Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều nguyễn (1802 1945) (decorative art on nguyen dynasty’s imperial palace vestments (1802 1945)) TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.83 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Vũ Huyền Trang

NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ PHỤC
CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945)

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210101

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT HỌC

Hà Nội - 2021


Cơng trình được hồn thành tại:
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đồn Thị Tình
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án họp tại
Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam
Số 32 Hào Nam, Ơ Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội


Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam;
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình hình thành và phát triển nền mỹ thuật Việt
Nam, lịch sử đã ghi nhận “Huế, một cơng trình vĩ đại” [38]. Lễ phục
cung đình cũng là một trong những yếu tố phản ánh dấu ấn văn hóa
góp phần tạo nên bản sắc phong phú đa dạng của di sản trang phục
dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn là đi tìm lại những tinh hoa, giá trị tinh thần,
giá trị thẩm mỹ qua những biểu hiện về nội dung và hình thức của yếu
tố mật độ, bố cục, hình tượng, hoa văn - họa tiết trang trí, màu sắc...
Lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) cho tới nay còn khá
nhiều nguồn sử liệu, tư liệu hình ảnh, những di sản cịn lưu giữ lại. Đó là
những tác phẩm nghệ thuật của người xưa với sự kết hợp tinh tế của tạo
hình trang trí và kỹ thuật may, thêu, dệt đã tạo lên một không gian chuyên

biệt mang đậm dấu ấn của mỹ thuật cung đình triều Nguyễn.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay có nhiều nguồn tài liệu phong phú về
tổng quan mỹ thuật thời Nguyễn được nghiên cứu ở nhiều góc độ như
lịch sử mỹ thuật, khảo cổ học, văn hóa học, sân khấu điện ảnh, kiến trúc.
Tuy nhiên, các cơng trình này khơng đi sâu nghiên cứu về tạo hình trang
trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn. Đặc biệt là nghiên cứu nghệ
thuật học dưới góc độ tiếp cận nghiên cứu liên ngành để chỉ ra giá trị
nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn. Khoảng
trống này cũng chính là hướng đi mới mà đề tài luận án muốn thực hiện.
Từ những lý do trên, trong phạm vi giới hạn của đề tài luận án,
tác giả chọn đề tài Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn (1802-1945) làm luận án tiến sỹ để thực hiện những vấn
đề nghiên cứu đặt ra.


2
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
Khẳng định vị trí của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn hịa trong dịng chảy của mỹ thuật truyền thống Việt Nam nói
chung, nghệ thuật trang trí cung đình nói riêng.
2.2. Mục đích cụ thể
Đánh giá được đặc điểm tạo hình trang trí, ý nghĩa biểu hiện của
nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802-1945).
Nhận diện nét đặc trưng riêng biệt trong tạo hình trang trí trên áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn. Khẳng định nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn (1802-1945) là sự kế thừa các giá trị mỹ thuật
truyền thống và phát huy tư tưởng thẩm mỹ có chọn lọc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn qua
các đồ án, hình tượng trang trí trên áo Hồng bào, Long bào, áo tế lễ
Nam Giao của các vua; áo Mãng bào, Hoa bào, Giao bào, áo thường
triều của các quan đại thần.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên 18 áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn được lưu giữ tại hai bảo tàng: Bảo tàng lịch
sử quốc gia Hồ Chí Minh và bảo tàng cổ vật cung đình Huế. Ngồi ra,
qua một số các nhà sưu tầm cổ vật, nhà nghiên cứu về Huế và qua các
cơng trình nghiên cứu trong nước, ngồi nước.
Về thời gian: Các áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945)
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu


3
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi triều đại lại có những bối cảnh,
tư tưởng và thể chế riêng. Xét từ nội dung nghiên cứu của đề tài luận
án, các câu hỏi được đặt ra như sau: Nghệ thuật trang trí trên áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) có những đặc điểm gì (?)
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 1945) có vị trí như thế nào trong dịng chảy nghệ thuật trang trí lễ phục
cung đình Việt Nam nói chung và mặt tư tưởng thẩm mỹ, văn hóa, lịch
sử nói riêng (?)
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn đã
phản ánh biểu tượng của một chế độ quân chủ phong kiến tập
quyền, lấy Nho giáo làm gốc cai trị đất nước với ngơn ngữ tạo hình
trang trí chính là hình tượng, màu sắc mang yếu tố linh thiêng kết
hợp với chất liệu và kỹ thuật thể hiện cầu kỳ như thêu bọc mép, dệt
cài bông, tạo khối nổi, đắp, khảm vàng, bạc, đá q trên áo lễ phục

đã đóng góp một phần diện mạo đa sắc màu trong nền mỹ thuật
nước nhà.
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, ra
đời, hình thành và phát triển từ sự kế thừa về tạo hình trang trí, phong
cách nghệ thuật của các thời kỳ trước và có tính tư tưởng, quan điểm
thẩm mỹ riêng của triều đình Nguyễn. Đó là những tư tưởng thẩm mỹ
của vua quan triều Nguyễn đã tạo nên sự uy nghiêm, quyền lực và có
chứa đựng yếu tố linh thiêng. Phản ánh quan niệm thẩm mỹ của
người Việt, cũng như đạo lý văn hóa dân tộc trong hệ tư tưởng
của tam giáo (Phật - Nho - Lão ).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận án Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều


