Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Lỗi cố ý trong bộ luật hình sự việt nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THANH HÀ

LỖI CỐ Ý TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
NĂM 2015, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THANH HÀ

LỖI CỐ Ý TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
NĂM 2015, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐỖ THANH HÀ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các sơ đồ

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
LỖI CỐ Ý ............................................................................................ 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và cơ sở của lỗi cố ý trong luật hình sự ........ 9

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của lỗi cố ý ......................................................... 9

1.1.2. Cơ sở của lỗi cố ý trong luật hình sự ................................................. 11
1.2.

Các hình thức lỗi cố ý theo quy định của bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 ...................................................... 14

1.2.1. Lỗi cố ý trực tiếp ................................................................................... 14
1.2.2. Lỗi cố ý gián tiếp ................................................................................ 23
1.3.

Phân biệt lỗi cố ý với lỗi vơ ý trong luật hình sự ........................... 30

1.4.

Quy định về lỗi cố ý trong luật hình sự của một số nƣớc trên
thế giới ............................................................................................... 31

Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ LỖI CỐ Ý Ở NƢỚC TA HIỆN NAY .................... 34
2.1.

Những kết quả đã đạt đƣợc ............................................................. 34

2.1.1. Trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về lỗi cố ý
trong việc định tội danh, định khung hình phạt đối với tội phạm
gây hậu quả chết người ...................................................................... 34
2.1.2. Trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về lỗi cố ý
trong việc định tội danh, định khung hình phạt đối với tội phạm
gây thiệt hại cho sức khỏe .................................................................. 40



2.1.3. Việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về lỗi cố ý đối với
tội phạm gây hậu quả thiệt hại về tài sản ........................................... 49
2.1.4. Việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về lỗi cố ý trong
đối với người phạm tội hiếp dâm ....................................................... 51
2.2.
Một số tồn tại, hạn chế ..................................................................... 56
2.2.1. Trong việc áp dụng các quy định chung về lỗi cố ý trong việc
xây dựng các quy định về tội phạm và hình phạt trong phần các
tội phạm của bộ luật hình sự .............................................................. 56
2.3.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế....................................... 59
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP
DỤNG CHẾ ĐỊNH VỀ LỖI CỐ Ý TRONG HOẠT ĐỘNG
TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ...................................... 62
3.1.

Tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về lỗi
cố ý trong pháp luật hình sự hiện hành ......................................... 62

Tiếp tục xây dựng, hồn thiện các quy định của pháp luật
hình sự về lỗi cố ý ............................................................................. 62
3.2.1. Xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về lỗi
cố ý trong các quy định về tội phạm và hình phạt trong phần các
tội phạm của bộ luật hình sự .............................................................. 62
3.2.2. Xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về lỗi
cố ý trong việc định tội danh, định khung hình phạt ......................... 64
3.2.

Nâng cao trình độ, nhận thức về lỗi cố ý của đội ngũ cán bộ

làm công tác tiến hành tố tụng ........................................................ 71
3.4.
Các giải pháp khác ........................................................................... 73
3.4.1. Tăng cường tuyên truyền pháp luật.................................................... 73
3.4.2. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự .................................................. 74
3.4.3. Tăng cường phối hợp giữa các đơn vị, các cấp, các ngành có liên
quan trong quá tình giải quyết vụ án hình sự ..................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
3.3.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Cụm từ viết tăt

Cụm từ đầy đủ

BLHS:

Bộ luật hình sự

CAND:

Cơng an nhân dân

CTTP:

Cấu thành tội phạm


TAND:

Tịa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên sơ đồ

Trang

Sơ đồ 1.1

Về lỗi cố ý trực tiếp

15

Sơ đồ 1.2


Về lỗi cố ý gián tiếp

24


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên đề tài
Trách nhiệm do lỗi là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong luật
hình sự Việt Nam. Một người chỉ bị coi là tội phạm khi họ thực hiện hành vi
nguy hiểm được quy định trong Bộ luật hình sự một cách có lỗi, đây là yếu tố
thuộc mặt chủ quan của tội phạm, phản ánh tính chất mức độ nguy hiểm của
hành vi và sự nguy hiểm của người phạm tội. Lỗi giúp chúng ta nhận thức
được, tội phạm không những là kết quả của những hành vi vi phạm pháp luật
hình sự, mà cịn là hậu quả của những thái độ, những nhận thức chưa phù hợp
với chuẩn mực xã hội. Việc coi yếu tố lỗi là một trong những cơ sở của trách
nhiệm hình sự là một sự tôn trọng và đánh giá đầy đủ nhân cách, phẩm giá
của người phạm tội. Trong pháp luật hình sự của chúng ta, con người là một
chủ thể có ý thức và lý trí, nghĩa là con người có thể nhận thức được những sự
vật hiện tượng xảy ra ngoài thế giới khách quan, có thể tự hiểu được và điều
chỉnh được nhận thức và hành vi của mình, do đó có khả năng lựa chọn cách
ứng xử và hành động của mình, nên phải chịu trách nhiệm với những lựa chọn
và cách ứng xử đó. Như vậy, yếu tố lỗi trong pháp luật hình sự khơng chỉ
mang tính pháp lý, mà cịn thể hiện cơ sở đạo đức, văn hóa và văn minh trong
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội.
Việc coi nguyên tắc không có lỗi thì khơng có tội, tội ln đi đơi với
lỗi trong pháp luật hình sự hiện hành cịn góp phần thúc đẩy việc tự bảo vệ
của mỗi người dân và khuyến khích tồn dân tham gia vào cơng tác đấu
tranh phịng chống tội phạm, xuất phát từ đó mà bộ luật hình sự các thời kỳ
đều giành một chương quy định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự mặc dù các trường hợp đó gây ra những thiệt hại đáng kể cho xã hội,

nhưng họ khơng có lỗi, cụ thể như trường hợp gây thiệt hại khi phòng vệ

1


chính đáng, gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội, gây thiệt hại trong tình
thế cấp thiết…
Như vậy, lỗi có một vai trị rất quan trọng, đặc biệt là lỗi cố ý, với bản
chất là dấu hiệu của tội phạm, ở một phương diện nào đó, yếu tố lỗi cho phép
các cơ quan chức năng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
nhận diện được đâu là hành vi phạm tội, và quyết định người thực hiện hành
vi đó có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Tuy nhiên, lỗi cũng là một
chế định vô cùng phức tạp, trong nhiều trường hợp cụ thể, khó có thể đánh giá
và nhận diện được người phạm tội có lỗi hay khơng có lỗi và nếu có thuộc
hình thức lỗi nào? trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự vẫn cịn nhiều
quan điểm khác nhau, ảnh hưởng khơng nhỏ đến cơng cuộc đấu tranh phịng
chống tội phạm.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và
toàn diện về chế định lỗi, đặc biệt là hình thức lỗi cố ý trong luật hình sự hiện
hành là rất cần thiết, khơng chỉ đáp ứng những đòi hỏi về lý luận và thực tiễn
mà cịn có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý và xã hội. Góp phần thống nhất
nhận thức trong việc áp dụng và hồn thiện pháp luật hình sự, trong giai đoạn
hiện nay. Do đó, tơi chọn và nghiên cứu đề tài: “Lỗi cố ý trong Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Yếu tố lỗi nói chung, và hình thức lỗi cố ý đã được quy định lần đầu
tiên trong BLHS năm 1985, Sau khi BLHS năm 1985 ra đời đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu; sách chun khảo, sách tham khảo, giáo trình; các bài viết
trên các tạp chí chuyên ngành; các luận văn nghiên cứu, đề cập trực tiếp hoặc
gián tiếp về các vấn đề liên quan đến lỗi cố ý, của nhiều tác giả, dưới nhiều

hình thức và góc độ khác nhau, trong đó phải kể tới các cơng trình tiêu biểu
mà luận văn đã tìm hiểu tham khảo như sau:

2


Có thể kể tên một số Sách chuyên khảo để cập đến lỗi cố ý trong luật
hình sự Việt Nam, đáng chú ý như: Lê Cảm (2000), các nghiên cứu chuyên
khảo về Phần chung luật hình sự, Tập III, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội; Uông Chu Lưu (chủ biên), Bình luận khoa học bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999, tập I Phần chung, Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 2001;
Vấn đề lỗi cố ý, cũng được nghiên cứu đề cập trong một số giáo trình
tại các cơ sở đào tạo luật như: Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội; Lê Cảm
(Chủ Biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường đại học kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo
trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung)… Tuy nhiên các cơng trình
nghiên cứu này đều nghiên cứu chế định lỗi cố ý dưới góc độ lý luận khoa
học chung, chưa có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu các quy định của pháp
luật hình sự về lỗi cố ý.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết, bài báo khoa học, một số cơng trình
nghiên cứu chun sâu có liên quan đến yếu tố lỗi trong luật hình sự Việt
Nam tiêu biểu như: Lê cảm (2004), Lý luận về cấu thành tội phạm trong khoa
học luật hình sự,Tạp chí luật học số 2/2004; Hoàng Thị Cẩm Vân (2015), Mặt
chủ quan của tội phạm trong luật hình sự việt nam, luận văn thạc sỹ luật học,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Nhuần (2011), Lỗi cố ý
trong luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học

