Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TỐ NGA

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG HƠN NHÂN, GIA ĐÌNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TỐ NGA

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG HƠN NHÂN, GIA ĐÌNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN

Hà Nội – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả


nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Tố Nga

i


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... iv
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
QUAN HỆ HƠN NHÂN, GIA ĐÌNH ......................................................................8
1.1. Nhận thức chung về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ...............8
1.1.1. Khái niệm bình đẳng giới ..................................................................................8
1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ..........................10
1.2. Cơ sở của việc quy định pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân,
gia đình ......................................................................................................................11
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa, xã hội của đất nước ..........................11
1.2.2. Đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật quốc tế về bình đẳng giới .............13
1.2.3. Bảo vệ và thực thi quyền con người ...............................................................15
1.2.4. Đảm bảo quyền tự do dân chủ và lợi ích của các thành viên trong gia đình ..17

1.2.5. Thực hiện mục tiêu bình đẳng giới thực chất..................................................18
1.2.6. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế xã hội một cách bền vững ................................20
1.3. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ..........................21
1.3.1. Góp phần xóa bỏ phân biệt đối xử về giới ......................................................21
1.3.2. Góp phần xóa bỏ định kiến giới ......................................................................23
1.3.3. Góp phần hình thành mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, u thương, tơn trọng
lẫn nhau trong gia đình ..............................................................................................24
1.3.4. Góp phần xây dựng, hình thành nhân cách của các thành viên trong gia đình .....25
1.3.5. Góp phần phịng, chống bạo lực gia đình và bảo vệ quyền lợi của trẻ em, phụ nữ 26
1.4. Pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước về bình đẳng giới trong quan hệ
hơn nhân, gia đình .....................................................................................................28
1.4.1. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ..........28
1.4.2. Pháp luật một số nước về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ..36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................39

ii


CHƢƠNG 2. NỘI DUNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUAN HỆ HƠN
NHÂN, GIA ĐÌNH THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ......40
2.1. Bình đẳng giới trong việc kết hơn ......................................................................40
2.2. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa vợ và chồng ................................................46
2.2.1. Bình đẳng giới trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng ............................46
2.2.2. Bình đẳng giới trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng ..................................52
2.2.3. Bình đẳng giới trong việc ly hơn .....................................................................61
2.3. Bình đẳng giới giữa cha và mẹ trong quan hệ đối với con cái ...........................67
2.3.1. Bình đẳng giới giữa cha và mẹ trong quan hệ nhân thân đối với con .............67
2.3.2. Bình đẳng giới giữa cha và mẹ trong quan hệ tài sản đối với con ..................73
2.4. Bình đẳng giới giữa anh, chị, em với nhau ........................................................75
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................79

CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
QUAN HỆ HƠN NHÂN, GIA ĐÌNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..............80
3.1. Thực tiễn thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ..............80
3.2. Những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong việc thực hiện bình đẳng giới trong
hơn nhân, gia đình hiện nay ......................................................................................88
3.3. Một số giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng
giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay ....................................93
3.3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân,
gia đình .....................................................................................................................93
3.3.2. Một số kiến nghị hồn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hơn
nhân, gia đình ............................................................................................................97
3.3.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
trong quan hệ hơn nhân, gia đình ở nước ta hiện nay .............................................103
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ......................................................................................111
KẾT LUẬN ............................................................................................................112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................114

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
HN&GĐ
Nghị định 70

Nguyên nghĩa
Hôn nhân và gia đình
Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Thơng tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP

Thơng tư 01

ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một
số quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình

CEDAW

Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng giới luôn là vấn đề được Liên hợp quốc và cả thế giới quan tâm. Từ
khi thành lập đến nay, Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn quốc tế về nhân
quyền năm 1948 cùng nhiều công ước quốc tế liên quan đến quyền con người,
quyền bình đẳng giới, nổi bật như: Cơng ước về các quyền dân sự và chính trị năm
1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Cơng ước về
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979… Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền cùng các cơng ước này đều khẳng định mọi người có quyền bình
đẳng như nhau, khơng có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn
ngữ, tơn giáo…
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã luôn cho thấy sự quan tâm đặc biệt đến
việc đảm bảo quyền con người nói chung, đảm bảo bình đẳng giới nói riêng. Năm
1930, ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cao tư tưởng nam
nữ bình quyền và được cơng nhận ngang hàng nhau về chính trị. Tuy còn non trẻ

nhưng điều này cho thấy nhận thức tiến bộ của Đảng vượt khỏi quan niệm phong
kiến tồn tại hàng trăm năm với tư tưởng trọng nam khinh nữ và các tư tưởng lạc
hậu, khắt khe khác. Trải qua quá trình thành lập, phát triển cho tới nay, quan điểm
tơn trọng quyền con người, đề cao bình đẳng nam nữ của Nhà nước ta càng được
thể hiện rõ hơn khi thông qua Hiến pháp, các Bộ Luật, Luật, Nghị quyết, chính
sách… ghi nhận các nội dung liên quan tới bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới
trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng hay các biện pháp phịng chống xâm phạm quyền
bình đẳng giới như Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Hơn nhân và Gia đình,
Luật Bình đẳng giới… Bên cạnh đó, nước ta tích cực tham gia các công ước quốc tế
về quyền con người, triển khai nhiều chính sách quan trọng mang lại quyền lợi bình
đẳng giữa mọi người, đồng thời tuyên truyền, giáo dục để thay đổi quan niệm, tư
duy của nam giới và nữ giới. Nhiều nội dung về bình đẳng giới liên quan đến các
lĩnh vực khác của đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội cũng được cụ thể hóa trong các
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

