Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thoát vị đĩa đệm vùng cột sống thắt lưng cùng tại bệnh viện đa khoa trung ương thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 75 trang )

1
..

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị đĩa đệm vùng cột sống thắt lưng-cùng là bệnh lý hay gặp,
nguyên nhân chủ yếu gây đau cột sống thắt lưng và dây thần kinh hông to.
Thoát vị đĩa đệm là hậu quả của bệnh lý thối hóa xương sụn cột sống, chấn
thương hoặc khơng rõ nguyên nhân. Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng
(TVĐĐCSTL) chiếm tỷ lệ 63-73% trong tổng số đau cột sống thắt lưng
(CSTL). Có từ 80-85% trường hợp đau dây thần kinh tọa là do bệnh lý của
TVĐĐCSTL [8]. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng phần lớn xảy ra ở độ tuổi
lao động làm ảnh hưởng đến khả năng lao động và chất lượng cuộc sống. Do
đặc điểm sinh hoạt, nghề nghiệp, cường độ lao động thay đổi mà cột sống
phải chịu sức nặng quá mức nhất thời, hoặc chịu sự đè ép kéo dài trong những
tư thế khơng bình thường: gấp quá mức, ưỡn quá mức, xoắn vặn .v.v. kết hợp
với q trình thối hóa của đĩa đệm dẫn tới đĩa đệm sẽ thóat ra ngồi vị trí gây
ra bệnh lý thóat vị đĩa đệm. Thốt vị đĩa đệm có thể xảy ra ở bất kỳ vị trí nào
của cột sống nhưng do đặc thù về cấu tạo giải phẫu, tải trọng và mức độ hoạt
động của cột sống vùng thắt lưng-cùng mà ta nhận thấy thoát vị đĩa đệm hay
xảy ra ở vùng này [20, 24].
Ở Mỹ, hàng năm có khoảng 1% dân số bị thốt vị đĩa đệm thắt lưng và
trong đó có khoảng 10-12% phải phẫu thuật (Trích [26]).
Ở Pháp, theo nghiên cứu của Gilbert Dechambenoit tỷ lệ bệnh khoảng
50-100/100.000 dân hàng năm (Trích [26])
Ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê đầy đủ nhưng đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về thốt vị đĩa đệm đã được các tác giả Nguyễn Thường
Xuân, Phạm Gia Triệu, Trần Quang Vũ công bố từ 1958. Tiếp sau là các
nghiên cứu về phương pháp chẩn đoán và điều trị thoát vị đĩa đệm của các tác
giả: Lê Xuân Trung (1965), Trần Mạnh Trí - Vũ Hùng Liên (1992 -2006), Bùi
Quang Tuyển (2007 – 2009).



2

Ngày nay nhờ có sự tiến bộ của y học, đặc biệt là các phương tiện chẩn
đoán bệnh TVĐĐCSTL như: chụp cắt lớp vi tính (CLVT), chụp cộng hưởng
từ (CHT), nhiều phương pháp điều trị được áp dụng, do đó thốt vị đĩa đệm
ngày càng được chẩn đốn chính xác và điều trị hiệu quả. Tùy theo giai đoạn
của bệnh mà có chỉ định phương pháp điều trị khác nhau, trong đó có chỉ định
phẫu thuật.
Tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương (ĐKTW) Thái Nguyên vấn đề ứng
dụng chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ đã giúp cho chẩn đốn chính xác
thốt vị đĩa đệm. Việc điều trị phẫu thuật đã thu được những kết quả khả
quan.
Để đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật và góp phần nâng cao hiệu quả
chẩn đốn hình ảnh, hiệu quả điều trị phẫu thuật bệnh lý thoát vị đĩa đệm
vùng cột sống thắt lưng - cùng tại Bệnh viện ĐKTW Thái Nguyên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thoát vị
đĩa đệm vùng cột sống thắt lƣng - cùng tại Bệnh viện Đa khoa Trung
ƣơng Thái Nguyên” nhằm mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh thốt vị đĩa đệm vùng cột sống
thắt lưng - cùng.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật thóat vị đĩa đệm vùng cột sống thắt
lưng - cùng.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu

1.1.1. Trên thế giới
Bệnh lý thốt vị đĩa đệm (TVĐĐ) đã có từ rất lâu, từ thời Hy Lạp cổ đại
người ta đã cho rằng đau thắt lưng là triệu trứng của bệnh, bệnh lý này chỉ
được nghiên cứu và công bố từ cuối thế kỷ XIX [26].
Năm 1555, Andreas Vesalius đã mô tả giải phẫu đĩa đệm.
Nghiên cứu của Virchow (1857) và Luschka (1858) đã nói đến sự gây
đau khi đĩa đệm thốt ra phía sau.
Năm 1919, Oppênheim và Kause lần đầu tiên mổ thành công 1 trường
hợp TVĐĐ nhưng lại cho rằng tổ chức đĩa đệm là “u sụn”.
Từ năm 1925 - 1951, Schmorld G. nêu lên hiện tượng TVĐĐ vào thân
đốt sống và đưa ra thuật ngữ “thoát vị đĩa đệm” lần đầu tiên vào năm 1929 và
được dùng cho đến ngày nay.
Năm 1934, Mixter W.J. và Barr J.S. đã tổng hợp đầy đủ các triệu chứng
lâm sàng và giải phẫu bệnh và đưa ra các chỉ định phẫu thuật TVĐĐ.
Bệnh cảnh TVĐĐ dần được làm sáng tỏ, những năm 40 của thế kỷ XX,
Deseze L (Pháp) đã mô tả khá đầy đủ các triệu chứng của TVĐĐCSTL cùng: dấu hiệu cột sống, dấu hiệu bấm chuông, dấu hiệu định khu theo rễ thần
kinh…giúp chẩn đốn chính xác các tổn thương rễ thần kinh do TVĐĐ.
Những thập niên tiếp theo của thế kỷ 20, nghiên cứu của các tác giả:
Calliet. R (1980), Isam A. Awad (1992), Hymphrey S.C và Eck J.C (1999)
tiếp tục khẳng định đau thắt lưng có chèn ép rễ thần kinh hầu hết là do TVĐĐ
vùng thắt lưng.
Với sự tiến bộ vượt bậc của các phương tiện thăm khám chẩn đốn như
Xquang, cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ nên việc xác định TVĐĐ vùng CSTL cùng ngày càng chính xác và hiệu quả.