4
Nguyễn (1802 - 1945) dưới góc độ lý luận và lịch sử mỹ thuật, phương
pháp chứng thực lịch sử và so sánh chứng thực lịch sử là phương pháp
nghiên cứu chủ đạo để phát hiện tính mới thơng qua phân tích so sánh
đối chiếu lịch sử, nghiên cứu hình ảnh, bản rập, số liệu, thống kê số
lượng mật độ trang trí trên áo lễ phục. Ngồi ra NCS cịn sử dụng một
số các phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp nghiên cứu
điền dã; Phương pháp thu thập - tổng hợp - thống kê tài liệu, hình ảnh
lễ phục cung đình triều Nguyễn.
6. Kết quả và đóng góp của luận án
6.1. Về lý luận khoa học
Đề tài bổ khuyết cho những nghiên cứu sâu vào nghệ thuật trang
trí trên áo lễ phục triều Nguyễn, phản ánh rõ diện mạo nền mỹ thuật
cung đình triều Nguyễn được sắp đặt trên áo lễ phục.
Đưa ra những luận điểm mới thông qua các dấu ấn nghệ thuật
trang trí tạo hình trên áo lễ phục hàm chứa ý nghĩa biểu tượng văn hóa

dân tộc. Đánh giá, giải mã biểu tượng mỹ thuật truyền thống là một
điều hết sức cần thiết trong xu thế phát triển của đời sống văn hóa hiện
đại trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu về giao lưu văn hóa.
6.2. Về thực tiễn
Xác định vai trị của đồ án trang trí đối việc hình thành diện mạo
lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945); Xác định vai trị của
nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn đối với
việc hình thành nên diện mạo phong cách mỹ thuật thời Nguyễn; Luận
án sẽ là cơ sở khoa học để phục vụ cho việc nghiên cứu, phát hiện,
phục dựng hệ thống lễ phục cung đình triều Nguyễn; Là cơ sở cho
công tác bảo tồn các giá trị phi vật thể của quần thể Huế và cho việc
vận dụng nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy chuyên ngành, liên ngành,


5
liên quan đến nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn nói riêng, mỹ thuật triều Nguyễn nói chung.
7. Bố cục của luận án
Ngồi phần Mở đầu (08 trang), Kết luận (03 trang), Tài liệu
tham khảo (10 trang) và Phụ lục (139 trang), nội dung của luận án
gồm 3 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái
quát nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802
-1945) (47 trang).
Chương 2: Nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn (1802 - 1945) (49 trang).
Chương 3: Nhận diện nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn (1802 - 1945) (41 trang).
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ

KHÁI QT NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ PHỤC
CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945)
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề lý luận về áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn (1802 -1945) dưới góc độ lịch sử, văn hóa
Giai đoạn trước 1945: Thông qua sử liệu triều Nguyễn và tập san
dưới triều Nguyễn để nhận biết về tình hình văn hóa, kinh tế, chính trị,
bối cảnh xã hội và mỹ thuật dưới triều Nguyễn.
Giai đoạn sau năm 1945:
Về lịch sử: Bộ sách sử Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của
Nội các triều Nguyễn được biên tập và xuất bản 15 cuốn, đây là một
cơng trình đồ sộ về sử liệu và thư tịch cổ dưới thời Nguyễn, đặc biệt


6
là tập 6, quyển 69 - 95 có thơng tin các lễ, hoạt động tổ chức nghi lễ
của triều Nguyễn với hai lễ chính (lễ triều hội và lễ tự hưởng) và quy
định lễ phục của vua - quan trong các nghi lễ (Quyển 78 - 79).
Về văn hóa - trang phục: Hội thảo Những vấn đề văn hóa xã hội
thời Nguyễn, tổ chức lần thứ hai- tháng 4/1992 do Viện Khoa học Xã
hội, bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, hội sử học
thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh;
Tác phẩm Trang phục Việt Nam - Vietnamese costumes through the
ages của tác giả Đồn Thị Tình; Cơng trình Ngàn năm áo mũ - Lịch
sử trang phục Việt Nam giai đoạn 1009 - 1945 của Trần Quang Đức,
đã thể hiện một góc nhìn văn hóa, trang phục của các triều đại thơng
qua hình ảnh trang phục của các thời kỳ.
Về mặt bảo tồn: trong hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy giá
trị hệ thống thơ văn trên hệ thống kiến trúc cung đình Huế do Trung
tâm bảo tồn di tích Cố đơ Huế tổ chức tháng 5/2015, tác giả Trương

Quốc Bình đã có bài tham luận “Quần thể di tích cố đơ Huế - nơi ẩn
chứa các giá trị văn hóa vơ giá có tính tồn cầu”; Cơng trình Từ điển
nhà Nguyễn của tác giả Võ Hương An, một cơng trình nghiên cứu
thuật ngữ triều Nguyễn.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về nghệ thuật trang trí trên
áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) dưới góc độ mỹ
thuật
Giai đoạn trước năm 1945, tiêu biểu là các bài viết đề cập đến mỹ
thuật Huế trên các tập san Những người bạn cố đô Huế (B.A.V.H)
được phát hành dưới thời Nguyễn.
Giai đoạn sau năm 1945: Có nhiều các cơng trình nghiên cứu về mỹ
thuật Huế của một số những nhà nghiên cứu mỹ thuật Huế có tiếng như


7
Một con đường tiếp cận lịch sử, Trang trí trong mỹ thuật truyền thống
của người Việt của tác giả Trần Lâm Biền; Cuốn Mỹ thuật Huế nhìn từ
góc độ ý nghĩa, giá trị biểu tượng của tác giả Nguyễn Hữu Thơng… Làm
cơ sở cho việc đối sánh giữa tạo hình trang trí trên áo lễ phục thời Nguyễn
với các tạo hình trang trí của các triều đại trước, tìm ra tính mới trong tạo
hình trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn.
Đánh giá chung tình hình nghiên cứu
Đây cũng là nguồn tài liệu hữu ích cho những những người muốn
nghiên cứu về mỹ thuật Huế. Đặc biệt là nghiên cứu nghệ thuật học
dưới góc độ tiếp cận nghiên cứu liên ngành để chỉ ra giá trị nghệ thuật
trang trí mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Khoảng trống này cũng
chính là hướng đi mới mà đề tài luận án muốn thực hiện.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài luận án
Khái niệm nghệ thuật trang trí

