó tránh khỏi mò mẫm, sai lầm và tổn thất.
Tốc độ, nhịp điệu và hiệu quả của sự nghiệp đổi mới phụ thuộc rất nhiều vào
sự phát triển lý luận, vào đổi mới tư duy lý luận. Để phát huy vai trò của lý
luận trong thời kỳ đổi mới, lý luận phải thật sự làm cơ sở khoa học cho sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Lý luận của Đảng ta “đã cung
cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường
lối đổi mới của Đảng; góp phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội”12. Muốn phát huy tốt vai trò là cơ sở khoa học cho
sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước thì lý luận phải cung cấp những
căn cứ khoa học đáng tin cậy cho việc hoạch định chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. để lý luận thực sự có tác dụng làm
cỏ sở khoa học cho đường lối đổi mới của Đảng và quản lý của Nhà nước
hiện nay, Đảng và Nhà nước cần coi trọng lý luận, coi trọng đội ngũ cán bộ
làm công tác lý luận, cán bộ khoa học, biết sử dụng họ vào công tác nghiên
12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Họi nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 64.


20

20

cứu, đề xuất các chủ trương, đường lối, chính sách. Nghiên cứu lý luận phải
dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, coi đó là mắt khâu đầu tiên của quy trình
hoạch định đường lối, chính sách. Lý luận phải định hướng cho hoạt động

thực tiễn của cán bộ Đảng viên, góp phần dự báo xu hướng vận động phát
triển của sự nghiệp đổi mới, lý luận phải làm cơ sở khoa học cho việc định
hướng xã hội chủ nghĩa của công cuộc đổi mới.
Thứ ba, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của
sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều là góp phần tăng cường thực hiện nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm trước đây và
áp dụng một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi. Bệnh kinh
nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thơng thường. Tri thức kinh nghiệm
thơng thường là trình độ thấp của tri thức. Tri thức này chỉ khái quát thức tiễn
với những yếu tố và điều kiện đơn giản hạn chế. Tri thức kinh nghiệm thơng
thường góp phần tạo nên những thành công không nhỏ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt là trong nền kinh tế truyền thống. Những thành
cơng đó củng cố giá trị của các kinh nghiệm. Trong điều kiện có một số lĩnh
vực biến đổi chậm chạp, việc tiếp tục vận dụng những kinh nghiệm cũ vào
hiện tại vẫn tạo nên những thành cơng đã tự phát hình thành bệnh kinh
nghiệm. Nước ta là nước nơng nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và cơng nghệ
thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống, nền kinh tế chỉ dựa
vào những kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức
dân gian. Điều đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của
người Việt Nam chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Truyền thống đó là một trong
những nguyên nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch hóa, tập


21

21


trung quan liêu bao cấp được thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt
tiêu tính sáng tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỷ lại, dựa dẫm là một
trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, căn bệnh tuyệt
đối hóa kinh nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên.
Kinh nghiệm là rất q, nó đã góp phần tạo nên những thành cơng
trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ sở để khái quát nên lý
luận.Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm ở một nơi, một lúc nào đó,
xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn
khi điều kiện, hoàn cảnh đã thay đổi. Vì vậy, chúng ta cần phải khắc phục
bệnh kinh nghiệm.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả, Chúng ta vừa phải quán
triệt triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nghĩa là phải
bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung vận
dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, phải hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường luôn vận động biến
đổi, nhất là khi Nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới và hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới. Nó địi hỏi mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể
kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để
ứng phó, để chủ động về quyết sách kinh doanh cho phù hợp. Trong thị
trường, khơng có chỗ cho bệnh kinh nghiệm tồn tại. Khi thị trường hóa tồn
bộ các yếu tố của q trình sản xuất sẽ góp phần khắc phục triệt để bệnh kinh
nghiệm.
Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa lý luận,
tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn,
vận dụng lý luận một cách máy móc, khơng tính đến điều kiện lịch sử cụ thể
mỗi nơi, mỗi lúc.