1


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Chúng ta làm cách mạng để tranh lấy
quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau” [33]. Đặc biệt trong lĩnh vực
hơn nhân, gia đình, vấn đề giới, bình đẳng giới là vấn đề nóng và đang được quan
tâm hơn bao giờ hết. Gia đình là tế bào của xã hội, nơi nuôi dưỡng các mầm non
tương lai của đất nước, nơi thể hiện bản sắc văn hóa, truyền thống của dân tộc. Sự
bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình là nền
tảng xây dựng gia đình hạnh phúc. Gia đình có êm ấm thì xã hội mới phát triển.
Nhận thức được điều này, Nhà nước đã có những thay đổi trong chính sách,
pháp luật về vấn đề bình đẳng giới theo các thời kỳ để đáp ứng sự phát triển của xã
hội, đáp ứng mục tiêu chung của toàn nhân loại và đã đạt được những thành tựu
nhất định như: là một trong các quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong
vòng 20 năm qua, dẫn đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương về các chỉ số bình

đẳng giới thông qua việc cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục tới trẻ em gái, trẻ em
trai, phụ nữ, nam giới, tỷ lệ mù chữ của nữ giới so với nam giới ngày càng
giảm…[13].
Tuy nhiên, nước ta đã trải qua chế độ phong kiến lâu dài với sự ảnh hưởng của
nhiều tư tưởng lạc hậu, địa hình phần lớn là đồi núi, có nhiều khu vực vùng sâu
vùng xa phát triển không đồng đều, nhiều dân tộc thiểu số… nên việc thực thi và
bảo đảm bình đẳng giới cịn gặp nhiều khó khăn, tình trạng bất bình đẳng giới cịn
diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả hơn nhân, gia đình. Các vấn đề nóng như
mang thai hộ, quyền liên quan tới hôn nhân của những người đồng tính, song tính,
chuyển giới, lựa chọn giới tính cho con… cũng là những thách thức đang cần phải
giải quyết.
Muốn khắc phục tình trạng trên trước hết cần có một hành lang pháp lý vững
chắc. Hiện nay, pháp luật của nước ta cũng đã có những quy định cụ thể về vấn đề
bình đẳng giới trên nhiều lĩnh vực như lao động, dân sự, HN&GĐ… Các văn bản
pháp luật này quy định rõ quyền bình đẳng nam nữ trong những lĩnh vực tương ứng,
các chế tài xử phạt vi phạm, các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới và chống phân
biệt đối xử… Tuy nhiên pháp luật về bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới

2


trong lĩnh vực hơn nhân, gia đình nói riêng cịn bộc lộ một số thiếu sót, hạn chế nhất
định, có những điểm chưa phù hợp với thực tế dẫn đến khó áp dụng và thực thi. Vì
vậy cần có nghiên cứu, góp ý để hồn thiện.
Bên cạnh đó, việc tham gia các công ước quốc tế cũng đặt ra nghĩa vụ pháp lý
với đất nước ta khi cần phải tôn trọng, đảm bảo thực thi quyền bình đẳng giới trên
lãnh thổ Việt Nam và trên mọi lĩnh vực trong đó có hơn nhân, gia đình. Do đó, việc
nghiên cứu pháp luật về bình đẳng giới và thực tiễn thực hiện bình đẳng giới trong
quan hệ hơn nhân, gia đình ở nước ta hiện nay là cần thiết để đảm bảo thực hiện các
nghĩa vụ quốc tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập, phát triển của đất nước.

2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong hơn nhân, gia
đình nói riêng đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí, trên các
trang thơng tin điện tử đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội
dung liên quan, có thể kể đến như:
- ThS. Trần Thị Lan: “Xác định cha, mẹ, con dưới góc độ bình đẳng giới”
đăng trên trang Bài viết
nhấn mạnh tới quyền bình đẳng trong quan hệ HN&GĐ mà trọng tâm là quyền xác
định cha, mẹ, con trên cơ sở bình đẳng giới. Theo tác giả Trần Thị Lan, dưới góc độ
bình đẳng giới việc xác định cha, mẹ, con chủ yếu thể hiện ở quyền sinh con và
quyền xác định cha, mẹ, con.
- Trần Thị Quốc Khánh: “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam”,
Luận án Tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh năm 2012. Luận án đã xây dựng cơ sở lý luận và chỉ ra đặc điểm của việc
thực hiện pháp luật bình đẳng giới, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quyền
bình đẳng nam, nữ và về vai trò của phụ nữ trong đời sống xã hội. Luận án cũng
đưa ra giải pháp thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.
- Nguyễn Thị Hồng Giang: “Bình đẳng giới trong pháp luật hơn nhân - gia
đình Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2014. Luận văn nghiên cứu toàn diện các chế định về hôn nhân gia

3


đình trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam từ góc độ bình đẳng giới, đánh giá những
tiến bộ đạt được, tác động tích cực đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ
em. Luận văn chỉ ra những hạn chế của pháp luật HN&GĐ trong việc bảo vệ quyền
con người, quyền bình đẳng giới và đưa ra giải pháp khắc phục.
- Lê Thu Thảo: “Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình tại Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014. Luận văn bổ sung và phát triển
thêm vấn đề lý luận về quyền bình đẳng của phụ nữ, tạo cơ sở khoa học để nghiên
cứu hồn thiện, nâng cao bình đẳng giới về hơn nhân gia đình ở Việt Nam.
- Đặng Thị Bích Huệ: “Hồn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực
dân sự, hơn nhân và gia đình – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Luận văn
đã đưa ra tiêu chí đánh giá sự hồn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực
dân sự, hơn nhân và gia đình. Luận văn cũng phân tích, đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới trong các lĩnh vực này và đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hơn nhân và gia đình.
- Nguyễn Thị Thu Dung: “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội
năm 2018. Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới, chỉ ra các kết quả đạt được cũng như yếu kém trong thực hiện pháp luật
về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và nêu giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả pháp luật về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu pháp luật về bình
đẳng giới, tơi lựa chọn đề tài: "Bình đẳng giới trong hơn nhân, gia đình theo
pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học với mong
muốn sẽ góp phần hồn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành về vấn
đề bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình. Qua đó góp phần phát hiện
những hạn chế, thiếu sót của pháp luật về bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới
trong quan hệ hơn nhân - gia đình nói riêng cũng như những khó khăn, vướng mắc