Quốc gia Hà Nội; Vũ Thùy Lâm (2011), Mặt chủ quan của tội phạm với tư
cách là một yếu tố cấu thành tội phạm, luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật
Đại học Quốc gia Hà Nội …

3


Như vậy, đã có một số cơng trình đề cập đến các vấn đề có liên quan
đến chế định lỗi cố ý theo quy định của bộ luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống và đồng
bộ về vấn đề luận văn nghiên cứu, đặc biệt là trong bối cảnh bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 mới có hiệu lực pháp luật. Do vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “Lỗi cố ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017”, vẫn là một nội dung mang tính mới và đáp ứng yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích tổng quát của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống,
chuyên sâu về lỗi cố ý trong pháp luật hình sự Việt nam; nắm rõ được lý luận
về các hình thức lỗi, các dạng lỗi để phân biệt được chúng trong từng trường
hợp cụ thể. Đánh giá khái quát việc áp dụng các quy định về lỗi cố ý trong
hoạt động xây dựng các quy định trong phần tội phạm của bộ luật hình sự và
trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự ở nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra
các kiến giải để hồn thiện các quy định và nhận thức về lỗi cố ý và nâng cao
hiệu quả việc áp dụng các quy định đó trên thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn tập trung thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, phân tích rõ nội dung lý luận về lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt
Nam như: khái niệm, cơ sở, vai trị của nó (lỗi cố ý);

Hai là, nghiên cứu quy định của luật hình sự của nước ta về lỗi cố ý, và
phân biệt nó với các hình thức lỗi khác.
Ba là, nghiên cứu quy định về lỗi cố ý trong luật hình sự của một số
nước trên thế giới và rút ra một số điểm phù hợp để học hỏi vận dựng hoàn
thiện lỗi cố ý trong pháp luật hình sự của nước ta.

4


Bốn là, nghiên cứu tổng quát phần tội phạm của Bộ luật hình sự hiện
hành và các bản án trên thực tiễn để phân tích việc áp dụng các quy định
chung về lỗi cố ý trong việc xây dựng các quy định về từng tội danh và hình
phạt trong phần các tội phạm của bộ luật hình sự; và trong thực tiễn việc
định tội danh và định khung hình phạt khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối
chủ thể phạm tội.
Năm là, chỉ ra một số hạn chế, tồn tại, và nguyên nhân của một số hạn
chế tồn tại của quá trình vận dung quy định chung về lỗi cố ý vào việc xây
dựng quy định về từng tội danh cụ thể trong phần tội phạm và trong quá
trình áp dụng pháp luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ
thể phạm tội.
Sáu là, đưa ra các kiến giải để hoàn thiện các định về lỗi cố ý trong bộ
luật hình sự và nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định đó trên thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào các nội dung sau:
- Lỗi cố ý trong Phần chung của bộ luật hình sự việt Nam năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017, và trong các bộ luật hình sự trước đó.
- Việc áp dụng lỗi cố ý trong Phần chung của bộ luật hình sự, để xây
dựng các quy định về từng tội danh trong phần tội phạm của bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Thực tiễn áp dụng lỗi cố ý trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với chủ thể phạm tội, cụ thể là nghiên cứu quá trình điều tra, truy tố,
xét xử một số vụ án được lựa chọn ngẫu nhiên trên cả nước.
Luận văn tập trung nghiên cứu chế định lỗi đặc biệt là lỗi cố ý, với tính
chất là một yếu tố khơng thể thiếu trong mặt chủ quan của cấu thành tội
phạm, dưới góc độ của pháp luật hình sự; thực tiễn áp dụng hình thức lỗi này

5


trong xây dựng các quy định về tội phạm cụ thể và trong hoạt động định tội
danh, định khung hình phạt đối với những chủ thể phạm các tội danh quy định
trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chế định lỗi cố ý theo quy định của bộ luật hình sự Việt Nam năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, dưới góc độ của luật hình sự. Bên cạnh đó,
để hiểu rõ cơ sở của lỗi, và cơ chế hình thành hành vi phạm tội, luận văn cũng
nghiên cứu một số nội dung trong tâm lý học tội phạm.
Về không gian và thời gian, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ luật
học, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc xây dựng và áp dụng các quy định
của pháp luật hình sự về lỗi cố ý trên lãnh thể Việt Nam, và thực tiễn việc áp
dụng hình thức lỗi cố ý trong hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối một
số vụ án được lựa chọn ngẫu nhiên trên cả nước trong những năm gần đây từ
năm 2014 đến năm 2018. Bên cạnh đó, để có đánh giá tổng quát, đầy đủ về
yếu tố lỗi cố ý trong pháp luật hình sự Việt Nam, luận văn cũng tìm hiểu, so
sánh với quy định về lỗi cố ý trong luật hình sự một số nước trên thế giới.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Về cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu nội dung luận văn, dựa cơ sở lý luận của chủ nghĩa

duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin;
tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân,
cụ thể là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm cũng như đường
lối xử lý tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, tác giải đã sử dụng các phương
6


pháp nghiên cứu chung, cũng như các phương pháp nghiên cứu đặc thù đối
với ngành luật hình sự, cụ thể là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp lịch sử
Phương pháp thống kê, đánh giá dựa trên số liệu thực tế về điều tra,
truy tố, xét xử một số vụ án hình sự trên địa bàn cả nước và một số phương
pháp khác…
6. Đóng góp mới của luận văn
Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học ở cấp độ thạc sĩ tiếp cận có tính
hệ thống, toàn diện và tương đối sâu sắc về các quy định của pháp luật hình
sự về lỗi cố ý, đề tài có những đóng góp mới sau:
- Luận văn đã phân tích một cách tương đối có hệ thống và toàn diện
những vấn đề lý luận về chế định lỗi, đặc biệt là lỗi cố ý như: khái niệm, cơ
chế hình thành hành vi phạm tội, cơ sở của lỗi, phân biệt các hình thức lỗi;
- Phân tích, làm rõ được những quy định về lỗi cố ý trong bộ luật hình
sự hiện hành, thống nhất một số cách hiểu và áp dụng các quy định này trên
thực tiễn;
- Chỉ ra được một số bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự

về lỗi cố ý;
- Đánh giá toàn diện, tổng quát về thực trạng áp dụng các quy định về
lỗi cố ý dưới góc độ về quy định pháp luật, và thực tiễn áp dụng trong hoạt
động truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Về mặt thực tiễn luận văn góp phần thống nhất một số cách hiểu và áp
dụng đúng đắn chế định lỗi cố ý trong trường hợp cụ thể, trong thực tiễn đấu
tranh, xử lý tội phạm.

7


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung của pháp luật hình sự Việt Nam về lỗi cố ý
Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về lỗi cố ý
trong bộ luật hình sự ở nước ta hiện nay.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng chế định về
lỗi cố ý trong hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự.

8


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ LỖI CỐ Ý
1.1. Khái niệm, đặc điểm và cơ sở của lỗi cố ý trong luật hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của lỗi cố ý
Tùy vào từng lĩnh vực và hồn cảnh cụ thể mà thuật ngữ lỗi có nhiều
cách hiểu và định nghĩa khác nhau. Trong với lĩnh vực kỹ thuật thì lỗi là chỗ
sai sót do khơng thực hiện đúng kỹ thuật, lỗi thường được dùng nhiều ở góc

độ đạo đức, ở phương diện này lỗi được hiểu là “điều sai sót, khơng nên,
khơng phải trong cách cư xử, trong hành động [25]. Trong tâm lý học pháp lý
cho rằng, một người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt
hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự lựa chọn và quyết định của
chủ thể, trong khi có đủ điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp
với đòi hỏi của xã hội [32, tr.52]. Ở góc độ pháp lý, trong mỗi ngành luật
cũng có định nghĩa về lỗi khác nhau, mà tiêu biểu là trong hai lĩnh vực khoa
học luật lớn là khoa học luật hình sự và khoa học luật dân sự; trong khoa học
luật dân sự, lỗi là điều kiện để những người không thực hiện nghĩa vụ, hoặc
thực hiện không đúng không đầy đủ nghĩa vụ, cũng như những người đã gây
thiệt hại về vật chất phải chịu trách nhiệm dân sự. Trong luật dân sự, lỗi cũng
có thể có hai hình thức là lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý, thơng thường nếu khơng có
lỗi sẽ khơng có trách nhiệm dân sự, người nào khơng thực hiện nghĩa vụ của
mình, hoặc đã cố ý gây thiệt hại (lỗi cố ý), hoặc có thể tránh khỏi thiệt hại
nhưng do thiếu sự quan tâm cần thiết và khơng phịng xa (lỗi vơ ý), bị coi là
có lỗi trong dân sự [60, tr.240]. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, cũng có
nhiều quan điểm khác nhau về lỗi, tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu đều cho
rằng lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội do người đó thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành

9


vi đó được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý [54, tr.120]. Có tác giả
định nghĩa: khi thực hiện tội phạm, lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội
đối với hành vi và hậu quả của hành vi đó, biểu hiện dưới hình thức: cố ý
phạm tội và vô ý phạm tội. Trong trường hợp cùng thực hiện một hành vi
phạm tội, mức độ nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội tùy thuộc vào
hình thức lỗi của người đó. Phạm tội do cố ý mang tính chất nguy hiểm cho
xã hội lớn hơn, do đó phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn so với phạm

tội do vô ý [28, tr.121-122].
Trong phạm vi luận văn này nghiên cứu chế định lỗi cố ý dưới góc độ
pháp luật hình sự, từ các quan điểm về lỗi nêu trên ở góc độ này, theo tác giả
luận văn có thể đưa ra khái niệm về lỗi cố ý như sau: Lỗi cố ý là hành vi của
một người khi đặt trong các trường hợp và hoàn cảnh cụ thể, trong trạng thái
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy
hiểm do hành vi đó gây ra, mặc dù có khả năng và có đầy đủ điều kiện lựa
chọn một hành vi xử sự khác ít nguy hiểm cho xã hội hơn, nhưng vẫn chọn
hành vi xử sự đó”. Như vậy từ định nghĩa này có thể rút ra các đặc điểm cơ
bản của lỗi cố ý trong khoa học hình sự như sau:
- Về bản chất, lỗi cố ý thuộc mặt chủ quan, là phạm trù thuộc ý thức
của người phạm tội. Phản ánh thái độ và cách xử sự của con người. Là sản
phẩm của quá trình phản ánh của con người trước những gì xảy ra bên ngoài
thế giới khách quan, đang tác động đến họ.
- Về hình thức biểu hiện, lỗi cố ý được biểu hiện ra bên ngoài, được
mọi người đánh giá, nhận biết thông qua việc chủ thể thực hiện các hành vi
khách quan, trong đó có các hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong
các quy định của bộ luật hình sự, và các hành vi biểu hiện thái độ của mình
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình thực hiện và đối với hậu quả
do hành vi đó gây ra. Ví dụ: Nếu một người đánh một người xong, bóp cổ cho

10


tới khi kiểm tra chắc chắn người đó khơng cịn thở mới bỏ đi, thể hiện ý thức
mong muốn cho người đó chết, nghĩa là mong muốn cho hậu quả chết người
xảy ra. Để đánh giá được thái độ này, chúng ta căn cứ vào các hàng loạt các
hành vi của người phạm tội, như hành vi bóp cổ, hành vi kiểm tra hơi thở xem
người đó cịn thở nữa không, hành vi kiểm tra mạch đập xem người bị bóp cổ
có cịn sống hay đã chết rồi mới bỏ đi…

- Yếu tố lỗi cố ý mang tính chủ thể và gắn liền với mỗi chủ thể nhất
định, nghĩa là để đánh giá một người là có lỗi cố ý hay không phải phụ thuộc
vào chủ thể thực hiện các hành vi phạm tội có khả năng nhận thức và điều
khiển được hành vi của mình hay khơng. Vì bản chất của lỗi cố ý là thái độ, là
phản ứng của con người trước một hiện tượng, sự vật khách quan.
- Yếu tố lỗi cố ý mang tính hồn cảnh và phải phụ thuộc vào hoàn cảnh
để đánh giá. Cụ thể, nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
hồn cảnh có khả năng lựa chọn được cách xử sự khác, mà vẫn lựa chọn cách
xử sự gây nguy hiểm cho xã hội thì người đó được coi là có lỗi cố ý. Hồn
cảnh khách quan cịn phụ thuộc vào định kiến xã hội vào hoàn cảnh, điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi thời kỳ, mà xã hội quy định những chuẩn mực
cư xử trong mỗi hồn cảnh khác nhau.
- Lỗi cố ý ln được thể hiện trên các mặt lý trí và ý chí. Lý trí, thể
hiện khả năng nhận thức của một người đối với những yêu cầu đòi hỏi của xã
hội khi thực hiện một hành vi nhất định. Ý chí, thể hiện khả năng lựa chọn
điều khiển hành vi của một người, khi thực hiện hành vi nào đó, trên cơ sở
khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình [54, tr.120].
1.1.2. Cơ sở của lỗi cố ý trong luật hình sự
- Căn cứ vào khả năng nhân thức và điều khiển hành vi của người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại của mình,