Nghệ thuật trang trí là một loại hình mỹ thuật đề cao tính ứng
dụng và thẩm mỹ, ra đời do nhu cầu làm đẹp của con người, được sử
dụng trong các ngành thiết kế thời trang, nội thất, kiến trúc, đồ gia
dụng…và được biểu hiện thông qua sự “sắp đặt quy củ và trật tự” của
các hình tượng, hoa văn, họa tiết, màu sắc… trong mối quan hệ với bề
mặt chất liệu của sự vật. Nghệ thuật trang trí cịn phản ảnh tính thẩm
mỹ, văn hóa, tinh thần của con người.
Khái niệm lễ phục cung đình triều Nguyễn
Lễ phục cung đình triều Nguyễn là loại trang phục được mặc
trong những buổi lễ và mặc theo quy định nghiêm ngặt của triều đình,
với ý nghĩa là giá trị biểu tượng của một quốc gia. Mỗi loại lễ lại có
những quy định riêng phục vụ cho từng cấp bậc. Lễ phục gồm áo mặc


8
ngoài, mũ, giầy và các phụ kiện, trang sức. Lễ phục được trang trí cơng
phu, cầu kỳ đặc biệt là trên áo lễ. Nhìn vào lễ phục có thể xác định
được phẩm vị, thứ bậc của người mặc. Sử sách triều Nguyễn đều ghi
nhận lễ hội cung đình ở Huế xưa kia đều là những cuộc lễ mang tính
quốc gia, do nhà nước Trung ương thực hiện.
Khái niệm nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 1945) là sự kết hợp chặt chẽ của các yếu tố trang trí như mật độ, hình
tượng, hoa văn, màu sắc được sắp đặt theo một quy chuẩn nghiêm ngặt
trên trang phục mặc lễ của triều đình Nguyễn. Qua đó khẳng định quyền
uy, thể hiện phẩm đức của người đứng đầu đất nước. Nghệ thuật trang
trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn tạo nên đặc điểm riêng biệt về
giá trị thẩm mỹ, văn hóa, lịch sử triều đại giai đoạn 1802 - 1945.
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
1.2.2.1. Thuyết tiếp biến văn hóa

Tiếp biến văn hóa được hiểu là quá trình thay đổi xã hội, tâm lý
và văn hóa từ việc pha trộn giữa các nền văn hóa với nhau. Ảnh hưởng
của nền văn hóa có thể thấy ở nhiều cấp độ khác nhau từ văn hóa bản
địa ban đầu và văn hóa du nhập. Tiếp biến văn hóa là sự tiếp thu văn
hóa một cách có chọn lọc hoặc cưỡng ép và biến đổi nó cho phù hợp
với sự thay đổi của xã hội. Áp dụng vào trường hợp cụ thể trong
nghiên cứu đề tài luận án để thấy được Nghệ thuật trang trí trên áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) ngồi kế thừa một phần
phong cách tạo hình trang trí trên áo lễ phục cung đình Việt Nam từ
các thời kỳ trước thì nhà Nguyễn không tránh khỏi việc tiếp thu một
cách hữu thức hay tham chước, mô phỏng theo lễ phục cung đình triều


9
Minh, Thanh - Trung Quốc; Quá trình tiếp biến văn hóa cịn được diễn
ra qua một số hình tượng, hoa văn - họa tiết trang trí trên áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn như hình tượng tứ linh (rồng, lân, rùa,
phượng), hoa văn vân mây, tam quan... và tiếp biến qua yếu tố màu
sắc trang phục.
1.2.2.2. Thuyết giải mã biểu tượng
Biểu tượng được coi là một công cụ để thể hiện những ước mơ,
khát vọng của con người. Nó cịn được so sánh với chức năng gây cảm
xúc. Vận dụng thuyết giải mã biểu tượng trong nghiên cứu Nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục thời Nguyễn (1802 – 1945) đặt trong bối cảnh
lịch sử và sự tác động của yếu tố mỹ thuật đương thời sẽ là bước đầu suy
diễn và giả định - suy luận, đồng thời cũng là cơ sở khoa học tìm hiểu ý
nghĩa của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục thời Nguyễn nói chung, các
hình tượng trang trí, tạo hình trang trí trên áo lễ phục nói riêng. Đó khơng
chỉ là những bộ trang phục mang chức năng sử dụng mặc thông thường
mà còn sản phẩm nghệ thuật của người xưa hàm chứa trong đó một kho

tàng văn hóa mà những người mặc lễ phục chính là trung tâm đại diện
phản chiếu những ý nghĩa về nhân sinh quan, thế giới quan, sự linh thiêng
của trời - đất và cả đức - tài trách nhiệm trên vai.
1.3. Khái quát về nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn (1802-1945)
1.3.1. Sự hình thành nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn (1802-1945)
1.3.1.1. Bối cảnh xã hội dưới triều Nguyễn
Về mặt lịch sử, bên cạnh việc thiết lập các chính sách thống trị
nhằm mục tiêu bình ổn và phát triển đất nước. Triều đình Nguyễn khơng
tránh khỏi những rào cản đã tồn tại từ những mâu thuẫn xã hội trước đó.