4


trong quá trình thực thi bình đẳng giới ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một
số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình trong giai đoạn

hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về bình đẳng giới và bình
đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình; thực trạng pháp luật và thực trạng thực
hiện bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bình đẳng giới trong hơn nhân, gia đình là vấn đề rộng và được điều chỉnh bởi
nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu
được giới hạn ở các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và Luật Bình đẳng giới
năm 2006 điều chỉnh về bình đẳng giới trong hơn nhân, gia đình.
Trong phạm vi của luận văn, bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân được
nghiên cứu qua quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ gia đình được nghiên cứu trong
phạm vi gia đình hạt nhân là quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa anh, chị, em với
nhau. Quan hệ giữa ông bà với các cháu, giữa cơ, cậu, chú, bác, dì với cháu không
nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện bình đẳng giới
trong quan hệ hơn nhân, gia đình trên thực tế, các hành vi vi phạm bình đẳng giới
trong gia đình và việc xử lý các hành vi này. Thực tiễn thực hiện được nghiên cứu
từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới trong quan hệ hơn
nhân, gia đình; thực trạng quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, Luật Bình đẳng
giới năm 2006 về bình đẳng giới trong hơn nhân, gia đình và thực trạng thực hiện,
xử lý các hành vi vi phạm bình đẳng giới trong hơn nhân, gia đình.

5



4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân,
gia đình; cơ sở và ý nghĩa của quy định pháp luật về bình đẳng giới trong hơn nhân,
gia đình; phân tích khái quát pháp luật quốc tế cũng như pháp luật một số nước về
bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình.
Thứ hai, phân tích, đánh giá nội dung bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia
đình theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Thứ ba, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong
quan hệ hơn nhân, gia đình; việc xử lý các hành vi vi phạm quyền bình đẳng giới
trong gia đình; đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện bình đẳng giới trong hơn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã
sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này được
sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về bình đẳng giới
trong quan hệ hơn nhân, gia đình.
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này được
người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có
hợp lý hay khơng, có thành tựu hạn chế gì, đồng thời nhìn nhận trong mối tương
quan so với quy định liên quan hoặc pháp luật quốc tế…
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển khai
nhận xét, đánh giá thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia
đình; đưa ra kiến nghị hồn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện.


6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận về
bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình và tạo cơ sở khoa học cho việc
nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. Luận văn nghiên cứu tồn
diện quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình ở
Việt Nam hiện nay; phân tích được thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan
hệ hơn nhân, gia đình; chỉ ra thành tựu, hạn chế và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân,
gia đình. Những kiến nghị này cũng là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng
trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực tương ứng.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích trong công tác giảng
dạy, học tập của đội ngũ giảng viên, sinh viên và các cá nhân, tổ chức quan tâm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới trong quan hệ hơn
nhân, gia đình
 Chương 2: Nội dung bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình
theo quy định của pháp luật hiện hành
 Chương 3: Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hơn
nhân, gia đình và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện vấn đề này ở
Việt Nam hiện nay

7



CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUAN HỆ
HƠN NHÂN, GIA ĐÌNH
1.1. Nhận thức chung về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình
1.1.1. Khái niệm bình đẳng giới
Để tìm hiểu khái niệm bình đẳng giới, trước hết cần phải làm rõ khái niệm giới
và giới tính. Giới và giới tính là hai thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên trong
cuộc sống hằng ngày, giữa chúng có sự khác biệt nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau. Theo quy định tại Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006, “giới tính” và
“giới” được định nghĩa như sau:
-

“Giới tính” là khái niệm chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
Giới tính chỉ những đặc điểm sinh học tự nhiên của nam và nữ gắn liền với các

yếu tố cơ bản quy định chức năng sinh sản của nam, nữ đó là các yếu tố: hooc môn
sinh dục nam, hooc môn sinh dục nữ; nhiễm sắc thể giới tính; cấu trúc bộ phận sinh
dục trong và ngồi. Giới tính có tính chất bẩm sinh, biến đổi tuân theo quy luật sinh
học, gắn liền với mỗi cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi; có tính chất đồng nhất
thể hiện ở những đặc điểm sinh học của nam hay nữ đều giống nhau ở mọi nơi hay
mọi nhóm dân cư; có tính chất bất biến và khơng thể thay đổi theo thời gian như chỉ
có phụ nữ mới có khả năng mang thai, sinh con… Giới tính là sản phẩm của q
trình tiến hóa tự nhiên về mặt sinh học của con người, không bị thay đổi do tác
động của thời gian, môi trường hay xã hội [16, tr5].
-

“Giới” là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả

các mối quan hệ xã hội.
Giới là khái niệm mới xuất hiện trong khoa học về giới ở các nước nói tiếng

Anh vào cuối những năm 60 và ở nước ta vào những năm 80 của thế kỷ 20 [45,
tr12]. Khơng giống như giới tính, giới được hình thành trong quá trình sống, học tập
và phát triển của con người và chịu sự ảnh hưởng của quan niệm xã hội, sự phân
công lao động trong xã hội. Giới biểu hiện thông qua các hành vi được hình thành