4

Bên cạnh những tiến bộ về chẩn đốn thì điều trị cũng không ngừng phát
triển, đặc biệt là những kỹ thuật mới trong điều trị phẫu thuật TVĐĐ. Phẫu
thuật TVĐĐ đã được tiến hành ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật thần kinh,

chấn thương chỉnh hình trên thế giới, với nhiều phương pháp phẫu thuật và kỹ
thuật mổ, sử dụng nhiều phương tiện từ đơn giản đến hiện đại.
Trong y văn có đề cập tới hai đường mổ chính là đường trước cột sống
ngoài phúc mạc và đường mổ phía sau [26]
Ngày nay chủ yếu áp dụng phương pháp phẫu thuật đường sau: cắt cung
sau, cắt nửa cung sau, mở cửa sổ xương hoặc chỉ cắt dây chằng vàng để lấy
thoát vị, bảo tồn dây chằng, giữ độ vững tối đa cho cột sống [26, 37, 45] .
Một số phương pháp hiện đại đã được áp dụng như: phương pháp lấy đĩa
đệm qua da bằng dụng cụ hút nhân nhầy của Onik G thông báo năm 1989
[51]. Phương pháp giảm áp đĩa đệm bằng laser của Choy năm 1986, Masashi
và Kanayama năm 1998. Phương pháp cắt đĩa đệm vi phẫu đã được Kêvin
Foley và Smith mô tả năm 1997. Năm 1999 Destandau J công bố kết quả lấy
đĩa đệm qua nội soi đạt kết quả tốt [26, 44].
1.1.2. Tại Việt Nam
Nguyễn Thường Xuân, Phạm Gia Triệu, Trần Quang Vỹ là những người
đầu tiên đã thông báo phẫu thuật 20 trường hợp TVĐĐ vùng thắt lưng cùng
vào năm 1958. Năm 1986 Hồ Hữu Lương nhận xét đặc điểm lâm sàng
TVĐĐCSTL đối chiếu với kết quả chụp bao rễ thần kinh cho thấy sự phù hợp
giữa triệu chứng lâm sàng với hình ảnh chụp bao rễ [23].
Năm 1995, Vũ Hùng Liên, Trần Mạnh Chí nhận xét kết quả xa trong
điều trị ngoại khoa 158 trường hợp TVĐĐ có kết quả tốt và cải thiện triệu
chứng rõ 86,5% [19].
Năm 1999, Nguyễn Văn Thông nhận xét kết quả điều trị 1390 trường
hợp đau thần kinh hông do TVĐĐ cột sống thắt lưng thể ra sau-sau bên giai
đoạn bán cấp và mãn tính đạt kết quả khá, tốt là 80% [34].


5

Năm 2002, Vũ Hùng Liên, Bùi Quang Tuyển đưa ra kết quả điều trị

ngoại khoa 2303 trường hợp TVĐĐ thắt lưng cùng tại viện Quân y 103 từ
1996-2002 [21].
Hiện nay, nhiều phương pháp mới được áp dụng trong điều trị TVĐĐ:
Laser, sóng Radio, vi phẫu thuật, nội soi, hoặc dùng hệ thống ống panh tách
cơ (Metrs)...
1.2. Giải phẫu, sinh lý, chức năng của cột sống thắt lƣng
1.2.1. Đặc điểm giải phẫu, sinh lý vùng cột sống thắt lƣng - cùng
Cột sống của con người là trụ cột của cơ thể, bao bọc và bảo vệ tuỷ sống.
người trưởng thành cột sống dài khoảng 60 - 70cm từ mặt dưới xương chẩm
tận hết ở xương cụt, nó bao gồm 33 - 35 đốt sống chia thành 5 đoạn:

Hình 1.1. Phân đoạn cột sống [9]
- Đoạn cột sống cổ gồm 7 đốt (C1 - C7) dài khoảng 12cm cong lõm ra sau.
- Đoạn sống ngực gồm 12 đốt (T1 - T12) dài 28cm cong lõm ra trước.


6

- Đoạn sống thắt lưng gồm 5 đốt (L1 - L5) dài khoảng 18cm lõm ra sau.
- Xương cùng gồm 5 đốt (S1 - S5) dính với nhau tạo thành một khối.
- Xương cụt gồm 4 - 6 đốt sống dính với nhau tạo nên một khối xương.
Đoạn cùng cụt bắt đầu từ khớp thắt lưng cùng tới đỉnh xương cụt dài khoảng
12cm cong lõm xuống dưới và ra trước.
1.2.1.1. Đặc điểm của đĩa đệm thắt lƣng
Đoạn CSTL có năm đốt sống từ L1 - L5 với bốn đĩa đệm thắt lưng và hai
đĩa đệm chuyển đoạn thắt lưng ngực và thắt lưng cùng, chiều cao của đĩa đệm
thay đổi theo từng đoạn cột sống. Người trưởng thành bình thường chiều cao
đĩa đệm đoạn cột sống cổ là 3mm, đoạn ngực 5mm, đoạn thắt lưng 9mm,
trong đó đĩa đệm L4- L5 cao nhất và đĩa đệm L5- S1 thấp hơn đĩa đệm L4-L5
khoảng 1/3 chiều cao. Đĩa đệm có cấu trúc đặc thù nằm trong khoang gian

đốt, tên của mỗi đĩa đệm được gọi theo tên của những đốt sống lân cận [25].
Do độ ưỡn của CSTL nên chiều cao đĩa đệm ở phía trước lớn hơn phía
sau. Đĩa đệm là một đĩa sụn sợi gồm hai phần: Phần chu vi là vòng sợi
(anulusfibrosus) và phần trung tâm là nhân nhầy (nucleus pulposus) [25].