11


nếu người đó nhận thức được hành vi gây thiệt của mình và có đầy đủ khả
năng, điều kiện khách quan, chủ quan để lựa chọn cách ứng xử khác phù hợp
với đòi hỏi của xã hội. Nghĩa là trường hợp người đó có lỗi cố ý. Lỗi cố ý là
thái độ của một người đối với hành vi của mình và với hậu quả do hành vi đó
gây ra. Con người phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình, nếu hành vi đó

con người có thể nhận thức và kiểm soát được. Nếu một người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trong hồn cảnh họ khơng nhận thức được hành vi
của mình hoặc nhận thức được nhưng khơng có khả năng điều khiển hay khả
năng lựa chọn cách ứng xử khác thì khơng phải chịu trách nhiệm với hành vi
đó. Do đó, ta thấy rằng, khơng thể nói đến trách nhiệm nếu thiếu đi khả năng
tự lựa chọn cách ứng xử, cách hành động của mỗi người.
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các khách thể
được luật hình sự bảo vệ” [46]. Theo đó, hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
một chủ thể thực hiện bị coi là tội phạm không chỉ đơn thuần là những hành
vi nguy hiểm thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan phù hợp với mơ tả
trong quy định của bộ luật hình sự, mà cịn do người đó đã có lỗi khi thực hiện
hành vi nguy hiểm đó. Mặc dù các hành vi ấy có nhiều sự chi phối, tác động
của hồn cảnh khách quan, nhưng đó cịn là kết quả của sự lựa chọn cách ứng
xử của chủ thể tội phạm, là sự phủ định đòi hỏi chung của xã hội. Những phản
ánh của con người đối với các sự vật, hiện tượng, hoàn cảnh bên ngoài thế giới
khách quan, đều được xử lý bằng hàng loạt quá trình thụ cảm, nhận thức và
quyết định hành động trong não bộ con người. Bản chất của hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà người đó thực hiện, cũng là sản phẩm của ý thức, của quá trình
phản ánh những hiện tượng, sự vật bên ngồi thế giới khách quan tác động vào
họ. Vì “tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông

12


qua đầu óc họ…” [35, tr.78]. “Con người khi hành động khơng phải chỉ nhắm
mắt thụ động, để cho hồn cảnh khách quan lơi kéo… mà cịn có tự do tương
đối…” [16, tr.339]. Xuất phát từ những căn cứ này, luật hình sự Việt Nam
khơng chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là chỉ đánh giá nhìn nhận hành

vi khách quan để truy cứu trách nhiệm hình sự, mà phải căn cứ vào khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể tội phạm và thái độ của họ đối với
hành vi và với hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện.
- Xuất phát từ mục đích của trách nhiệm hình sự và hình phạt
Việc xác định, yếu tố lỗi là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với chủ thể phạm tội, cịn xuất phát từ mục đích, ý nghĩa của luật hình sự,
trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Việc áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với chủ thể phạm tội
không chỉ nhằm trừng trị họ, mà trên hết là nhằm giáo dục và cải tạo người
phạm tội, để họ có ý thức tuân theo pháp luật và ứng xử theo các chuẩn mực
của xã hội. do đó luật hình sự đã quy định “mục đích của hình phạt khơng chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội mà cịn nhằm giáo dục họ trở thành người có
ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã
hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới…” [46]. Do đó, nếu trách nhiệm
hình sự và hình phạt được đem áp dụng với một người khơng có khả năng
nhận thức hoặc khơng có khả năng điều khiển hành vi, thì mục đích của hình
phạt và của trách nhiệm hình sự sẽ khơng đạt được, Thậm chí là tàn nhẫn, vơ
nhân đạo. Do vậy, pháp luật cũng như đạo lý của Việt Nam không cho phép
kết tội đối với người khơng có khả năng nhận thức hoặc điều khiển được hành
vi của mình như người dưới 14 tuổi, người bị mất khả năng nhận thức, hoặc
khả năng điều khiển hành vi… Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo Luật
hình sự Việt nam khơng chỉ đơn thuần vì họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được mơ tả trong luật hình sự, mà cịn vì họ có lỗi đối với việc
thực hiện hành vi ấy.
13


- Xuất phát từ hoàn cảnh, diễn biến của hành vi nguy hiểm cho xã hội,
người thực hiện hành vi phạm tội phải có sự lựa chọn khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội

Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà họ lựa chọn là kết quả của sự tự do lựa chọn khi có đủ điều
kiện chủ quan và khách quan. Như vậy bên cạnh việc người phạm tội có khả
năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình là yếu tố đủ, thì cịn cần
phải được đặt trong hoàn cảnh, điều kiện khách quan cho phép người đó có
khả năng lựa chọn một cách ứng xử khác ít gây thiệt hại hơn, phù hợp với yêu
cầu địi hỏi của xã hội hơn, nhưng người đó khơng lựa chọn thì họ mới phải
chịu trách nhiệm hình sự. Các xử xử của con người đều chịu tác động qua lại
giữa những điều kiện khách quan của kinh tế xã hội với các điều kiện chủ
quan trong con người như ý thức, nhận thức xã hội từ đó mỗi người có cách
phản ứng, lựa chọn các cư xử khác nhau. Do đó hai yếu tố khách quan và chủ
quan ln có mối quan hệ khăng khít với nhau, cần phải được đánh giá, phân
tích sáng tỏ làm cơ sở để nhận định một người có lỗi cố ý hay không, bởi lẽ
“mọi sự tác động của hiện tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi
các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác động” [22, tr.270].
1.2. Các hình thức lỗi cố ý theo quy định của bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
Lỗi cố ý là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Theo quy
định của luật hình sự hiện hành lỗi hình thức là lỗi cố ý và vơ ý, lỗi cố ý bao
gồm hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp được quy định tại điều 10
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1.2.1. Lỗi cố ý trực tiếp
Cố ý trực tiếp là trường hợp “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của

14


mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xảy ra” [46]. Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu
quả xảy ra.
Nhận thức được hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội
Lý trí (nhận
thức được)

Nhận thức được hậu quả nguy
hiểm cho xã hội sẽ xảy ra

Cố ý
Trực tiếp
Ý Chí
(mong muốn)

Mong muốn
(cho hậu quả xảy ra)

Sơ đồ 1.1: Về lỗi cố ý trực tiếp
Về lý trí: Đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ, đầy
đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ xảy
ra nếu thực hiện hành vi đó. Hai mặt này tuy được qui định tưởng như độc lập
trong khái niệm đưa ra, nhưng thực ra nhìn từ góc độ tâm lý học cũng như
pháp lý, chúng có mối liên hệ vô cùng mật thiết với nhau.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại cho mối quan hệ
xã hội nào đó, người phạm tội chỉ có thể nhận thức được hành vi của mình có
tính chất nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở thấy trước được hậu quả có hại mà.
hành vi đó gây ra. Rõ ràng hai mặt nhận thức này tồn tại song song và tác
động qua lại (có mối quan hệ biện chứng) lẫn nhau.

Trong thực tế, trong từng trường hợp cụ thể, mỗi người phạm tội cụ thể
(tuỳ theo hoàn cảnh cụ phạm tội, hành vi phạm tội và trình độ nhận thức của

15


chính người đó…) thấy trước khả năng xảy ra hậu quả của hành vi gây ra ở
mức độ khác nhau. Đó là sự nhận thức các tình tiết khách quan tạo nên tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Việc thấy hậu quả là sự dự kiến của người
phạm tội về sự phát triển của hành vi. Đối với các tội phạm có cấu thành tội
phạm vật chất, hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc. Vì vậy, sự dự kiến
này có thể là dự kiến hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra. Trong trường hợp các tội
phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì vấn đề thấy trước hay không thấy
trước hậu quả không được đặt ra. Nếu hậu quả là tình tiết định khung trong
cấu thành tội phạm tăng nặng thì việc khẳng định người phạm lỗi cố ý trực
tiếp cũng phải đòi hỏi người phạm tội thấy trước được hậu quả.
Đối với các trường hợp phạm tội cố ý, người phạm tội thấy trước hậu
quả thực tế do hành vi mình gây ra. Điều đó có nghĩa là người phạm tội thấy
trước rằng hành vi của mình cụ thể trong trường hợp này (chứ khơng phải
hành vi tương tự trong hồn cảnh tương tự) sẽ dẫn đến hậu quả nguy hại và
như vậy hành vi đó có tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Trường hợp người phạm tội thấy trước là hành vi của mình tất yếu sẽ
gây ra hậu quả nguy hại thì có thể khẳng định được rằng chủ thể phạm tội do
cố ý trực tiếp. Nghĩa là: hành động phạm tội là hành vi có ý thức, tức là thể
hiện nhận thức và ý chí của chủ thể. Ý chí của hoạt động tâm lý con người
luôn luôn được xuất phát từ nhận thức, con người quyết định hành động trên
cơ sở nhận thức đó. Ngược lại, ý chí cũng tác động tích cực lên mặt nhận thức
trong q trình hành động.
Người cố ý trực tiếp phạm tội là người mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi
là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của mình và hậu quả của

hành vi đó. Vì vậy, khái niệm mong muốn phải là khái niệm pháp lý dựa trên
cơ sở tâm lý chứ không phải là khái niệm thơng thường. Từ góc độ tâm lý mà
nói: người phạm tội khơng thể nói là khơng mong muốn hậu quả khi chính