8


từ sự dạy dỗ của gia đình, nhà trường, xã hội, được định hướng theo quan niệm mà
xã hội mong muốn, góp phần định hình khn mẫu hành vi của nam giới, hay nữ
giới. Ví dụ: nam giới đảm nhận các việc lớn như dựng nhà dựng cửa, làm các cơng
việc khó khăn địi hỏi nhiều sức lao động; nữ giới làm cơng việc chăm sóc con cái
hoặc các việc khác như nội trợ, trang trí nhà cửa… Giới có những đặc điểm cơ bản
như: khơng mang tính bẩm sinh, di truyền mà thể hiện các đặc điểm xã hội của nam
và nữ, được hình thành do quá trình xã hội hóa xá nhân, do giáo dục, học hỏi… tức
là bị quy định bởi các điều kiện sống của cá nhân và xã hội trong từng hoàn cảnh cụ
thể; giới có sự khác nhau, đa dạng giữa các vùng miền, quốc gia, có sự biến đổi theo
khơng gian, thời gian dưới tác động của các yếu tố xã hội.
Có thể thấy, giới tính chỉ sự khác nhau về mặt sinh học giữa nam và nữ, do các
quy luật tự nhiên chi phối, còn giới chỉ sự khác nhau trong quan niệm, cách nhìn
nhận của xã hội về vị trí, vai trò của người nam và người nữ trong các mối quan hệ
xã hội, giới có nguồn gốc xã hội và do các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội chi
phối [16, tr9]. Vì vậy, thực hiện bình đẳng giới là làm thay đổi quan niệm về vị trí,
vai trị của nam nữ trong các mối quan hệ xã hội, để nam nữ có quyền lợi trách
nhiệm như nhau, xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới, để nam và nữ được thụ hưởng
chất lượng cuộc sống, các lợi ích từ sự phát triển như nhau trong cuộc sống. Khái
niệm giới tính và giới là cơ sở để hiểu rõ về khái niệm bình đẳng giới.
- “Bình đẳng giới” được định nghĩa tại khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới
năm 2006.
Quyền bình đẳng nam nữ được đề cập đến khá sớm và phổ biến trong nhiều

văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam. Trong Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền năm 1948, tuy không đưa cụm từ “bình đẳng giới” vào tun ngơn
hay giải thích ý nghĩa của “bình đẳng giới” nhưng đã có những nội dung nói về
quyền bình đẳng như: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và
quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái” [25,
Điều 1] hay “Đến tuổi thành hơn, thanh niên nam nữ có quyền kết hơn và lập gia
đình mà khơng bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tơn giáo. Họ có quyền

9


bình đẳng khi kết hơn, trong thời gian hơn thú cũng như khi ly hơn” [25, Điều 16].
Bình đẳng giới cũng được ghi nhận ngay trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất
của Việt Nam là Hiến pháp 2013, cụ thể: “Cơng dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt.
Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” [41, Điều 26].
Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006 định nghĩa: “Bình đẳng giới là
việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó”. Bình đẳng giới khơng chỉ đề cập đến sự
cân bằng số lượng giữa nam và nữ trong một công việc hay một lĩnh vực mà được
hiểu là nam hay nữ đều có vai trị ngang nhau, đều được tạo điều kiện như nhau để
có thể phát huy các kỹ năng, năng lực của mình vào việc xây dựng, phát triển gia
đình, xã hội và được thụ hưởng về thành quả làm ra.
Có thể hiểu, bình đẳng giới là việc thừa nhận, coi trọng như nhau những đặc
điểm khác nhau giữa nam và nữ, tạo điều kiện, cơ hội cho nam và nữ phát huy năng
lực của mỗi người phù hợp với đặc điểm giới tính của mỗi giới, nhằm đảm bảo cho
nam và nữ được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống như nhau, được thụ hưởng
bình đẳng thành quả của sự phát triển.

1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình

Hơn nhân là sự liên kết giữa người nam và người nữ, được gọi là vợ chồng,
được pháp luật công nhận. Từ trước đến nay, trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về
hơn nhân do sự khác nhau về tơn giáo, nền văn hóa, lịch sử phát triển. Theo thời
gian, khái niệm hôn nhân dần được điều chỉnh, thay đổi, có thể mở rộng hơn hoặc
thu hẹp đối tượng.
Pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành giải thích kết hôn là việc nam và nữ
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật HN&GĐ về điều kiện
kết hôn và đăng ký kết hôn, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hơn
[42, Điều 3]. Nói tới quan hệ hơn nhân là nói tới việc xác lập quan hệ vợ chồng,
bình đẳng giới trong hơn nhân tức là bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng.
Quan hệ hơn nhân, gia đình là quan hệ phát sinh trong bất kỳ thời kỳ nào, tại
bất kỳ thời điểm nào hay chế độ nào. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014:

10


“Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với
nhau theo quy định của Luật này” [42, Điều 3]. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi
con người gắn bó với nhau có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng mà làm phát sinh các quyền nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định
của pháp luật.
Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ và chồng, con trai và con gái, các thành
viên nam và nữ trong gia đình có vị trí, vai trị ngang nhau, quyền được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của gia đình như nhau, quyền
được thụ hưởng về thành quả phát triển của gia đình và xã hội ngang nhau, quyền được
tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và của gia đình [16, tr136].
Theo quan điểm cá nhân, bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình có
thể hiểu là: sự bình đẳng trên thực tế giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện
các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ hơn nhân, sự bình đẳng trong việc

thực hiện các quyền, nghĩa vụ giữa con trai, con gái, giữa các thành viên nam và nữ
trong gia đình, trên cơ sở được tạo điều kiện, cơ hội phù hợp với đặc điểm đặc thù
về giới tính của mỗi giới, nhằm đảm bảo cho thành viên nam và nữ trong gia đình
đều có thể phát huy khả năng của mình như nhau cho sự phát triển của gia đình, có
quyền như nhau trong việc tham gia bàn bạc và ra quyết định các vấn đề của gia
đình và được hưởng các lợi ích từ sự phát triển của gia đình một cách cơng bằng
như nhau.
1.2. Cơ sở của việc quy định pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hơn
nhân, gia đình
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa, xã hội của đất nước
Đất nước ta trải qua chế độ phong kiến lâu đời với sự ảnh hưởng sâu sắc của
Nho giáo, do vậy tư tưởng phụ quyền là nguyên tắc chính trong các quan hệ hơn
nhân, gia đình. Theo đó, quyền được xác lập và ưu tiên hơn cho đàn ơng (cha,
chồng, con trai...) cịn phụ nữ trong gia đình (mẹ, vợ, con gái…) khơng được hoặc ít
được hưởng quyền hoặc phải phụ thuộc vào quyền của người đàn ơng trong gia
đình. Khơng chỉ vậy, tư tưởng trọng nam khinh nữ tồn tại xuyên suốt hàng nghìn

11


năm, người phụ nữ trong gia đình mặc nhiên phải có sự hi sinh, phải lao động vất
vả, là người làm nội trợ, không được học hành, thi cử… không có tiếng nói ngay cả
trong gia đình và xã hội. Quan niệm “phu xướng, phụ tùy”, “thuyền theo lái, gái
theo chồng”… đã trở thành nguyên tắc phổ biến về ứng xử và xác định quyền trong
gia đình truyền thống ở Việt Nam. Dưới chế độ phong kiến, đàn ông được học
hành, thi cử, tham gia các mối quan hệ xã hội, được quyền “năm thê bảy thiếp”,
cịn phụ nữ khơng được tiếp cận tri thức, còn phải chịu các lễ giáo khắt khe, không
được tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội… Điều đó cho thấy sự bất bình
đẳng khi nhìn nhận vai trị, vị trí của người đàn ông và phụ nữ trong xã hội phong
kiến trước đây.

Việt Nam xuất phát điểm là một nước nông nghiệp ở phương Đông, thuộc nền
văn minh lúa nước. Do vậy, nhiều gia đình vẫn làm cơng việc đồng áng, và người
phụ nữ vừa phải gánh vác công việc đồng áng, vừa làm nội trợ vừa chăm sóc con
cái. Lao động vất vả nhưng năng suất thấp và thu nhập thấp đã ảnh hưởng tới địa vị
của người phụ nữ trong gia đình và cả xã hội. Phụ nữ chiếm đa số lực lượng lao
động nông nghiệp và những hoạt động khơng chính thức nên thu nhập thấp hơn so
với nam giới. Làm nơng nghiệp có tính chất mùa vụ và phụ thuộc nhiều vào thời
tiết, do vậy thu nhập của họ cũng bấp bênh hơn. Ngay trong lĩnh vực nông nghiệp,
mặc dù là lực lượng lao động chính nhưng phụ nữ ít được đào tạo để có kỹ năng,
kiến thức cần thiết làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả cơng việc. Phụ nữ ít
được tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn ni... ít được tham gia các
mối quan hệ xã hội hơn đàn ông. Bên cạnh đó, tuy điều kiện kinh tế nước ta có
nhiều cải thiện hơn trước nhưng hiện tại vẫn thuộc nhóm các nước đang phát
triển.Vì vậy mà vị trí, vai trị của người phụ nữ trong gia đình hay xã hội vẫn còn
chịu ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ và bị chi phối sâu sắc bởi các
khuôn mẫu giới, vai trò giới truyền thống.
Về tự nhiên, phần lớn diện tích nước ta là đồi núi (chiếm ¾ lãnh thổ, địa hình
đồng bằng và đồi núi thấp dưới 1000m chiếm 85% diện tích), địa hình chia cắt
mạnh, nhiều sông suối, hẻm vực, sườn dốc… gây trở ngại giao thơng, khó xây dựng

12


đường sá, dân cư ít và phân tán. Nhiều dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa
chưa được hoặc ít được tiếp cận với xã hội hiện đại, các thông tin đa chiều hay quy
định của pháp luật, chủ yếu vẫn tồn tại cách sống theo phong tục tập quán của dân
tộc họ từ lâu đời. Có nhiều phong tục tập qn có tác động tích cực tới bình đẳng
giới trong hơn nhân, gia đình như khuyến khích xây dựng mối quan hệ vợ chồng
bền vững, kẻ nào mà xúi giục gây xung khắc giữa vợ chồng thì phải đền tội (dân tộc
H’mơng); khuyến khích phụ nữ tham gia các hoạt động sinh hoạt cộng đồng (dân