10
Về mặt tư tưởng - chính trị, triều đình Nguyễn thành lập và tồn tại
cho đến năm 1945. Hoàn cảnh xã hội thù trong giặc ngoài mà triều
Nguyễn bắt buộc phải đưa ra các quyết sách nhằm bình ổn lịng dân.
Triều Nguyễn đã lựa chọn tư tưởng Nho giáo để điều hành xã hội và
cai trị đất nước ở hai khía cạnh: sử dụng triết lý đạo đức để ràng buộc
con người vào mối quan hệ xã hội mang tính trật tự, đặc biệt là phát
triển giáo dục con người về lễ nghĩa, đạo tam cương ngũ thường và tư
tưởng “tâm linh huyền bí” qua tín ngưỡng thờ trời, thờ đất, thờ cúng
tổ tiên, thờ thần nông... đặc biệt tin vào “mệnh trời’ hay cịn gọi là
thiên mệnh, trong đó vua là con trời.
1.3.1.2. Văn hóa - nghệ thuật thời Nguyễn
Cùng với sự lớn mạnh về bộ máy chính trị, triều đình Nguyễn
ngồi những chính sách cai trị và an dân thì khơng qn xây dựng các
vùng kinh tế, sản xuất hàng hóa nhằm thúc đẩy sự phát triển đời sống
tinh thần của nhân dân trong xã hội. Hàng loạt các làng nghề thủ công
truyền thống như nghề thêu, dệt vải, mỹ nghệ, điêu khắc…được mở ra

để phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ và đời sống trong cung đình và nhân
dân. Các nghề thủ cơng đã góp phần làm nên diện mạo văn hóa triều
Nguyễn, in đậm trên các cơng trình kiến trúc vật thể, đời sống tâm
linh, trong đó có nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn. Với việc lấy mỹ thuật Nho giáo làm cơ sở cho thẩm mỹ nước
nhà, trung tâm là thẩm mỹ cung đình nên biểu hiện của các cơng trình
kiến trúc cho đến nội thất, lễ phục cung đình đều nhất quán về kiểu
thức tạo hình, hình tượng, hoa văn trang trí…
1.3.1.3. Sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa
Một trong những yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động quản lý,
học tập nghiên cứu ở Việt Nam cho đến ngày nay đó chính là hệ tư


11
tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Dưới triều Nguyễn tư tưởng Nho
giáo được sử dụng như một quốc giáo chính thống của tầng lớp giai cấp
thống trị và đặt nền mong cho tư tưởng thẩm mỹ nghệ thuật tại Huế.
Bên cạnh đó là ảnh hưởng về tư tưởng đế vương, với thẩm mỹ
cung đình tiêu biểu như mơ hình kiến trúc, nội thất và lễ phục cung
đình mang quy mơ hồnh tráng.
1.3.2. Khái qt lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945)
Lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) theo giới hạn về
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án được chia ra thành
ba loại: Áo đại triều phục, áo thường triều phục và áo lễ phục Nam
Giao. Trong đó theo quy định ban hành của nhà nước, áo đại triều phục
là lễ phục mặc trong các phiên đại triều, các lễ lớn tổ chức tại điện
Thái hòa và lễ kỵ Thái miếu, Thế miếu, được quy định rõ về phẩm
cấp, kiểu dáng, chất liệu vải, hoa văn…; áo thường triều phục là lễ
phục mặc trong phiên thường triều tại điện Cần Chánh và một số lễ tổ
chức tại Từ Cung, được quy định về phẩm cấp, kiểu dáng và bổ tử gắn

trên áo; áo lễ phục Nam Giao là lễ phục dùng trong lễ tế trời đất tại
đàn Nam Giao, hay còn gọi là áo Cổn, ngồi ra áo cịn được đi kèm
với cùng các phụ tùng khác (mũ miện, tế tất, xiêm, hia…)
1.3.2.1. Áo đại triều phục
Áo được quy định về phẩm cấp, áo vua gọi là áo Hoàng bào,
Hoàng thái tử mặc Mãng bào, quan trên nhất phẩm đến chánh tòng
tam phẩm mặc áo Mãng bào, quan hàng chánh tòng tứ phẩm đến ngũ
phẩm mặc áo Hoa bào (văn), Giao bào (võ), dưới ngũ phẩm mặc áo
bào trơn gắn bổ tử tùy theo phẩm bậc.
1.3.2.2. Thường triều phục
Áo thường triều phục được quy định rất chặt chẽ từ chất liệu đến


12
kiểu dáng, hoa văn trên trang phục theo phẩm trật, chức vụ từng người.
Xét về hình dáng và kết cấu của lễ phục thường triều có thể thấy sự phân
biệt rất lớn giữa trang phục vua quan và được quy định rất chặt chẽ từ
chất liệu đến kiểu dáng, hoa văn trên trang phục theo phẩm trật, chức
vụ từng người. Vua Nguyễn mặc Long bào; các hoàng thân, hoàng tử
và các quan đều mặc áo giao lãnh gắn bổ tử.
1.3.2.3. Lễ phục Nam Giao
Áo lễ phục Nam Giao là trang phục mặc theo quy định của quốc
gia. Triều Nguyễn quy định về áo tế Giao rất nghiêm ngặt. Áo mặc
theo kiểu nhà Đường, gọi chung là áo Cổn. Áo lễ của vua được gọi là
áo Long cổn. Hoàng thân, vương công, các quan từ tam phẩm trở lên
đều mặc áo cổn nhưng theo quy chế cổn - miện riêng.
Tiểu kết
Tựu chung lại, từ tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và
khái quát nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn ở
chương một sẽ là cơ sở cho việc phân tích nội dung và hình thức nghệ

thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn một cách hiệu quả
trong chương hai và chương ba đề tài luận án.
Chương 2
NHẬN DIỆN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ
PHỤC CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945)
2.1. Mật độ trang trí
“Mật độ trang trí thay đổi nhiều trung tâm, nhiều mức độ và nhiều
hướng chính là một cách thức tổ chức bề mặt thành không gian tạo hình.
Nó có ý nghĩa và tạo bố cục rõ rệt” [80, Tr.66]. Lễ phục cung đình triều
Nguyễn trang trí dày đặc ở trên áo và có phần “chống ngợp”. Mật độ
trang trí thể hiện bố cục đăng đối theo chiều dài áo, mặt trước - sau có