1 - Nhân nhầy
2 - Vòng sợi
3 - Mảnh sụn trong

Hình 1.2. Cấu trúc đĩa đệm [27]
* Nhân nhầy
Có hình cầu hoặc hình bầu dục nằm trong vòng sợi ở khoảng 1/3 sau của
đĩa đệm chiếm khoảng 40% bề mặt cắt ngang của đĩa đệm. Đây là yếu tố


7

thuận lợi để TVĐĐ hay xảy ra ở phía sau. Khi vận động thì nhân nhầy sẽ
chuyển động dồn về phía đối diện đồng thời vịng sụn cũng bị giãn ra.
Nhân nhầy được cấu tạo bởi một màng liên kết hình thành những khoang
mắt lưới chứa chất cơ bản nhầy lỏng (thời kỳ bào thai khoảng tuần thứ 24) và
sau này chứa tổ chức keo nhầy mucoprotein. Với người trẻ tế bào này liên kết
với nhau rất chặt chẽ, còn ở người già tế bào của tổ chức nhân nhầy trở nên
lỏng lẻo. Nhờ khả năng dịch chuyển sinh lý vốn có của nhân nhầy và tính đàn
hồi của vịng sợi mà đĩa đệm thực hiện được chức năng làm hệ thống đệm
sinh học dễ thích nghi, có sức chịu đựng đối với các loại tải trọng tĩnh, động
của cột sống. Khi đĩa đệm bị thối hố vịng sợi bị rạn nứt, mất tính đàn hồi
thì nhân nhầy dễ dàng thốt ra khỏi giới hạn sinh lý [2, 24].
* Vịng sợi đĩa đệm
Được cấu tạo bởi những sợi sụn (fibro - cartilage) rất chắc và đàn hồi,

đan xen vào nhau kiểu xoắn ốc, tạo thành nhiều các vòng sợi chạy nối liền từ
mặt trên thân đốt này đến mặt dưới thân đốt kế tiếp ở trên. Bên cạnh đó nó
cịn được tăng cường thêm độ chắc bởi một dải sợi móc chặt vào xương gọi là
sợi Sharpey. Ở đoạn CSTL, phía sau và phía sau bên của vịng sợi chỉ được
cấu trúc bằng một số ít những bó sợi tương đối mảnh nên đây là điểm yếu
nhất của vòng sợi do vậy tạo điều kiện cho TVĐĐ xảy ra [28, 30, 33].
* Mâm sụn
Là cấu trúc thuộc về thân đốt sống, nhưng có liên quan đến chức năng
dinh dưỡng trực tiếp với đĩa đệm. Nó đảm bảo dinh dưỡng cho khoang gian
đốt nhờ lỗ sàng ở bề mặt thân đốt và lớp canxi dưới mâm sụn giúp vận
chuyển phần lớn những chất liệu chuyển hóa từ khoang tủy của thân đốt sống
theo kiểu khuyếch tán [28].
* Phân bố thần kinh, mạch máu đĩa đệm
Mạch máu nuôi dưỡng đĩa đệm rất nghèo nàn, chỉ có một số nhánh nhỏ ở
xung quanh vịng sợi, nhân nhầy được ni dưỡng chủ yếu bằng phương thức


8

khuếch tán. Các chất dinh dưỡng được vận chuyển từ khoang tuỷ của đốt sống
thông qua những lỗ sàng của bề mặt thân đốt sống và lớp canxi dưới mâm
sụn. Việc ni dưỡng này có thể bị ảnh hưởng khi khả năng thẩm thấu của đĩa
đệm yếu đi và bị tắc ở tuổi 20 – 30 [28, 32].

Thần kinh chi phối
Dây chằng dọc trước
Đĩa đệm
Dây chằng dọc sau

Hình 1.3. Tương quan đĩa đệm, dây chằng, thần kinh cảm giác [9]

1.2.1.2. Đặc điểm chức năng của đĩa đệm
Chức năng của đĩa đệm ngồi việc tạo hình dáng cột sống cịn có khả
năng hấp thụ, phân tán và dẫn truyền làm giảm nhẹ các chấn động tải trọng
dọc trục cột sống. Chức năng này được thực hiện chủ yếu nhờ áp lực thuỷ tĩnh
(áp lực trọng tải) và áp lực keo giữa khoảng trong và ngồi đĩa đệm. Đĩa đệm
của người cịn phải đảm bảo chức năng của cột sống trong điều kiện tĩnh.
Trên cơ sở của sức đàn hồi lớn, các đĩa đệm có khả năng “giảm xóc” làm
giảm nhẹ chấn thương. Ở đây nhân nhầy có chức năng như hịn bi trượt, đàn
hồi và căng phồng nên có khả năng linh động rất cao. Chức năng chủ yếu của
nhân nhầy là hấp thụ và phân tán áp lực tải trọng lên vòng sợi và mâm sụn,
đồng thời còn là điểm dựa linh hoạt giữa 2 thân đốt sống trong trạng thái tĩnh
và chuyển động [28, 37].


9

Lực tác động
Đĩa đệm

Phân tán lực.

Nhân nhầy

Hình 1.4. Cơ chế “giảm xóc” của đĩa đệm
1.2.1.3. Đặc điểm áp lực nội đĩa đệm CSTL
Với dáng đi thẳng đứng của con người, vùng CSTL thường xuyên phải
chịu tải trọng lớn. Tải trọng đó lại chỉ dồn nén trên một diện tích rất nhỏ tính
bằng cm2, cùng với sự thay đổi của phần trên cơ thể ra khỏi đường trục giữa
càng làm cho áp lực nội đĩa đệm tăng lên [32, 37].
Tất cả các nguyên nhân gây tăng áp lực nội đĩa đệm sẽ làm tăng q

trình thốt tán dịch thể, nếu kéo dài sẽ làm cho đĩa đệm dần thoái hoá.
1.2.1.4. Đặc điểm của lỗ liên hợp (lỗ liên đốt, tiếp hợp)
Các lỗ liên hợp đoạn CSTL được giới hạn ở phía trước bởi một phần của
hai thân đốt sống kế cận và đĩa đệm. Các cuống cung của hai đốt sống kế tiếp
tạo thành cạnh trên và cạnh dưới của lỗ. Giới hạn ở phía sau của lỗ liên đốt là
các diện khớp của các khớp nhỏ đốt sống, cho nên những thay đổi tư thế diện
khớp và các khớp đốt sống có thể làm hẹp lỗ liên đốt từ phía sau. Nhìn chung
thì các lỗ ghép đều ngang mức với đĩa đệm, trong lỗ liên đốt có dây thần kinh
sống chạy qua.