tộc Thái) [46, tr56]. Nhưng bên cạnh phong tục tập quán tốt đẹp còn tồn tại nhiều
hủ tục lạc hậu như tục bắt vợ (dân tộc H’mông), ngủ thăm (dân tộc Thái), tảo hơn,
bắt con cái kết hơn sớm để có thêm người làm nương làm rẫy, hôn nhân cận
huyết… [46, tr56]. Những hủ tục nêu trên ảnh hưởng rất lớn đến quyền của phụ nữ,
trẻ em. Việc kết hôn sớm, sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên ảnh hưởng không tốt
tới cả sức khỏe của mẹ và bé. Trẻ em phải kết hơn sớm nên việc học hành bị trì
hỗn hoặc ngừng lại, khơng được hoặc ít được tiếp thu các nguồn tri thức hiện đại,
đa dạng hay nền giáo dục tiên tiến. Điều này dẫn đến trình độ làm việc khơng cao
nên nguồn thu nhập thấp, khơng đóng góp được kinh tế cho gia đình và là một trong
những nguồn cơn của sự đói nghèo, đồng thời cũng làm suy giảm vị thế, vai trò của
người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Do đó, để đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em, xóa đói giảm nghèo cho các
hộ gia đình vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện cho nam giới và nữ giới thuộc tất cả các
dân tộc trên đất nước được tiếp cận các nguồn tri thức như nhau, tham gia vào đời
sống cộng đồng, xã hội thì việc quy định về bình đẳng giới trong hơn nhân, gia đình
là rất cần thiết.
1.2.2. Đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật quốc tế về bình đẳng giới
Để đảm bảo thực hiện được mục tiêu bình đẳng giới thì mỗi quốc gia, mỗi nhà
nước đều cần có các cơng cụ đắc lực hỗ trợ mà hiệu quả nhất chính là sử dụng pháp
luật. Sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước
nhằm đảm bảo bình đẳng giới, trong đó có đảm bảo bình đẳng giới trong quan hệ
hơn nhân, gia đình là một trong những mục tiêu hàng đầu.

13


Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 lần đầu tiên khẳng định sự bình đẳng
về các quyền giữa phụ nữ và nam giới. Quyền bình đẳng của phụ nữ chính thức
được thừa nhận trong pháp luật quốc tế khi Liên hợp quốc ra đời. Tuyên ngôn quốc
tế về nhân quyền năm 1948 cũng đã xác lập nguyên tắc nền tảng là tất cả mọi người

đều được hưởng tự do, bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, bình đẳng trước pháp
luật, khơng bị phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào. Tiếp sau Tuyên ngôn quốc tế về
nhân quyền năm 1948, rất nhiều công ước quốc tế đã được Liên hợp quốc thông qua
để bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em gái như: Công ước về quốc tịch của phụ
nữ khi kết hôn năm 1957, Công ước về kết hôn tự nguyện, tuổi kết hôn tối thiểu và
việc đăng ký kết hôn năm 1962, Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ năm 1979… Các công ước nêu trên đã góp phần xác lập vị thế bình
đẳng của phụ nữ với nam giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có các
quan hệ hơn nhân, gia đình.
Cụ thể trong quan hệ hơn nhân, gia đình, Điều 16 Tuyên ngôn quốc tế về nhân
quyền năm 1948 khẳng định: “Nam và nữ khi đủ tuổi, không hạn chế về chủng tộc,
quốc tịch hay tơn giáo, đều có quyền kết hơn và lập gia đình. Họ có quyền được
hưởng những quyền bình đẳng khi kết hơn, trong thời kỳ hôn nhân và sau khi hôn
nhân tan vỡ”. Theo Tuyên ngơn này, nam và nữ hồn tồn có quyền bình đẳng như
nhau trong việc kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân hay ngay cả khi ly hôn. Tại Nghị
quyết 843 (IX) ngày 17/12/1954, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã tuyên bố
rằng, những tập quán, luật lệ và hủ tục liên quan đến HN&GĐ không phù hợp với
những nguyên tắc quy định tại Hiến chương Liên hợp quốc và Tun ngơn quốc tế
về nhân quyền cần được xóa bỏ. Hay “Mọi cuộc hôn nhân sẽ được coi là tiến hành
trái pháp luật nếu khơng có sự đồng ý hồn toàn và tự nguyện của cả hai bên” [26,
Điều 1].
Việc ghi nhận quyền bình đẳng giới vào các văn bản pháp luật quốc tế cho
thấy Đại hội đồng Liên hợp quốc và nhiều quốc gia trên thế giới rất coi trọng, đề
cao việc đảm bảo bình đẳng giới, trong đó có nội dung bình đẳng giới trong quan hệ
hơn nhân, gia đình. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là lồng ghép nội dung

14


bình đẳng giới trong quá trình xây dựng pháp luật để đảm bảo thực thi bình đẳng

giới, thực thi quyền con người.
Với mong muốn hội nhập, phát triển, Việt Nam đã tham gia rất nhiều công
ước liên quan tới quyền con người và bình đẳng giới như Cơng ước về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Cơng ước về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Cơng ước
về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979… Điều này cho
thấy mong muốn kết nối, hòa nhập và tiếp thu xu thế phát triển của thế giới của
nước ta. Chúng ta cần thực hiện đúng các công ước quốc tế đã tham gia, nội luật
hóa các điều ước quốc tế để xây dựng pháp luật về bình đẳng giới nói chung và bình
đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình nói riêng nhằm đảm bảo các quy định
của pháp luật trong nước phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế, tạo điều kiện
cho việc giao lưu, hội nhập, đáp ứng và phù hợp với xu hướng tiến bộ của thế giới.
1.2.3. Bảo vệ và thực thi quyền con người
Quyền con người là một phạm trù rất rộng và từ trước đến nay đã có rất nhiều
định nghĩa hay cách giải thích khác nhau. Tuy nhiên, quyền con người thường được
hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và
bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [15, tr.38].
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề về quyền con người là vấn đề phổ biến và trọng
yếu mà bất kỳ quốc gia hay dân tộc nào đều phải tôn trọng và thực hiện. Quyền con
người là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài trải qua hàng nghìn năm lịch sử
của nhân loại. Do đó nó là kết tinh của văn hóa quyền, trở thành cơ sở quan trọng để
xây dựng các chuẩn mực pháp lý về nhân quyền, là căn cứ để làm cơ sở chống lại
các hành vi bạo lực, chà đạp, xâm phạm quyền con người.
Quyền con người có thể nói là một trong những quyền cơ bản và tuyệt đối, là
quyền mà mỗi con người đều được hưởng cho dù mức độ hưởng quyền có thể khác
nhau theo từng quốc gia. Phần lớn các quyền con người đã được nêu trong Tuyên
ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, chủ yếu được chia thành hai nhóm chính là
các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Về nguyên tắc,