13
kiểu thức trang trí giống nhau và được chia thành hai phần: thân áo, tay
áo. Tùy vào phẩm cấp mà hình thức và chủ đề trang trí trên áo lễ phục
khác nhau, dẫn đến sự phân bổ mật độ trang trí trên áo khác nhau. Cách
sắp đặt hình tượng trang trí ở các vị trí khác nhau trên áo lễ phục đã tạo
ra hiệu quả nghệ thuật cho bộ lễ phục với ba tầng không gian thiên - địa nhân. Tầng thiên ln chiếm diện tích nhiều nhất trên áo, tầng địa nhân
bao giờ cũng nhỏ hơn và ở vị trí thấp nhất phần gấu áo, gấu tay áo.
2.1.1. Áo đại triều phục
Áo Hồng bào của vua triều Nguyễn có mật độ trang trí dày đặc
nhất trong các loại áo nhưng vẫn thấy được sự tách biệt của mảng
chính - phụ. Các hình tượng trang trí trên áo Hồng bào đều được thể
hiện theo thủ pháp đối lập, bên cạnh những vị trí mật độ họa tiết dày
đặc như tổ hợp các họa tiết ở phần trung tâm áo, gấu áo, tay áo là
những mảng trống; cạnh những họa tiết phức tạp như hình rồng là
những họa tiết đơn giản như chùm mây, sóng, tam sơn, mang phần mỹ
cảm của thị giác vào trọng tâm là hình tượng rồng trên thân áo. Xung
quanh cũng được xen kẽ bởi những chùm mây. Việc sắp đặt hình

tượng và mật độ trang trí như trên đã nhấn mạnh vai trì của vua
Nguyễn. Áo là biểu tượng của không gian bao trùm cả trời đất, mặc
áo đó vua sẽ được nhập vào khơng gian của thánh thần, là thiên tử,
mang uy lực, thay mặt trời đem sinh khí vơ lượng chảy về trần
gian qua tam sơn, ngọn núi vũ trụ gạch nối giữa trời và đất, con
đường đi về của thần linh và của sinh lực.
Mãng bào Hồng thái tử phân bố hình tượng trang trí tương tự
như áo Hồng bào của vua. Song, đi vào chi tiết lại thấy có sự phân
biệt tương đối rõ về mật độ trang trí từ các mảng hình chính, hình trung
tâm, hình tam sơn - thủy ba trên thân áo, cánh tay áo đều được giản


14
lược hơn so với áo Hồng bào vua Nguyễn. Đó chính là một tín hiệu
nhận biết rõ hơn về địa vị người mặc.
Mãng bào quan đại thần có thể thấy cách sắp đặt các mảng hình
theo ba tầng đem lại hiệu quả về chính phụ, trong đó hình tượng mãng
đơn (rồng 4 móng) chiếm vị trí trên cao nhất của áo, trung tâm của áo,
xung quanh là ba linh vật (phượng, lân, rùa) chầu về. Ngoài ra, với
phương pháp sử dụng các đường nét, thủ thuật tạo hình trên các hình
tượng trang trí đã tạo ra nhịp điệu của bộ lễ phục. Một không gian với
ba cõi nhân sinh gồm chim trên trời, hoa dưới đất và sóng dưới nước
hiện lên một cách sống động.
Hoa bào, Giao bào có mật độ trang trí tương đối giống nhau, dàn
trải khắp cả áo bởi các cụm hình tượng hoa văn dạng trịn, sắp đặt hàng
hàng lối, đăng đối trên thân áo và tay áo.
2.1.2. Áo thường triều phục
Áo Long bào dàn trải khắp cả áo bởi các hình tượng rồng dạng
trịn, sắp đặt hàng hàng lối trên thân áo và tay áo; phần gấu áo, gấu tay
với mật độ dày đặc của hình tượng tam sơn thủy ba. Đây cũng chính

là điểm khác biệt giữa mật độ trang trí của áo thường triều của vua và
các loại áo lễ khác.
Áo bổ phục các quan cũng phân bố mật độ tương tự như áo vua
chỉ khác về đề tài hoa văn dạng tròn. Các hoa văn trên áo được thiết
kế kiểu dệt chìm đã làm tăng hiệu quả thẩm mỹ cho hình tượng bổ tử
gắn trên ngực áo. Đồng thời thấy rõ địa vị người mặc, làm tôn lên
thường triều phục của vua.
2.1.3. Áo lễ phục Nam Giao của vua triều Nguyễn
Áo có sự khác biệt lớn so với các áo lễ khác với các chủ đề chứa
đựng yếu tố linh thiêng (tế trời và tế đất). Mật độ trang trí trên áo


15
không dày đặc như trên áo lễ đại triều và thường triều, mà chủ yếu tập
trung phần thân trên của áo và tay áo.
2.2. Hình tượng trang trí
2.2.1. Hình tượng tứ linh
2.2.2.1. Hình tượng rồng
Sử dụng trong hầu hết các bộ lễ phục triều Nguyễn, rồng năm
móng được sử dụng cho lễ phục của vua, rồng bốn móng (mãng) được
sử dụng trong lễ phục của quan và được đặt ở vị trí trung tâm của áo
lễ với ba dạng đồ án chính là rồng đơn, rồng dạng trịn và rồng chầu.
Về tạo hình, rồng trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn tuy vẫn giữ
được sự mềm mại, uyển chuyển theo mạch chung về hình rồng của các
thời kỳ phong kiến Việt Nam trước đây nhưng cũng đã thay đổi nhiều
chi tiết phong phú hơn về kiểu dáng tạo tác. Đặc biệt là hình tượng
rồng thời Nguyễn được đưa lên tất cả các lễ phục của cả vua và quan
chỉ phân biệt bằng số lượng móng đã chứng tỏ quan điểm thẩm mỹ
riêng của triều đình nhà Nguyễn trong việc phân định thứ bậc khác
biệt so với các vương triều khác