10

Khuyết sống trên

Lỗ tiếp hợp

Dây chằng dọc trước

Khuyết sống dưới

Đĩa đệm L4-L5

Gai sau
Gai ngang

Đốt sống L5
Rễ thần kinh L5

Hình 1.5. Lỗ gian đốt sống và liên quan giữa đĩa đệm và khớp đốt sống[27]

Bình thường đường kính của lỗ liên đốt to gấp 5-6 lần đường kính của
đoạn rễ thần kinh xuyên qua lỗ. Các tư thế ưỡn và nghiêng lưng về bên làm
giảm đường kính của lỗ ghép. Khi đĩa đệm bị lồi hay thốt vị về phía bên sẽ
làm hẹp lỗ liên đốt, chèn ép dây thần kinh sống gây đau. Riêng lỗ liên đốt
sống thắt lưng cùng là đặc biệt nhỏ do tư thế của khe khớp đốt sống ở đây lại
nằm ở mặt phẳng đứng ngang chứ không ở mặt phẳng đứng dọc như ở đoạn
từ L1 - L4. Do đó những biến đổi ở diện khớp và tư thế của khớp đốt sống có
thể gây hẹp lỗ liên đốt, đó là lý do giải thích vì sao tỷ lệ đau rễ L5 cao nhất ở
vùng CSTL - cùng [28, 39].
1.2.1.5. Đặc điểm các khớp đốt sống
Các khớp đốt sống là các khớp thực thụ, có diện khớp là sụn trong, bao
hoạt dịch, hoạt dịch và bao khớp. Bao khớp và đĩa đệm đều cùng đơn vị chức


11

năng thống nhất, có liên quan chặt chẽ với nhau. Do vị trí của khớp đốt sống ở
hướng đứng thẳng dọc, các diện khớp luôn đối diện nhau nên CSTL có khả
năng chuyển động theo chiều trước sau trong chừng mực nhất định. Ở tư thế
ưỡn và cúi lưng, các diện khớp cũng chuyển động theo hướng dọc thân. Sự
tăng áp lực cũng như sự giảm áp lực cơ học lên đĩa đệm sẽ làm tăng hoặc
giảm trọng lực cho bao khớp và tăng hoặc giảm độ rộng của khoang gian đốt
sống. Vì vậy đĩa đệm và khớp đốt sống đều có khả năng chống lại tất cả các
động lực mạnh theo phương cách đàn hồi. Cho nên khi bị chấn thương mạnh
thường bị gãy đốt sống trước khi đĩa đệm và khớp đốt sống bị tổn thương.
Khi đĩa đệm bị thoái hoá hoặc thoát vị, chiều cao khoảng gian đốt sẽ giảm
gây trùng lỏng các khớp đốt sống, dẫn tới xơ lệch vị trí của khớp. Từ đó làm
nhanh q trình thối hố khớp đốt sống và xuất hiện đau cột sống [14, 37].
1.2.1.6. Các dây chằng cột sống thắt lƣng
* Dây chằng dọc trước

Trông như một dải rộng, phủ mặt trước thân đốt sống và phần bụng của
vòng sợi đĩa đệm từ đốt sống cổ thứ nhất đến xương cùng. Những sợi trong
cùng hồ lẫn với vịng sợi trải từ thân đốt sống này qua đĩa đệm đến thân đốt
sống kế cận. Các sợi này cố định đĩa đệm vào bờ trước thân đốt sống, còn các
sợi mỏng trải trên các thân đốt và cố định các thân đốt với nhau.
* Dây chằng dọc sau
Nằm ở mặt sau của thân đốt sống từ cổ thứ hai đến xương cùng. Dây này
dính chặt vào vịng sợi nên khó bóc tách và dính chặt vào bờ thân xương, khi
tới thân đốt sống thắt lưng dây chằng này chỉ còn là một dải mỏng, nhỏ,
khơng hồn tồn phủ kín giới hạn sau của đĩa đệm. Như vậy phần sau bên của
đĩa đệm được tự do nên TVĐĐ thường xẩy ra nhiều ở vùng này. Phần bên
của dây chằng dọc sau bám vào màng xương của các cuống, cung, thân đốt
khi các sợi này bị căng ra do đĩa đệm lồi ra sau, có thể xuất hiện triệu chứng
đau, nhưng chính là đau từ màng xương.


12

Hình 1.6. Các dây chằng cột sống thắt lưng[27]
* Dây chằng bao khớp
Bao quanh khớp giữa khớp trên và khớp dưới của hai đốt sống kế cận.
Khi vận động quá tầm những dây chằng này sẽ giãn ra để cho các diện khớp
trượt lên nhau và giữ cho khớp được vững.
* Dây chằng vàng
Được tạo nên bởi các sợi thuộc mơ đàn hồi có màu vàng. Phủ ở phần sau
của ống sống, bám từ cung đốt này đến cung đốt khác và tạo nên một bức
vách thẳng ở phía sau ống sống để che chở cho tuỷ sống và các rễ thần kinh.
Dây chằng vàng có tính đàn hồi cao, khi cột sống cử động nó góp phần kéo
cột sống trở về ngun vị trí.
Theo Bùi Quang Tuyển sự phì đại của dây chằng vàng cũng gây đau rễ

thần kinh thắt lưng cùng do đó cần chẩn đốn phân biệt với TVĐĐ [36].
* Dây chằng trên gai và dây chằng liên gai sống
Có chức năng liên kết các mỏm gai với nhau. Dây chằng trên gai mỏng
chạy qua đỉnh các gai sống góp phần làm vững chắc phần sau đoạn vận động