22


22

Biểu hiện của bệnh giáo điều trước hết ở việc học tập lý luận tách rời
thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, câu chữ, tầm chương trích
cú… Mặt khác nó cịn biểu hiện ở chỗ áp dụng rập khn máy móc kinh
nghiệm của nước khác, của nơi khác vào nước mình, địa phương mình.
Căn nguyên sâu xa của bệnh giáo điều trước hết là do hiểu lý luận nông
cạn, chưa nắm chắc thực chất lý luận, lý luận chưa được vận dụng, kiểm
nghiệm và khái quát từ thực tiễn, cho nên lý luận xa rời thực tiễn, là lý luận
suông và rơi vào giáo điều. Mặt khác, cũng do tính tập trung hóa cả trong lĩnh
vực lý luận đã làm mất đi tính sáng tạo của lý luận. Q trình đó diễn ra trong
một thời gian dài trở thành đường mòn trong tư duy của cán bộ kể cả cán bộ
khoa học. Những gì trên chưa có ý kiến hoặc chưa được bổ sung bởi cơ quan
có thẩm quyền đều bị phủ quyết tạo cho cán bộ rơi vào bệnh giáo điều. Thứ
nữa do vận dụng sai lý luận vào thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động
thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, đồng thời cũng là quá trình vận dụng cái chung vào cái
riêng một cách linh hoạt. Bệnh giáo điều chỉ biết trích dẫn, thậm chí chỉ vận
dụng lý luận nhưng không quan tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh
lý luận cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Chính vì vậy, lý luận chưa
phát huy vai trò tiên phong, chưa thực sự định hướng cho sự phát triển, chưa
thực sự trở thành phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn, đó cũng là căn
bệnh của giáo điều.
Bệnh giáo điều đặc biệt nguy hại. Do giáo điều mà lý luận không mang
lại hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, dẫn đến mất lòng tin đối với vai trị của
lý luận nói chung, đối với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng



23

23

sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển
sáng tạo cùng thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực
tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.”13
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội
dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, của triết học Mác - Lênin
nói riêng. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận mà
còn là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cho quá trình hình thành tri thức
khoa học, tri thức lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện
thực khách quan vì mục đích tiến bộ xã hội.
3. Đặc thù nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
lĩnh vực quân sự và vận dụng vào công tác tư tưởng, lý luận trong quân
đội hiện nay
Thứ nhất, Đặc thù của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong lĩnh vực quân sự
Lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực quân sự
Lĩnh vực quân sự là một hiện tượng xã hội mang tính đặc thù. Nó xuất
hiện và mất đi gắn liền với giai cấp, nhà nước. Lĩnh vực quân sự bao gồm
toàn bộ hoạt động thực tiễn quân sự và nhận thức quân sự, có tác động ảnh
hưởng qua lại đối với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, văn hố, tư
tưởng, khoa học, v.v.. Đặc thù của hoạt động trong lĩnh vực quân sự thể hiện
tập trung ở các mối quan hệ giữa con ngưngười với con ngngười trong sử
dụng công cụ đặc biệt là vũ khí, trang bị kỹ thuật nhằm tiêu diệt đối phương,
sử dụng biện pháp đặc biệt là biện pháp bạo lực; ở khả năng chuyển hố,

biến động nhanh của mơi trường hoạt động, chứa đựng sự hy sinh, gian khổ,
13 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 8, tr.496.


24

24

ác liệt và ở tính chất đối kháng giai cấp. Lĩnh vực quân sự còn chứa đựng
nhiều yếu tố bất ngờ, nhiều hiện tượng “đánh lừa” bản chất, là “vương quốc
của các ngẫu nhiên”, nên đòi hỏi cao đối với con ngưngười và tổ chức về
khả năng vận dụng thống nhất lý luận và thực tiễn.
Với ý nghĩa là giai đoạn cao của quá trình nhận thức trong lĩnh vực
quân sự, lý luận quân sự mang tính chất khái quát hoá, trừu tượng hoá cao,
vạch ra bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, các quá trình quân sự.
Lý luận quân sự chỉ có ý nghĩa hiện thực khi thấm sâu vào thực tiễn quân sự.
Ngược lại, thực tiễn quân sự chỉ đạt được mục đích khi được lý luận quân sự
dẫn dắt. Cũng như các lĩnh vực khác, trong lĩnh vực quân sự, nếu tuyệt đối
hoá lý luận sẽ rơi vào lý luận suông, giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh viện, làm
cho lý luận quân sự trở thành các luận điểm khơng có sức sống. Song, tuyệt
đối hoá thực tiễn sẽ rơi vào phiêu lưu, mù quáng.
Thực tiễn trong lĩnh vực quân sự là toàn bộ hoạt động vật chất diễn ra gắn
liền với thời gian, không gian, điều kiện hoàn cảnh quân sự cụ thể, bao gồm thực
tiễn chiến đấu, bảo đảm chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật qn sự, thực tiễn cơng tác chính trị, tư tưởng. Trong đó,
thực tiễn chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu là những hình thức cơ bản nhất. Các
hoạt động đó với tư cách là hoạt động thực tiễn quân sự luôn luôn được lý luận,
tư tưởng quân sự dẫn dắt.
Biểu hiện đặc thù của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong lĩnh vực quân sự