2.2.2.2. Hình tượng phượng
Hình tượng chim phượng được trang trí trên áo lễ phục của hoàng
hậu, hoàng thái hậu, hậu phi mà còn đưa vào trang phục tế lễ của vua,
mãng bào của các quan đại thần được thể hiện trên trang phục dưới
dạng dạng đồ án song phượng tề phi. Về tạo hình chung, chim phượng
triều Nguyễn vẫn giữ kiểu đầu gà, mào to màu đỏ, cổ ngẩng cao đầy
kiêu hãnh. Chân phượng dài mảnh, có 4 móng, đang trong tư thế bay
lượn trên mây. Cánh phượng uốn cong dang rộng hai bên, được cách
điệu theo hình mảng. Phượng có bờm dài và chùm râu dưới cằm giống
như các thời kỳ trước. Bờm phượng thời Nguyễn lượn sóng kéo dài ra


16
phía sau chia thành bảy cụm, chùm râu cũng có hình dáng tương tự
như bờm phượng chia thành ba cụm, đầu vát nhọn. Thân phượng được
thể hiện tròn to và có lơng tỏa ra. Cách tạo hình chim phượng thời
Nguyễn được thể hiện trực tiếp trên áo lễ phục theo lối cách điệu, tỉ
mỉ, đường nét mạch lạc rõ ràng. Phượng thời Nguyễn có đặc trưng là ẩn
mây, bay cùng mây hay được kết hợp cùng bát bửu, hoa, quả...
2.2.2.3. Hình tượng kỳ lân
Hình tượng kỳ lân trong lễ phục triều Nguyễn thường được thể hiện
ở các dạng đồ án cặp đôi như đồ án kỳ lân chầu mặt trời trên áo Mãng bào
của các quan đại thần, đồ án đôi kỳ lân cắp đồng tiền trên áo Long bào
của vua triều Nguyễn hoặc ở dạng đồ án kỳ lân đơn như trên Bổ tử của
quan chánh tòng nhất phẩm và nhất phẩm ban võ. Về tạo hình, hình
tượng kỳ lân được cách điệu bằng những đường xốy chơn ốc đã
tạo ra sự phù hợp với khu vực sóng nước xung quanh. Ngồi kế
thừa tạo hình từ thời kỳ trước như thời Lê thì nhà Nguyễn cịn đưa vào đó
những đặc trưng riêng biệt như hình tượng kỳ lân ln gắn liền với bát
quái, cưỡi mây và có tia lửa.

2.2.2.4. Hình tượng rùa
Hình tượng rùa là một trong ba linh vật chầu về hình tượng rồng.
Trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, hình tượng rùa khơng xuất hiện
với kích thước lớn như các con linh vật khác và chỉ xuất hiện trên một số
áo của quan, trong đó có áo đại triều phục (Mãng bào) của quan đại thần
với kiểu thức đôi rùa ngậm dây lụa quấn hàm thư chầu về hình tượng rồng
giữa ngực. Đây cũng là một phần tính mới trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn mà từ trước giờ các triều đại khác khơng có.
2.2.2. Hình tượng tam sơn thủy ba trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn


17
Đồ án hoa văn “tam sơn - thủy ba” đều được đặt ở phần gấu áo
mặt trước và sau của trang phục. Tam sơn - thủy ba thời Nguyễn gồm
hai dạng bố cục: Dạng thứ nhất, tam sơn đứng độc lập phía trên, khơng
có vân mây bao bọc xung quanh, phía dưới là thủy ba, mây và cột sóng
cao. Dạng bố cục này được dùng trên áo lễ phục của vua, hồng hậu,
hồng thái tử, cơng chúa và hồng thái hậu; Bố cục thứ hai, hình tượng
tam sơn - thủy ba được xen lẫn với hoa văn vân. Lối bố cục này được
thể hiện bằng những đường nét mềm mại, chủ yếu là đường cong.
Dạng bố cục này được dùng trên áo lễ phục của các quan đại thần, phu
nhân trong triều.
2.2.3. Một số hình tượng, hoa văn khác
Trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, các hình tượng tứ linh,
tam sơn thủy ba được kết hợp cùng các bộ đề tài trang trí khác như
động vật (cá, dơi, bướm), thực vật (hoa, quả, cây), các hình tượng về
hiện tượng tự nhiên (tinh tú, mặt trăng, mặt trời), vẻ đẹp thiên nhiên
(núi, mây) hay những vật dụng hàng ngày (nghiên bút, kiếm, sách, bầu
rượu, bát quái, đồng tiền…).

2.3. Màu sắc
Màu sắc áo cung đình triều Nguyễn đều được quy định một cách
nghiêm ngặt phụ thuộc vào phẩm bậc.
Màu sắc trang trí đóng vai trị quan trọng tạo ra khơng gian của
áo. Đó là sự vận động của những màu cơ bản. Cường độ đối lập về
tông màu được thể hiện trên các áo lễ phục như vàng - xanh lơ (vua
Nguyễn), đỏ - vàng - xanh lơ (Hoàng thái tử); màu lục - cam (quan); màu
lam tím - hồng cam (quan); màu lam tím - cam (quan); xanh lam thẫm vàng - đỏ (áo tế lễ). Các cặp màu này có cung càng lớn trên vịng trịn
màu cơ bản thì tuyến vận động của màu sẽ càng lớn hơn tạo nên chiều