13

khi đứng thẳng và khi gấp cột sống tối đa. Vì vậy trong phẫu thuật cần giữ gìn
các dây chằng này.
1.2.1.7. Đặc điểm ống sống thắt lƣng
Ống sống thắt lưng được giới hạn ở phía trước bởi thân đốt sống và các
đĩa đệm, phía sau bởi dây chằng vàng và các cung đốt sống, bên cạnh là các
cuống vòng cung và lỗ liên kết. Trong ống sống thắt lưng có bao màng cứng,
rễ thần kinh và tổ chức quanh màng cứng (động mạch, tĩnh mạch, tổ chức
mỡ). Vì vậy các rễ thần kinh không bị chèn ép bởỉ các thành xương của ống
sống, kể cả khi vận động CSTL tới biên độ lớn.
Bình thường lỗ ống sống ở đoạn L1 - L2 có hình ba cạnh và khá cao (1422mm0, ở L3- L5 hình 5 cạnh (13-20mm).
Đường kính ngang của ống sống trung bình là 21mm, đường kính trước
sau trung bình là 19mm đo trên phim chụm CT Scanner.
Sự thay đổi độ rộng của ống sống thắt lưng có ý nghĩa lớn trong cơ chế
bệnh sinh chứng đau thắt lưng cùng, đau thần kinh hông do bệnh lý hẹp ống
sống thắt lưng [3, 27].
1.2.1.8. Liên quan giữa rễ thần kinh với đĩa đệm trong ống sống thắt
lƣng.
Dây thần kinh tuỷ sống là một dây hỗn hợp bao gồm nhánh vận động,
cảm giác và giao cảm. Sau khi chui ra khỏi lỗ gian đốt nó chia thành nhánh
trước và nhánh sau. Nhánh trước phân bố vào phần trước cơ thể và tứ chi.
Nhánh sau phân bố cho các vùng da tương ứng, các cơ vùng lưng và có
những nhánh tận cùng đi tới bao khớp. Đĩa đệm của người khơng có các sợi

thần kinh mà chỉ có những nhánh tận cùng của rễ thần kinh giao cảm nằm ở
những lớp ngoài cùng của vịng sợi sau dây chằng dọc sau.
Hình dạng và thể tích của ống sống có thể thay đổi theo tư thế và vận
động của cột sống. Đây là một khoang quan trọng vì bên trong có chứa tuỷ
sống, rễ thần kinh và dịch não tuỷ, tuỷ sống dừng lại ở ngang đốt sống L2 gọi


14

là nón cùng, song các rễ thần kinh lại tiếp tục chạy xuống và ra ngoài qua các
lỗ ghép tương ứng. Vì vậy mà các rễ thần kinh phải đi qua một đoạn dài trong
khoang dưới nhện. Do đó ở đoạn cột sống thắt lưng rễ thần kinh và đĩa đệm
có liên quan định khu như sau:
- Chỗ tách ra của rễ L3 ở độ cao của thân đốt L2.
- Rễ L4 thoát ra khỏi bao màng cứng ở độ cao của thân đốt L3.
- Rễ L5 thoát ra ở bờ dưới thân đốt L4.
- Rễ S1 thoát ra ở bờ dưới thân đốt L5.
Khi ống sống thắt lưng bị hẹp thì chỉ cần một thay đổi nhỏ của vịng chu
vi phía sau đĩa đệm cũng có thể dẫn đến chèn ép thần kinh. Do vậy khi đĩa
đệm L4-5 bị thốt vị thì rễ L5 sẽ bị chèn ép trước tiên, cịn rễ L4 sẽ bị chèn ép
khi khối thốt vị rất lớn và đẩy ra hai bên. Trường hợp đĩa đệm L5-S1 thốt vị
có thể chèn ép rễ L5 hoặc rễ S1 hoặc cả hai rễ.

S
1
S
2
Hình 1.7. Liên quan giữa đĩa đệm và rễ thần kinh[27]
1.3. Cơ chế, bệnh căn, bệnh sinh TVĐĐ vùng CSTL - cùng
Cấu trúc và chức năng của cột sống biến đổi thích nghi với dáng đứng

thẳng của cơ thể. Chức năng “giảm xóc” của đĩa đệm trở nên vô cùng quan


15

trọng, các đĩa đệm nói chung và đặc biệt là hai đĩa đệm L4-L5 và L5 - S1 gánh
chịu toàn bộ sức nặng của cơ thể, cũng như các tải trọng tác động trong quá
trình hoạt động. Chức năng của đĩa đệm CSTL - cùng là phải thích nghi với
họat động cơ học lớn, chịu áp lực cao thường xuyên, trong khi đĩa đệm lại là
mô được nuôi dưỡng kém do được cấp máu chủ yếu bằng thẩm thấu. Vì vậy
các đĩa đệm thắt lưng sớm bị loạn dưỡng và thối hóa. Các nghiên cứu đã cho
thấy rằng cơ chế bệnh lý của thoát vị đĩa đệm liên quan đến một số yếu tố:
thối hóa đĩa đệm, nghề nghiệp, chấn thương và tải trọng [18, 21, 37].
1.3.1. Thối hóa đĩa đệm
Đĩa đệm bị thối hóa do hai q trình thối hóa sinh học và bệnh lý.
Trong đó thối hóa sinh học diễn ra sớm ở các đĩa đệm thắt lưng, sự thối hóa
đĩa đệm bắt đầu từ khi 5 tuổi và từ ngồi 30 đã xuất hiện thối hóa về cấu trúc
và hình thái của đĩa đệm. Q trình thối hóa đĩa đệm tăng dần theo tuổi và
diễn ra liên tục trong suốt đời người. Một số tác giả thấy TVĐĐCSTL xảy ra
ở trẻ em và tuổi vị thành niên [32, 53]. Tới tuổi 40 theo sự thối hóa chung,
dịch nhân nhầy giảm đi (thối hóa Hyalin) hình thành nhiều tổ chức xơ. Sự
thối hóa càng phát triển khi càng về già. Đây là nguyên nhân cơ bản trong
đĩa đệm. Do nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài tác động, thối hóa có thể
tiến triển nhanh hơn trở thành những yếu tố bệnh lý, khi đĩa đệm thối hóa
đến một giai đoạn nhất định thì TVĐĐ mới có điều kiện để phát triển. Khi đó
chỉ cần một lực chấn thương nhẹ hoặc một tác động của một trọng tải nhẹ
khơng cân đối cũng có thể gây lên TVĐĐ [37, 59].
1.3.2. Nghề nghiệp, chấn thƣơng và tải trọng
Theo thống kê của Hồ Hữu Lương (1986) 52,4% bệnh nhân thoát vị đĩa
đệm có yếu tố chấn thương hoặc vi chấn thương, yếu tố vi chấn thương là

30,6%, cịn 14% khơng chấn thương hoặc vi chấn thương [23].