16


mình nhận thức được rằng hậu quả tất yếu sẽ xảy ra mà vẫn quyết định hành
động. Người ta chỉ nói, mong muốn hay khơng mong muốn một cái gì đó có
thể đến, có thể khơng, cịn cái chắc chắn sẽ đến và nó là do kết quả của hành
vi mình, ý chí mình thì đó là cái mong muốn đối với người có hành vi đó. Ví
dụ: A khơng thể nói khơng muốn B chết khi chính y xơ B từ gác năm xuống
đất. Hay, N khơng thể nói khơng muốn M chết khi chính y bắn một loạn đạn
AK vào M ở cự ly vài ba mét.
Vấn đề này cũng đã được Toà án nhân dân Tối cao khẳng định trong
bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người: mặc dù khơng có
dấu hiệu gì là muốn giết người từ trước, nhưng trong quá trình hành động, can
phạm biết rằng hành vi của y tất nhiên phải làm nạn nhân chết mà cứ làm,
phải định tội là giết người (với hình thức cố ý trực tiếp) [41, tr.329]. Ở các tội
có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc cho
nên người cố ý trực tiếp phạm tội khơng những nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình mà ngay khi thực hiện hành vi cũng đã
thấy trước được hậu quả của nó.
Thấy trước hậu quả của hành vi là sự dự kiến của người phạm tội về sự
phát triển của hành vi. Người phạm tội có thể dự kiến hành vi tất nhiên sẽ gây
ra hậu quả hoặc dự kiến hành vi có thể gây ra hậu quả. Điều cần chú ý là:
- Hành vi phạm tội luôn phải là hành vi được thực hiện. Bởi chỉ khi
hành vi nguy hiểm được thực hiện chúng ta mới xem xét lỗi của người thực
hiện hành vi. Nói nhận thức là nói nhận thức của chủ thể về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi, còn thấy trước là thấy trước hậu quả nguy hiểm

cho xã hội mà hành vi nguy hiểm sẽ gây ra hoặc có thể gây ra. Việc thấy
trước hậu quả là kết quả của việc nhận thức được hành vi trên cơ sở nhận thức
biểu hiện khách quan của hành vi cũng như những tình tiết có liên quan đến
hành vi đã thực hiện như cơng cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn

17


cảnh, địa điểm thực hiện tội phạm, đặc điểm của đối tượng tác động của tội
phạm… Hậu quả của tội phạm là sự thực hiện hoá của hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Hậu quả là cái có sau hành vi, là cái dự kiến, cái kéo theo của hành vi
nguy hiểm cho nên chỉ có thể là thấy trước (thực chất là sự dự kiến, hình dung
hay mường tượng, liên tưởng) của chủ thể về hậu quả khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Nói đến nhận thức bao giờ cũng là nhận thức về thực
tại khách quan, cịn thấy trước là sự suy đốn có căn cứ về diễn biến tương lai
của sự việc. Và ngược lại, để đoán định, biết được, thấy được cái tương lai thì
phải nhận thức được cái hiện tại, hiện thời.
Trong qui định tại Điều 10 Bộ luật hình sự đã khơng nói đến việc chủ
thể mong muốn thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chỉ nói mong
muốn hậu quả nguy hiểm. Hậu quả nguy hiểm và hệ quả là kết quả trực tiếp
của hành vi nguy hiểm, để hậu quả phát sinh, hậu quả hiện diện trong thực tế
thì khơng cịn cách nào khác là chủ thể phải thực hiện hành vi. Do vậy, khi
chủ thể mong muốn hậu quả thì tất nhiên họ phải mong muốn thực hiện hành
vi. Chính vì vậy, Điều 10 Bộ luật hình sự đã khơng nói đến vấn đề này. Ở các
tội có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc,
do vậy, vấn đề có thấy trước hay khơng thấy trước hậu quả khơng được đặt ra
khi xem xét lý trí của người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm chỉ có một dấu
hiệu của mặt khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm là dấu hiệu
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong cấu thành tội phạm hình thức khơng có

dấu hiệu hậu quả cũng như quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu
quả nguy hiểm cho xã hội. Do đặc điểm của cấu thành tội phạm hình thức như
vậy mà quan hệ tâm lý của người phạm tội với các dấu hiệu của tội phạm có
cấu thành tội phạm hình thức có điểm khác nhau căn bản so với tội phạm có
cấu thành tội phạm vật chất.

18


×