15



nam và nữ đều được hưởng các quyền con người như nhau. Tuy nhiên trên thực tế,
đang có sự bất bình đẳng trong việc thực hiện quyền con người giữa nam và nữ. Các
quyền con người của phụ nữ thường bị tác động hoặc bị vi phạm do các thói quen,
định kiến xã hội hay các hủ tục lạc hậu.
Bình đẳng giới khơng có nghĩa là phải đối xử với nam và nữ như nhau trong
mọi trường hợp mà là tạo sự bình đẳng cho nam, nữ trong việc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ với gia đình, với xã hội trên cơ sở được tạo điều kiện, cơ hội phù hợp với
đặc điểm đặc thù về giới tính để họ có thể phát huy khả năng của mình và được thụ
hưởng về thành quả do mình tạo ra một cách cơng bằng. Do vậy, có bình đẳng giới
thì mới đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo được chất lượng sống của con người mà
không phân biệt nam hay nữ, đảm bảo quyền lợi của những người yếu thế hơn như
phụ nữ và trẻ em.
Trên thực tế, phụ nữ thường bị đánh giá thấp hoặc yếu kém hơn nam giới. Bởi
vậy đề cập đến vấn đề bình đẳng giới chủ yếu là đề cập đến sự bình đẳng trong việc
thực hiện quyền và vị trí trong xã hội của phụ nữ với nam giới. Đấu tranh cho bình
đẳng giới cũng được xem là đấu tranh để bảo vệ quyền con người của phụ nữ và
đấu tranh bảo vệ quyền con người của phụ nữ cũng chính là thực hiện bình đẳng
giới. Khi những người yếu thế như phụ nữ, trẻ em được bảo vệ, chất lượng cuộc
sống của con người tăng lên thì mới có thể đảm bảo thực hiện các quyền con người
trên thực tế như được học tập, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, xây dựng gia đình…
Tuy nhiên, bình đẳng giới khơng chỉ là đấu tranh cho quyền của phụ nữ, bảo
vệ các quyền, lợi ích của riêng phụ nữ, mà bình đẳng giới địi hỏi phải bảo vệ các
quyền, lợi ích của cả nam giới. Hiện nay, phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi hơn trong
nhiều lĩnh vực so với nam giới, nhưng ở những góc độ nhất định, do những khuôn
mẫu giới, định kiến giới mà nam giới cũng có thể bị hạn chế, bị ngăn cản trong thực
hiện những công việc nhất định mà họ u thích và có khả năng làm tốt. Vì vậy,
bình đẳng giới thực chất nhằm hướng tới việc bảo đảm quyền, lợi ích của cả hai giới
nam và nữ một cách hài hòa, thống nhất, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của

mỗi cá nhân, đảm bảo sự phát triển bền vững của gia đình và xã hội. Vì lẽ đó, các

16


quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hơn nhân, gia đình góp phần
quan trọng trong việc thực thi và bảo vệ các quyền con người.
Pháp luật về bình đẳng giới nói chung, pháp luật về bình đẳng giới trong quan
hệ hơn nhân, gia đình nói riêng là khung pháp lý và cơ sở để căn cứ vào đó có các
hành động bảo vệ quyền con người, xử lý các trường hợp xâm phạm quyền con
người hay xâm phạm quyền bình đẳng giới, từ đó bảo đảm cho quyền con người
được bảo vệ và thực thi.
1.2.4. Đảm bảo quyền tự do dân chủ và lợi ích của các thành viên trong gia đình
HN&GĐ ln đóng một vai trị cực kỳ quan trọng trong việc hình thành, nuôi
dưỡng và phát triển nhân cách con người. Việc đảm bảo quyền tự do dân chủ và lợi
ích của các thành viên trong gia đình là hết sức cần thiết để xây dựng nền tảng gia
đình tốt đẹp, phát triển. Tuy nhiên, trong mỗi thời đại hay mỗi chế độ xã hội, vai
trò, quyền lợi của từng thành viên trong gia đình lại có sự khác nhau.
Dưới chế độ phong kiến, thực dân, các tư tưởng “phụ quyền”, “gia trưởng” là
tư tưởng chủ đạo trong hơn nhân gia đình, hay tư tưởng “trọng nam khinh nữ”,
“nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” đã ăn sâu, bén rễ vào đời sống nhiều thế hệ…
khiến cho khoảng cách giới vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đến vị trí, vai trị, quyền
lợi của từng thành viên trong gia đình. Người đàn ông trong gia đình như ông, cha,
con trai luôn được coi trọng hơn phụ nữ như bà, mẹ, con gái. Vị trí trong xã hội của
đàn ơng cũng cao hơn phụ nữ. Phụ nữ sinh ra con trai được quý trọng hơn phụ nữ
chỉ sinh được con gái, quyền hành của anh trai trưởng trong gia đình rất lớn thể hiện
qua tư tưởng “quyền huynh thế phụ”, ngai vàng của các triều đại chỉ truyền cho con
trai chứ không truyền cho con gái, trẻ em gái thường phải làm việc khi cịn ít tuổi
cịn trẻ em trai thì ít phải làm việc hơn, được tạo cơ hội học tập, vui chơi, giải trí
nhiều hơn…