Một là, sự thống nhất giữa tính vận dụng sáng tạo, linh hoạt lý luận
quân sự với tính khẩn trương, mau lẹ trong khái quát kinh nghiệm thực tiễn
quân sự.
Lĩnh vực quân sự là lĩnh vực xã hội đặc thù, ở đó luôn diễn ra sự đọ sức
quyết liệt về vật chất và tinh thần giữa các bên tham chiến. Điều này đã quy
định sự nỗ lực trong vận dụng lý luận quân sự vào thực tiễn quân sự, giảm
thiểu sự hy sinh xương máu và hao tổn về của cải. Hơn nữa, lĩnh vực này chứa


25

25

đựng đầy những yếu tố biến động khôn lường. Cho nên, lý luận quân sự được
vận dụng trong thực tiễn qn sự u cầu phải có tính sáng tạo.
Trong lĩnh vực quân sự, chủ thể các bên tham chiến luôn có sự năng
động rất lớn trong việc tìm kiếm và thay đổi về phương thức, cách đánh, nghệ
thuật tổ chức… Để sự năng động đó có hiệu quả, có cơ sở khoa học và đáp
ứng trước sự biến động của thực tiễn quân sự đòi hỏi chủ thể quân sự phải
thường xuyên, mau lẹ bám nắm tình hình, khái quát kinh nghiệm, tổng kết
thực tiễn. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
vừa đòi hỏi cao ở tính sáng tạo trong vận dụng lý luận quân sự, vừa thể hiện
tính khẩn trương, mau lẹ trong khái quát kinh nghiệm thực tiễn quân sự.
Hai là, sự thống nhất giữa tính sáng tạo với tính nguyên tắc của lý luận và
thực tiễn quân sự.
Nhờ tính sáng tạo mà lý luận quân sự có được khả năng giải quyết tốt
các vấn đề đòi hỏi cao về năng lực chun mơn qn sự, có được khả năng
giải đáp đúng đắn các tình huống phức tạp, có vấn đề, kể cả các "bài toán"
mới lạ về mặt nguyên tắc, chưa có lời giải sẵn. Song, đối tượng nhận thức
trong lĩnh vực quân sự vốn đã phức tạp lại luôn có xu hướng ngày càng phức

tạp hơn, hơn nữa trong q trình thực hành chiến đấu có liên quan đến sinh
mệnh con người, nên tính sáng tạo của lý luận quân sự phải được kết hợp chặt
chẽ với tính nguyên tắc và kỷ luật cao nhất.
Tính sáng tạo của lý luận qn sự và tính ngun tắc, kỷ luật có sự
thống nhất biện chứng. Tính sáng tạo của lý luận quân sự biểu hiện ở việc
khám phá, tìm ra cái mới về kỹ, chiến thuật quân sự, ý định và kế hoạch của
từng trận đánh, phương pháp để giải quyết nhiệm vụ phức tạp v.v.. Song, sự
sáng tạo đó phải tuân theo phương pháp luận khoa học, phục tùng nguyên tắc
chỉ đạo tác chiến, tuân thủ điều lệnh, điều lệ và những quy định khác. Có như
vậy, tính sáng tạo của lý luận qn sự mới có định hướng chính trị đúng đắn,
có sự lãnh đạo, chỉ huy và tinh thần tự giác cao. Sáng tạo mà không đi đôi với
tổ chức, kỷ luật dễ dẫn tới chệch khỏi mục tiêu chính trị. Vì vậy, giữa tính


×