18
sâu về không gian, làm tăng hiệu quả thể hiện hình tượng trang trí trên áo.
Tạo ra cảm xúc mạnh mẽ, linh thiêng và sự uy quyền của một triều đại.
2.4. Chất liệu
Chất liệu được sử dụng chính vẫn là vải gấm, vải sa bên trong lót
lụa trơn hoặc lụa vân. Bên cạnh đó được sử dụng một số vật liệu tạo
hình trang trí như kim tuyến, hạt sa, ngọc.
2.5. Kỹ thuật trang trí
Đa phần trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn đều sử dụng
những hình thức thêu, dệt cài bơng và đính sa lấp lánh. Phản ánh
khả năng sáng tạo cùng tư duy tạo hình khoa học của người “nghệ
sĩ” xưa. Đặc biệt là sự phối hợp giữa các thể loại, từng bộ đề tài,
hình tượng trang trí trên áo lễ phục đã tạo nên một không gian đầy
quyền lực, tôn ti, trật tự.
Tiểu kết
Thông qua biểu hiện của các yếu tố mật độ trang trí, hình tượng,
màu sắc, hình tượng đã tạo ra một khơng gian nghệ thuật với tương
quan thẩm mỹ thị giác chính là những áo lễ phục triều Nguyễn được
đặt trong các nghi lễ khác nhau. Là cơ sở cho NCS rút ra được đặc

điểm riêng biệt của mỹ thuật triều Nguyễn, những giá trị nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn ở chương ba.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN
ÁO LỄ PHỤC CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802-1945)
3.1. Đặc điểm nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn (1802-1945)
3.1.1. Bố cục trang trí trên lễ phục cung đình triều Nguyễn
Bố cục trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn có dạng


19
thức đăng đối qua trục dọc của cơ thể người (chiều dài của áo). Mặt
sau và mặt trước áo có kiểu thức trang trí giống nhau. Hình tượng, họa
tiết trang trí được sắp đặt dàn trải trên áo lễ phục áo dài, thường chia
làm ba phần chính: phần vai & cánh tay; phần thân áo và phần gấu áo.
Điểm nhấn trang trí bao giờ cũng được đặt ở phần thân áo (giữa ngực
và sau lưng). Qua hình tượng quy định trên áo lễ có thể thấy rõ được
địa vị người mặc và cách chia không gian áo (thiên - địa - nhân).
3.1.2. Hình tượng trang trí, biểu tượng của những ước vọng
Các hình tượng chính tiêu biểu được thể hiện xun suốt trên áo lễ
phục đó là hình tượng tứ linh (rồng, phượng lân, rùa), hình tượng tam sơn
thủy ba và một số hình tượng bổ tử. Hình tượng kết hợp như mây, quả
lôi, tinh tú, nhật - nguyệt, trữ triện, hoa quả, bát bửu... với ý nghĩa là cát
tường và là biểu tượng cho sự trường tồn vĩnh cửu của một đất nước. Đây
cũng chính là đặc điểm nổi bật được thể hiện qua nghệ thuật trang trí
có sự hịa quyện tinh tế giữa hình thức và nội dung như một thông điệp
truyền tải tới nhận thức một cảm xúc chân thực nhất, góp phần làm
nên dấu ấn của mỹ thuật cung đình Huế.
3.1.3. Màu sắc là biểu tượng của sự vận hành vũ trụ

Tư tưởng Nho giáo độc tôn đã đem lại một dấu ấn riêng biệt trong
phong cách biểu hiện nghệ thuật trang trí đặc biệt là màu sắc. Với
những triết lý về Nho giáo, triều Nguyễn đã thể hiện một tư tưởng vũ
trụ thông qua biểu hiện của màu sắc lễ phục. Một điểm nhấn tiêu biểu
trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn.
3.1.4. Yếu tố tam giáo trong nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn
Triều Nguyễn lấy tư tưởng Nho để làm khuôn mẫu xây dựng đất
nước nhưng các kiểu thức, tạo hình trang trí tạo hình trang trí trên áo


20
lễ phục cung đình triều Nguyễn lại phản ánh sự ảnh hưởng của yếu tố
của Phật giáo và Đạo giáo như hình tượng tứ linh, hình tượng tam
sơn… Có lẽ xuất phát từ căn nguyên cơ bản là nhà Nguyễn vẫn kế
thừa kỹ thuật thể hiện tạo tác của hình tượng trang trí từ những thời kỳ
trước và những hình tượng trang trí trên áo lễ phục đó đều được thực
hiện từ chính bàn tay, óc sáng tạo của những người thợ thêu xuất phát
từ những vùng quê trên khắp cả nước quy tụ về.
3.2. Giá trị nghệ thuật
3.2.1. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn, một mảnh ghép hoàn hảo tạo nên diện mạo của mỹ thuật
cung đình triều Nguyễn
Đó là một bức trang cung đình Huế được xây dựng nên từ những
quy định nghiêm ngặt của nhà nước về tư tưởng, lề lối, thứ bậc thơng
qua các đề tài trang trí, màu sắc và mật độ trang trí dày đặc.
3.2.2. Vị trí của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn trong hệ thống nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục
cung đình Việt Nam
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn một

phần vẫn giữ được mạch nguồn tạo hình truyền thống từ các thời kỳ
trước, một phần đã thể hiện một quan điểm thẩm mỹ riêng và mang
yếu tố linh thiêng.
3.2.3. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
tạo nên tính khác biệt trong sự phát triển của nền mỹ thuật cổ
Về mặt hình thức, các đề tài trang trí được thêu trên áo vẫn mang
tính truyền thống ở chỗ áo thêu khá dày trong một “không gian” thể
hiện được quy định chặt chẽ “không thừa không thiếu” tạo nên một
bố cục hồn chỉnh giữa đề tài chính và đề tài phụ, có sự thống nhất