Việc phân cơng lao động giữa vợ và chồng cũng có sự bất bình đẳng khi phụ
nữ phải làm việc nhiều hơn nam giới do ngồi cơng việc hằng ngày, người phụ nữ
cịn phải làm thêm cơng việc nội trợ, chăm sóc, giáo dục con cái… Các công việc
này thường tiêu hao sức lực, thời gian của người phụ nữ, nhưng thường không được

17


trả cơng, khơng được đánh giá đúng. Có sự bất bình đẳng này là do ảnh hưởng của
tư tưởng phong kiến, do sự phân công lao động theo giới truyền thống. Trong sự
phân cơng lao động đó, nam giới giữ vai trị trụ cột, có vị thế quan trọng trong gia
đình, cịn phụ nữ chỉ gắn với cơng việc bếp núc, nội trợ, chăm sóc con cái, và khơng
có tiếng nói trong gia đình.
Cho đến đầu thế kỷ 20, tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, phụ nữ vẫn chưa
có quyền tham gia bầu cử và cũng khơng được đảm nhận một số công việc đặc biệt
như sĩ quan quân đội, giám đốc nhà máy. Các quyền tự do ngơn luận, tự do tín
ngưỡng, hội họp của phụ nữ cũng bị hạn chế hơn nam giới. Phụ nữ thường phải
tuân theo các quy tắc, phong tục, sống theo các quan niệm, tư tưởng hạn chế quyền
tự do như “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” hay
phải tuân theo các tiêu chuẩn như “tam tòng tứ đức”…
Quyền tự do dân chủ là một trong những quyền con người cơ bản mà mỗi con
người ở trong mơi trường gia đình hay xã hội đều phải được hưởng và đã được quy
định ở cả trong các văn bản pháp luật quốc tế. Các thành viên trong gia đình đều
đóng góp cơng sức trong việc xây dựng, phát triển và gìn giữ gia đình thì phải được
hưởng các lợi ích và thành quả như nhau. Gia đình là nền tảng của xã hội, bản thân
mỗi thành viên trong gia đình phải được đảm bảo quyền tự do dân chủ, đảm bảo lợi
ích thì gia đình mới êm ấm và phát triển. Gia đình phát triển thì xã hội mới phát
triển. Do vậy, pháp luật bình đẳng giới về hơn nhân, gia đình phải được xây dựng
trên cơ sở đảm bảo quyền tự do dân chủ và vì lợi ích bình đẳng của các thành viên
trong gia đình.

1.2.5. Thực hiện mục tiêu bình đẳng giới thực chất
Bình đẳng giới và bình đẳng giới thực chất có mối liên hệ rất mật thiết với
nhau. Hai nội dung này vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt, trong một
chừng mực nào đó thì chúng cũng có thể được coi là một. Bình đẳng giới đã được
định nghĩa “là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” [38, Điều 5]. Cịn bình

18


đẳng giới thực chất có thể hiểu một cách đơn giản là sự bình đẳng giữa nam giới và
nữ giới trên thực tế chứ không phải chỉ nằm ở trong quy định của các văn bản pháp
luật hay các chính sách, chương trình, dự án…
Bình đẳng giới có vai trị rất quan trọng. Đảm bảo bình đẳng giới sẽ xóa bỏ
định kiến giới, xóa bỏ khn mẫu hành vi giới, điều chỉnh các vai trị giới theo
chiều hướng tích cực, đảm bảo nam nữ được đối xử một cách công bằng, được tạo
cơ hội, điều kiện để phát triển như nhau theo khả năng của mình, phân cơng lao
động trong gia đình sẽ được thực hiện phù hợp với năng lực, sở thích của mỗi bên.
Để có bình đẳng giới thực chất thì tất cả những quyền như nhau của nam và nữ
về mặt pháp lý phải được trở thành hiện thực. Tuy nhiên, giữa việc ban hành luật và
thực thi luật còn là một khoảng cách khá xa và gặp nhiều trở ngại. Trên thực tế do
ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước hay các điều kiện
cụ thể khác khiến cho nam và nữ không được tạo điều kiện cho việc hưởng quyền
hay thực hiện nghĩa vụ như nhau. Pháp luật quy định rằng nam nữ đều có quyền
được học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chun mơn, nghiệp vụ; tham gia hoạt
động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; sở hữu tài sản… đó là bình đẳng giới về mặt
pháp lý. Nhưng muốn có được bình đẳng giới thực chất thì phải tạo điều kiện, cơ
hội cho nam và nữ được học tập, có việc làm, tham gia các hoạt động chính trị xã
hội như nhau… Ví dụ như: trong thực tế cơ hội tiếp cận việc làm của nam giới sẽ

lớn hơn nữ giới, nhiều doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng nam giới hơn do nữ giới
còn phải sinh con, chăm sóc con cái, nghỉ thai sản hoặc chỉ tuyển dụng nữ giới khi
họ cam kết không sinh con trong vòng một năm đầu sau khi đi làm… Thực tế đó đã
cản trở, hạn chế quyền có việc làm của phụ nữ so với nam giới. Vì vậy cần phải tạo
điều kiện để nam và nữ có thể tiếp cận và có cơ hội làm việc như nhau. Tuy nhiên,
bình đẳng khơng có nghĩa là mọi người phải được đối xử giống như nhau, bất chấp
mọi điều kiện, hoàn cảnh mà cần được hiểu theo nghĩa mở rộng hơn, phải tính đến
điều kiện, hồn cảnh khác biệt của giới nam và giới nữ.
Bình đẳng giới thực chất là bình đẳng trên thực tế giữa nam và nữ trong các
quan hệ hơn nhân, gia đình cũng như trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy

19


×