16

Theo Nguyễn Văn Thơng có 85,4% TVĐĐ khởi phát sau lao động quá
tải, gắng sức, mang vác nặng, bước hụt ngã, thể thao, võ thuật, rung xóc
đường dài, 14,6% khơng rõ nguyên nhân [32].
Theo Vũ Hùng Liên có 20,27% trường hợp TVĐĐ ở bệnh nhân lao động
nhẹ, 79,73% bệnh nhân lao động nặng [21].
1.3.3. Những yếu tố cơ bản gây thoát vị đĩa đệm
- Áp lực trọng tải cao.
- Sự lỏng lẻo từng phần với sự tan rã của tổ chức đĩa đệm.
- Lực đẩy, nén, ép, xoắn, vặn, quá mức vào đĩa đệm cột sống

a- ưỡn
b- Cúi

Hình 1.8. Di chuyển của nhân nhầy khi cột sống vận động ưỡn và cúi
Cơ chế bệnh sinh của TVĐĐ có thể khái qt rằng: Thối hóa đĩa đệm là
ngun nhân cơ bản bên trong, tác động cơ học là nguyên nhân khởi phát bên
ngoài và sự phối hợp của hai yếu tố đó là nguồn gốc phát sinh TVĐĐ.
1.4. Phân loại TVĐĐ vùng CSTL - cùng
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
1.4.1. Phân loại theo vị trí nhân nhầy thốt vị
* Thốt vị đĩa đệm ra sau vào ống sống
- Thoát vị đĩa đệm ra sau - bên: gặp nhiều nhất, thể này đè ép tủy rễ
trong bao một phía hay hai phía.



17

- Thoát vị đĩa đệm ra sau - giữa: Chèn rễ thần kinh cả hai bên
- Thoát vị đĩa đệm ra sau - cạnh trung tâm. [11, 18, 37]
* Thoát vị đĩa đệm xuyên màng cứng
Thể này ít gặp nhưng thường bị lâu năm, hay có hội chứng đi ngựa do
mảnh đĩa đệm dính nhiều vào rễ thần kinh [16, 37].
* Thoát vị đĩa đệm ra trước
Rất hiếm gặp, chỉ có hội chứng đau thắt lưng cục bộ, thường ít được phát
hiện do dấu hiệu của chứng hư cột sống che lấp; đôi khi kết hợp với các thể
TVĐĐ khác [11, 18, 37].
* Thoát vị đĩa đệm vào trong thân đốt sống
Thể thốt vị vào trong thân đốt sống ít được biểu hiện qua các triệu
chứng lâm sàng mà chỉ được phát hiện tình cờ trên phim chụp cột sống thắt
lưng, với các hình trịn vơi hóa ở giữa hai thân đốt sống [6, 7].
1.4.2. Phân loại theo mức độ chèn ép của khối đĩa đệm lên rễ thần kinh
Theo R Cailliet (1981) (trích [24] dựa vào các rối loạn cảm giác chia ra 3
mức độ:
- Mức 1: (chèn ép ít) có rối loạn cảm giác nơng (đau, tê, bì) ở mông.
- Mức 2: (chèn ép vừa) rối loạn cảm giác ở mông, đùi, cẳng chân.
- Mức 3: (chèn ép nặng) rối loạn cảm giác ở mông, đùi, cẳng chân, bàn
chân và ngón chân.
1.4.3. Phân loại theo biểu hiện lâm sàng
- Thể điển hình: Bệnh xảy ra ở những người trẻ, khỏe mạnh sau một
chấn thương vào cột sống. Ngay sau đó thấy có đau thắt lưng kèm theo có co
cứng cơ cạnh sống kéo dài một vài giờ đến một vài ngày, đau giảm khi uống
thuốc, nghỉ ngơi. Nếu xuất hiện yếu tố chấn thương khác bệnh nhân lại đau,
tái phát nhiều lần. Xen kẽ giữa các đợt đau là thời kỳ tạm ổn định, rồi đau lan
xuống dưới chân theo đường dẫn truyền thần kinh hông to.



18

- Thể khơng điển hình: Là các trường hợp rễ thần kinh bị tổn thương
không phù hợp với mức đĩa đệm bị thoát vị.
1.4.4. Phân loại theo diễn biến bệnh lý
Theo Arseni C., Simonescu M. (1973) [41]
- Giai đoạn 1 (giai đoạn của thối hóa đĩa đệm): Nhân nhầy biến dạng,
có vài chỗ bắt đầu đứt rách nhỏ ở phía sau của vịng sợi. Hình ảnh thấy được
trên phim chụp đĩa đệm là nhân nhầy ấn lõm vào chỗ khuyết này. Lâm sàng
biểu hiện: đau lưng không thường xuyên, liên quan đến lao động, thời tiết và
đè ép đĩa đệm lâu, chưa đau rễ thần kinh. Điều trị nội khoa có kết quả.
- Giai đoạn 2 (lồi đĩa đệm): Chụp đĩa đệm thấy nhân nhầy lồi về phía
vịng sợi suy yếu, đĩa đệm phình ra. Có nhiều chỗ rạn rách vòng sợi rõ rệt hơn
nhưng chưa xâm phạm hết chiều dày của vòng sợi. Lâm sàng biểu hiện: đau
thắt lưng cục bộ, co cứng cơ cạnh sống, chưa đau lan theo rễ thần kinh. Điều
trị nội khoa có kết quả nhưng phải có hệ thống và thời gian.
- Giai đoạn 3: Thoát vị đĩa đệm - chèn ép rễ, đau tái phát nhiều lần. Hình
ảnh trên phim chụp đĩa đệm cho thấy đứt rách hồn tồn các lớp của vịng sợi,
tổ chức nhân nhầy cùng với các tổ chức khác của đĩa đệm thốt ra khỏi
khoang gian đốt, hình thành TVĐĐ gây tổn thương rễ thần kinh. Lâm sàng
biểu hiện các triệu chứng của hội chứng rễ thần kinh và chia ra ba mức độ:
+ Giai đoạn 3a: Mất một phần dẫn truyền thần kinh biểu hiện bằng hội
chứng kích thích rễ thần kinh. Điều trị nội khoa ít kết quả.
+ Giai đoạn 3b: Hội chứng đè ép rễ thần kinh, cần can thiệp phẫu thuật.
+ Giai đoạn 3c: Mất hoàn toàn dẫn truyền thần kinh, điều trị ngoại khoa
là chủ yếu, điều trị nội khoa chỉ có ý nghĩa củng cố sau mổ.
- Giai đoạn 4: Hư đĩa đệm khớp đốt sống, đau thắt lưng hông dai dẳng
kéo dài khó hồi phục. Trên phim thấy nhân nhầy xơ hố, biến dạng, rạn rách
nặng ở nhiều phía.