21
về cách sắp đặt hình tượng. Về mặt kỹ thuật, nó được làm khá đặc
kín tuy nhiên, cái đặc kín thời Nguyễn khơng phải đặc kín của thời
trước mang ý nghĩa đồng hiện với nhiều đề tài khác nhau trong một
bảng chạm, thiếu cái “khoảng không tư tưởng” như Trung Hoa mà ít
nhiều cũng thấy nghệ thuật thế kỷ XVIII, XIX của nước ta mới
thoáng thể hiện. Thời Mạc, Lê Trung Hưng là đồng hiện rất nhiều đề
tài trên một khoảng khơng gian chung và khơng có ranh giới. Các
chủ đề trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn đều là kết quả
của những ước vọng con người trong xã hội đó. Đó chính là đặc điểm
nổi bật được thể hiện qua nghệ thuật trang trí hịa quyện tinh tế giữa
hình thức và nội dung như một thơng điệp truyền tải tới nhận thức
một cảm xúc chân thực nhất góp phần làm nên dấu ấn riêng của mỹ
thuật cung đình Huế.
3.3. Giá trị lịch sử, văn hóa
3.3.1. Giá trị lịch sử
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn phản
ánh tinh thần triều đại nhà Nguyễn, đó tư tưởng Nho giáo được áp đặt
vào tất cả các sản phẩm mỹ thuật Huế bao gồm nghệ thuật trang trí trên

áo lễ phục cung đình triều Nguyễn. Hệ tư tưởng đó lại khơng phải là học
thuyết triết học và chính trị - xã hội mà mang màu sắc của hệ tư tưởng
“duy tâm thần bí” với quan niệm về đạo “trời” và trách nhiệm của cả triều
đình đối với trời ln là sự kính sợ, tn theo như “kính thiên”, “thuận
thiên” và “tế thiên”. Bên cạnh đó là việc đề cao “đất” để mong cầu sự che
trở của cả “trời” và “đất” do quan niệm “trời sinh đất dưỡng”, “âm dương
hịa hợp”.
3.3.2. Giá trị văn hóa
3.3.2.1. Khẳng định quyền uy


22
Nhà Nguyễn, với một chế độ phong kiến trung ương tập quyền,
đã tạo dựng, khẳng định quyền uy của một đất nước khơng chỉ qua
những lời nói, mà cịn bằng những hành động được biểu hiện qua
nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình. Những biểu hiện
quyền uy đó được thể hiện bằng những quy định chặt chẽ về chủ đề
trang trí trên từng loại lễ phục giữa nhà nước đối với nhân dân, giữa
người đứng đầu triều đình với quan đại thần. Phân định mối quan
hệ theo từng phẩm trật khác nhau trong một thể chế.
3.3.2.2. Thể hiện phẩm đức
Các hình tượng trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn đều đề cao
phẩm đức của người mặc thơng qua những hình tượng linh thiêng thần bí
hay những hình tượng mang đầy ý nghĩa của sự tốt đẹp và tri thức. Các
hình tượng đều được sắp xếp theo quy luật về trật tự xã hội có trên - dưới:
giữa trời và đất, giữa người mặc có địa vị cao nhất là vua và các quan đại
thần. Qua nghệ thuật trang trí để truyền tải nội dung, đặc biệt với việc sử
dụng các yếu tố hình tượng trang trí linh thiêng tôn quý đã cho thấy một
nhà nước đề cao trật tự xã hội thông qua giáo dục và đạo đức.
Tiểu kết

Chương ba là cơ sở cho việc nhìn nhận về đặc trưng của nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945). Đồng thời
qua những biểu hiện về nội dung và thẩm mỹ của triều Nguyễn để thấy
được giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật của đề tài luận án.
KẾT LUẬN
1. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802
- 1945) là một di sản văn hóa tiêu biểu của triều đại nhà Nguyễn, góp
phần làm phong phú thêm sắc thái mỹ thuật cung đình Huế nói riêng, nền
mỹ thuật Việt Nam.


23
2. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn ra đời
dựa trên những quan điểm, tư tưởng của một triều đại phong kiến lấy Nho
giáo làm nền tảng, là biểu tượng của khát vọng về mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ, giữa con người với đời sống xã hội, về nguyên tắc đạo
đức, lễ giáo đẳng cấp, tôn ti trất tự.
3. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn được
thể hiện ở sự phân bổ mật độ trang trí trên áo, tạo ra một không gian đầy
linh thiêng với ba tầng thiên - địa - nhân, trong đó tầng trời được chiếm
diện tích nhiều nhất, đúng với tín ngưỡng vũ trụ trong Nho giáo. Hình
tượng rồng chiếm diện tích lớn nhất và được đặt ở trung tâm thân áo (ngực
và lưng) cũng nói lên tính chất qn chủ chun chế, mọi quyền hành tập
trung vào tay vua. Bên cạnh đó là những hình tượng khác mang những
nét gần gũi với cuộc sống như con rơi, hoa quả, lá, cây cảnh (quả bầu, trái
lựu) ...chứa đựng những mong muốn rất giản dị như con đàn cháu đống
hay những đồ vật gần gũi đời thường như nghiên mực, bút, sách... thể
hiện của những con người có tri thức
4. Từ sử liệu và hiện vật còn được lưu giữ đã cho thấy tạo hình trang
trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn vừa mang yếu tố thần quyền,

vừa kế thừa từ mạch nguồn dân tộc. Bố cục của đồ án tạo ấn tượng làm
bật lên chủ đề tư tưởng, những nguyên tắc về đạo đức lễ giáo mà khơng
bị gị bó cứng nhắc, mang được tính thẩm mỹ trong nhịp điệu, hình khối,
mảng, nét, cả hình thái vật thể và phi vật thể tạo nên một dấu ấn đặc thù
về tinh thần thời đại và giá trị riêng của đỉnh cao nghệ thuật trang trí thêu
thủ cơng mỹ nghệ cuối thế kỷ XIX cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
5. Sự sắp đặt về màu sắc trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
trên cơ sở thuyết âm dương ngũ hành của triết lý phương Đơng được đưa
vào trang trí trên mỗi loại áo phù hợp với những quy định về thứ bậc của


×