19

1.5. Lâm sàng TVĐĐ vùng CSTL - cùng
Gồm hai hội chứng: hội chứng cột sống và hội chứng rễ thần kinh
1.5.1. Hội chứng cột sống
- Đau thắt lưng: khởi phát sau một chấn thương, vận động cột sống quá
mức, sai tư thế hoặc khởi phát tự nhiên trên cơ sở của thối hóa cột sống. Khởi
đầu đau cấp tính, giảm dần sau đó đau tái phát trở thành mạn tính. Đau với đặc
điểm: tăng lên khi ho, hắt hơi, thay đổi tư thế, giảm khi được nghỉ ngơi.
- Các biến dạng cột sống: trong TVĐĐCSTL - cùng, hai triệu chứng mất
đường cong sinh lý và vẹo cột sống thắt lưng là thường gặp hơn cả (hình 1.9).
- Có điểm đau cột sống và cạnh sống thắt lưng: rất phổ biến, tương ứng
với các đoạn vận động bệnh lý.
- Hạn chế tầm hoạt động của cột sống thắt lưng chủ yếu là hạn chế khả
năng nghiêng về bên ngược với tư thế chống đau và khả năng cúi.

Hình 1.9. Tư thế chống đau của bệnh nhân
1.5.2. Hội chứng rễ thần kinh
Theo Mumentheler và Schliack (1973), hội chứng rễ thuần túy có những
đặc điểm sau:


20

+ Đau lan theo dọc đường đi của rễ thần kinh chi phối.
+ Rối loạn cảm giác lan theo dọc các dải cảm giác.
+ Teo cơ do rễ thần kinh chi phối bị chèn ép.
+ Giảm hoặc mất phản xạ gân xương.

* Đặc điểm đau rễ: đau dọc theo vị trí tương ứng rễ thần kinh bị chèn ép chi
phối (hình 1.10.).

L5

S1

Hình 1.10. Hướng đau lan theo đường đi của rễ thần kinh L5 và S1
Thường gặp nhất là chèn ép rễ thần kinh thắt lưng cùng L5, S1 (chèn ép
rễ L5: đau lan từ mơng xuống mặt sau ngồi đùi, mặt sau ngồi hay mặt ngồi
cẳng chân, vịng ra phía trước mắt cá ngồi rồi ra phía mu chân và kết thúc ở
ngón cái, đơi khi cả ở ngón 2), có khi gặp chèn ép rễ L3, L4. Đơi khi đau cả
hai rễ do TVĐĐ lớn chèn ép cùng một lúc cả rễ trên và dưới.
* Các dấu hiệu kích thích rễ:
- Dấu hiệu Lassègue: khi nâng chân lên cao dần, gối để duỗi thẳng bệnh
nhân sẽ thấy đau và không thể nâng lên cao tiếp. Mức độ dương tính được
đánh giá bằng góc tạo giữa trục chi và mặt giường, khi xuất hiện đau.


21

Dấu hiệu Lassègue chéo: khi nâng chân bên lành gây đau bên có thốt vị.

Hình 1.11. Cách khám đánh giá dấu hiệu Lassègue
- Dấu hiệu “bấm chuông”: khi ấn điểm đau cạnh cột sống thắt lưng
(cách cột sống khoảng 2cm) xuất hiện đau lan dọc xuống chân theo khu vực
phân bố của rễ thần kinh tương ứng.
- Điểm đau Valleix: dùng ngón tay cái ấn sâu vào các điểm trên đường
đi của dây thần kinh, bệnh nhân thấy đau nhói tại chỗ ấn. Gồm các điểm sau:
giữa ụ ngồi-mấu chuyển lớn, giữa nếp lằn mông, giữa mặt sau đùi, giữa nếp

khoeo, giữa cung cơ dép ở cẳng chân.
* Có thể gặp các dấu hiệu tổn thương rễ:
- Rối loạn cảm giác: giảm hoặc mất cảm giác kiểu rễ hoặc dị cảm (kiến
bị, tê bì, nóng rát…) ở da theo khu vực rễ thần kinh chi phối.
Đặc điểm của rễ thần kinh bị chèn ép: Đau thần kinh hông do TVĐĐ chủ
yếu là đau rễ L5 và rễ S1, người bệnh có thể chỉ đau một rễ hoặc đau cả hai rễ
cùng một lúc.
+ Rễ L1, L2: Rối loạn cảm giác vùng bẹn và mặt trong đùi; rối loạn vận
động cơ thắt lưng chậu, cơ may; rối loạn phản xạ đùi bừu.


22

+ Rễ L3, L4: Rối loạn cảm giác mặt trước đùi và trước trong cẳng chân;
rối loạn vận động cơ tứ đầu đùi, các cơ khép; rối loạn phản xạ bánh chè.
+ Rễ L5: Rối loạn cảm giác mặt sau ngồi đùi, mặt trước ngồi cẳng
chân, mu chân và ngón cái.

Hình 1.12. Định khu chi phối của rễ thần kinh thắt lưng cùng
+ Rễ S1: Rối loạn cảm giác mặt sau ngoài đùi, sau ngoài cẳng chân, bờ
ngoài bàn chân và ngón út; rối loạn vận động các cơ khu sau cẳng chân, rối
loạn phản xạ gót.
+ Rễ S2: Rối loạn cảm giác mặt sau trong đùi, cẳng chân gan chân; rối
loạn vận động các cơ khép, dạng, gấp các ngón chân.
+ Rễ S3, S4, S5: Rối loạn cảm giác vùng đáy chậu; rối loạn cơ thắt hậu
môn và bàng quang; rối loạn phạn xạ hậu môn.
- Rối loạn vận động: khi chèn ép rễ L5 lâu ngày các cơ khu trước ngoài
cẳng chân sẽ bị liệt làm cho bệnh nhân khơng thể đi bằng gót chân, cịn với rễ
S1 thì các cơ khu sau cẳng chân sẽ bị liệt làm bệnh nhân không thể đi kiễng
chân.



23

- Giảm phản xạ gân xương: giảm phản xạ gân cơ tứ đầu của rễ L4 và gân
gót của rễ S1.
- Teo cơ và rối loạn cơ trịn (bí đại tiểu tiện, đại tiểu tiện không tự chủ
hoặc rối loạn chức năng sinh dục) khi tổn thương nặng, mạn tính, có chèn ép
đi ngựa.
* Các thể lâm sàng đặc biệt:
- Các thể nặng: cần can thiệp ngoại khoa cấp cứu
Lồi nhân nhầy đĩa đệm

.
Thoát vị nhân nhầy đĩa đệm

Thoát vị bị tách rời thành khối

Hình 1.13. Các mức độ thốt vị nhân nhầy đĩa đệm
+ TVĐĐ gây đau quá mức: bệnh nhân không thể chịu đựng được, dùng
các loại thuốc giảm đau đều khơng có tác dụng.
+ TVĐĐ gây liệt: TVĐĐ chèn ép rễ thần kinh (thường ở rễ L5 và S1)
dẫn đến giảm trương lực cơ gây yếu hoặc liệt các nhóm cơ do rễ thần kinh bị
chèn ép chi phối, liệt chỉ phục hồi được khi phát hiện sớm và mổ giải ép kịp
thời.
+ TVĐĐ gây hội chứng đi ngựa: thường do thốt vị lớn bị đứt rời
thành khối hay bị vỡ ra thành nhiều mảnh rơi vào trong ống sống gây liệt


24


mềm đột ngột hai chi dưới kèm theo rối loạn cơ trịn và rối loạn cảm giác tầng
sinh mơn hình n ngựa.
- Thể khơng điển hình: TVĐĐ trong và ngồi lỗ tiếp hợp chiếm khoảng
8-10%. Hội chứng cột sống thường rất nhẹ hoặc không rõ nhưng hội chứng
chèn ép rễ thần kinh thường rất rõ. Đau kèm theo liệt và rối loạn cảm giác
thường xuất hiện sớm.
1.6. Cận lâm sàng
1.6.1. Chụp bao rễ thần kinh
Chụp bao rễ thần kinh [6] là phương pháp đơn giản dễ thực hiện. Hiện
nay người ta đã tìm ra thuốc cản quang iod tan trong nước ít độc tính hơn
như: Amipaque, Omnipaque, Iopamiron, Pamiray 300.
Trên phim chụp bao rễ cho phép đánh giá hình ảnh gián tiếp của TVĐĐ
được thể hiện bằng các hình ảnh sau: Hình cụt rễ, hình lẹm cột thuốc, hình
đồng hồ cát, hình tắc cột thuốc hồn tồn hoặc khơng hồn tồn. Tuy nhiên
khơng thể phân biệt được hình ảnh chèn ép do các thành phần khác như tổ
chức xơ, sẹo hay tổ chức di căn [12, 17].
1.6.2. Chụp cắt lớp vi tính (Computer Tomography Scanner)
Hình ảnh TVĐĐ trên ảnh CLVT thể hiện bằng khối thoát vị làm thay đổi
đường viền phía sau, sau bên của đĩa liên đốt sống. Sự thay đổi này thể hiện
bởi một hình lồi nhiều hay ít khu trú ở bờ sau của đĩa đệm. Đặc biệt là sau khi
bơm thuốc cản quang vào khoang dưới nhện cho thấy rõ những chi tiết về đĩa
đệm thoát vị [1, 2, 10]. Tuy nhiên CLVT chỉ chụp được theo trục axial nên
cịn những hạn chế trong chẩn đốn.
1.6.3. Chụp cộng hƣởng từ (Magnetic Resonance Imaging: MRI)
Đây là phương pháp chẩn đốn hiện đại và ưu việt vì nó cho thấy hình
ảnh trực tiếp. Đồng thời nó là phương pháp chẩn đốn với độ phân giải cao
trong khơng gian 3 chiều, an toàn cho thầy thuốc và bệnh nhân (không dùng



25

tia X). Lần đầu tiên ở Việt Nam được áp dụng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt –
Xô tháng 12/1996 [14].
Hình ảnh đĩa đệm thốt vị được mơ tả như sau [7, 14, 16, 22]:
- Phình lồi đĩa đệm: Bờ phẳng, phình nhẹ ra sau, khơng lồi khu trú,
khơng tổn thương bao xơ.
- Thoát vị đĩa đệm: Lồi khu trú của thành phần đĩa đệm, tổn thương bao
xơ, có thể TVĐĐ ra trước hoặc sau. Một số trường hợp thoát vị vào thân đốt
sống (kiểu Schmorl) biểu hiện trên ảnh là nhân nhày đĩa đệm chui vào phần
xốp của thân đốt sống.
- Thoát vị đĩa đệm ra sau lại được chia thành: Thoát vị đĩa đệm ở
đường giữa và cạnh đường giữa, trong lỗ ghép và ngồi lỗ ghép.
- Thốt vị đĩa đệm tự do: Mảnh rời thốt ra khơng liên tục với khoang
đĩa đệm, có khả năng di chuyển lên xuống, tổn thương dây chằng dọc sau.
1.7. Điều trị
1.7.1. Điều trị nội khoa
Cơ sở của điều trị nội khoa [5, 10, 13, 14, 58] là dựa trên bệnh căn bệnh
sinh của TVĐĐCSTL, điều trị nội khoa có hệ thống đem lại kết quả tốt ở các
giai đoạn đầu của bệnh, bao gồm các biện pháp sau:
- Chế độ bất động trong thời kỳ cấp tính: Nằm nghỉ tại giường cứng tùy
trường hợp từ 3 - 15 ngày, có khi lâu hơn. Từ tuần thứ 2, bệnh nhân có thể tập
vận động nhẹ nhàng, tránh mang vác nặng, tránh vận động cột sống quá mức.
- Dùng thuốc: Chống viêm, giảm đau, an thần, mềm cơ, sinh tố
- Điều trị vật lý và các liệu pháp pháp phản xạ:
+ Phương pháp nhiệt: Bó paraphin, đèn hồng ngoại, túi chườm nóng...
+ Xoa bóp bấm huyệt, châm cứu: Được áp dụng từ rất lâu, song cơ chế
giảm đau của phương pháp chưa được giải thích rõ ràng.
+ Dùng dịng điện: Sóng ngắn, tạo nhiệt ở sâu, tăng cường chuyển hoá,
chống phù nề, chống viêm, giảm đau.



×