Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng - Ngữ Văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.28 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng Nguyễn Quang Sáng (còn có bút danh Nguyễn Sáng) sinh ngày 12 tháng l năm 1932. Quê gốc: xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Hiện sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Từ tháng 4 năm 1946, vùng đất Nam Bộ đang trong cuộc chiến ác liệt chống thực dân Pháp, Nguyễn Quang Sáng xung phong vào bộ đội, làm liên lạc viên cho đơn vị Liên Chi 2. Đến năm 1948 được bộ đội cho đi học thêm văn hoá ở trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 1950, về công tác tại phòng chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo (chủ yếu là Phật giáo và Hoà Hảo). Năm 1955 theo (đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy, về làm cán bộ phòng Văn nghệ Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản Văn học, cán bộ sáng tác. Năm 1966 vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972, trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn. Sau ngày giải phóng (4-1975) trở lại thành phố Hồ Chí Minh, giữ chức Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh khóa l, khóa 2 và khóa 3 hiện nay. Nguyễn Quang Sáng là ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 2, khoá 3 và là Phó tổng thư ký Hội Nhà văn khoá 4. ...Không phải kiểu Nam Bộ quê rặt, địa phương tính, văn chương của Nguyễn Quang Sáng có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng sông, cái khoáng đạt, giản đơn của con người miền sông nước. Và quan trọng hơn hết là, ông thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam Bộ. Buổi sáng, tôi chờ Nguyễn Quang Sáng ở cái bàn dưới gốc mận ngoài sân nhà ông. Người nhà nói ông vừa đi đâu đó. Tôi sợ nhà văn quên mất cuộc hẹn, kêu xe ôm rong chơi đâu đó thì khổ nên lập tức gọi di động cho ông. Giọng Nguyễn Quang Sáng qua điện thoại: “Mày ngồi đó đọc báo chơi chừng mươi phút. Tao về liền...”. Trên bàn bề bộn sách và báo, tôi còn thấy một chén chè hay cháo gì đó mà nhà văn chưa kịp ăn đã vội đi. Đúng mười phút sau Nguyễn Quang Sáng trở về. Vẫn cái dáng đi phăm phăm, đầu chúi về phía trước, ông bắt tay tôi: “Tao quên mất tiêu. Dạo này trí nhớ tồi tệ quá chừng!”. Rồi ông cười, lấy từ cái túi nilông ra một cái hộp điện thoại di động đời mới, mới toanh: “Thằng bạn cho cái điện thoại, kêu qua lấy liền, không thì nó đi nước ngoài. Tranh thủ đi. Bây giờ ăn sáng đây...”. Ông bưng chén chè hay chén cháo gì đó lên ăn ngon lành: “Tao ăn ít lắm. Buổi sáng chỉ một chén nhỏ này thôi...”. Khi tôi đưa máy hình lên định chụp thì Nguyễn Quang Sáng vội bỏ chén chè hay chén cháo xuống, dẹp đống sách báo qua một một bên... sửa dáng. Tôi nói, tôi muốn chụp cảnh ông đang ăn sáng. Thế là Nguyễn Quang Sáng tiếp tục ăn. Bữa ăn sáng của ông diễn ra khoảng hai phút... Niềm đam mê đi và viết. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 1 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932 ở xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 14 tuổi ông đã xung phong vào bộ đội. Năm 1954, Nguyễn Quang Sáng tập kết ra Bắc. Từ năm 1958 ông công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1966, ông vào chiến trường miền Nam. Năm 1972, ông trở ra Hà Nội và tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Quang Sáng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong làng văn và nhận được nhiều giải thưởng lớn, trong đó có Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhưng, như nhiều người vẫn thường nói, một đời văn cuối cùng còn lại là ở tác phẩm, ở sức sống của tác phẩm trong lòng bạn đọc. Với Nguyễn Quang Sáng, xin được nói ngay rằng, ông là một trong số ít văn tài của đất Nam Bộ. Ông đã có những tác phẩm “để đời” và ghi dấu vào văn học sử Việt Nam bằng những tác phẩm xuất sắc, đậm chất Nam Bộ. Nhưng, theo lời Nguyễn Quang Sáng thì ông là người thích văn chương Bắc Hà. Ông yêu thích cái nhẹ nhàng, sang trọng của văn chương cũng như ông rất dễ “nhạy sáng” với những vẻ đẹp, những ẩn khuất trong cuộc đời. Điều này, thật ra cũng dễ hiểu vì tuổi trưởng thành của Nguyễn Quang Sáng ở miền Bắc. Ông sống, đọc, nghĩ và viết những dòng đầu tiên trên đất Bắc. Truyện ngắn Con chim vàng là truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Quang Sáng, được viết tại Hà Nội vào năm 1957. Sau này, nhiều nhà bình luận cho rằng, văn chương Nguyễn Quang Sáng xù xì mà trong sáng. Điều ấy đúng, đúng với cái tạng người, đúng cái ý nguyện văn chương của ông. Trong những album hình của Nguyễn Quang Sáng, tôi thấy có tấm hình ông chụp với nhà văn Nguyễn Kiên, nhà thơ Chế Lan Viên. Phía sau bức ảnh có những dòng ghi chú: “Bên chợ Đồng Văn. Kỷ niệm chuyến đi 8/64”. Năm 1964 là năm Nguyễn Quang Sáng bước vào tuổi “tam thập nhi lập”, nhưng trông gương mặt, nụ cười của ông trẻ quá, yêu đời quá. Cầm tấm ảnh trên tay, Nguyễn Quang Sáng cười khà: “Chế Lan Viên, hồi đó cũng trẻ quá hả!”. Nguyễn Quang Sáng là nhà văn xê dịch nhiều, liên tục. Đến giờ ông vẫn thường xuyên rong chơi, nhậu và viết. Đến đâu, ông cũng có “chiến hữu”, có thể là những người chẳng có dính líu gì với văn chương. Có rất nhiều người chụp hình chung với Nguyễn Quang Sáng mà ông không nhớ hết là ở đâu, tên gì. Nhưng ông thích nhìn những tấm hình đó để nhớ, mường tượng. Nguyễn Quang Sáng có nhiều hình chụp chung với cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Paris năm 1989, một đêm ở “Nhà Việt Nam”, Nguyễn Quang Sáng đang chuẩn bị làm MC cho chương trình nhạc Trịnh. Một khoảnh khắc đẹp, khó quên. Và, rất nhiều khoảnh khắc đáng nhớ khác... Có những khoảnh khắc trong cuộc đời đã được ghi hình, nhưng hầu hết nó được chuyển hóa vào trong tác phẩm. Nguyễn Quang Sáng đã có những tác phẩm hay không chỉ trong khoảnh khắc, đó là Đất lửa (1963), Chiếc lược ngà (1966), Mùa gió chướng (1975), Dòng sông thơ ấu (1985), Tôi thích làm vua (1988)... và đến giờ đọc lại vẫn thấy thích thú, xúc động. Với Nguyễn Quang Sáng còn phải ghi nhận ở ông mảng kịch bản phim. Những kịch bản như Mùa gió chướng (1977), Cánh đồng hoang (1978), Pho tượng (1981)... đã góp cho Điện ảnh Việt Nam những tác phẩm giá trị. Nguyễn Quang Sáng mê điện ảnh lắm, mê đến mức ông vẫn thường đánh giá một truyện ngắn, một bút ký hay sẽ hay hơn nếu nó “chuyển thể” được. Cái cách đặt tiêu chí ấy, nếu không hiểu Nguyễn Quang Sáng, có thể có người khó chịu. Nhưng ông thì vẫn luôn tỏ ra là người từng trải, chịu chơi và biết cách tạo dấu ấn.... Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 2 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. Đề: Tình cảm gia đình trong chiến tranh qua phần trích truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng Chiến tranh ! Hai tiếng vang lên nghe thật thương tâm, cũng chính vì hai tiếng đó mà bao người phải khổ đau. Chiến tranh tàn khốc, gây ra các cuộc sinh ly tử biệt, vợ xa chồng, cha xa con, con xa nhà. Chiến tranh không thể tha thứ khi đã cướp đi sinh mạng, xương máu của biết bao người con Việt Nam, nhưng một phần nào, ta cũng càm ơn chiến tranh, bởi vì không có nó, những tình cảm thiêng liêng nhất của cuộc đời không thể nào bộc lộ ra hết được, tình yêu đôi lứa, tình đồng chí đồng đội, tình yêu quê hương, và đặc biệt nhất là tình cảm gia đình. Nguyễn Quang Sáng một nhà văn của thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã ngưỡng mộ trước thứ tình cảm cao đẹp này, ông đã khai thác và xây dụng nên câu chuyện về cuộc gặp gỡ của hai cha con đầy xúc động, đó là “ Chiếc lược ngà” được ông viết vào năm 1966. Câu chuyện kể về cha con ông Sau và bé Thu sau hơn tám năm xa cách mới có dịp gặp lại nhau, nhưng Thu đã không nhận ra cha mình chỉ vì một vét thẹo dài trên má , thay vào đó là sự vô cảm, thờ ơ như căm ghét ông. Nhưng rồi thật bất ngờ, khi ông Sáu chuẩn bị lại đi, Thu mới chịu kêu lên tiếng “ba” với ông Sáu, không còn đủ thời gian để yêu thương nhau, ông Sáu đã ra chiến khu và làm chiếc lược cho con mình. Nhưng cũng sau khi ông làm sau, ông đã hy sinh bởi bọn giặc, trong vài giây cuối cuộc đời, ông đã kịp trao lại chiếc lược cho bác Ba- người bạn của ông – và nhờ đưa lại cho Thu, rồi ông mới ra đi. Đọc qua truyện ngắn này, ta mới thấy được tình cảm gia đình, cụ thể là tình cảm cha con thiêng liêng và cao đẹp biết nhường nào. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất đó là chiến tranh, tình cảm ấy vẫn không biến mất mà vẫn còn ẩn chứa trong mỗi con người. Điều đó đã được thể hiện một cách sâu sắc qua nhân vật ông Sáu. Ông Sáu cũng như bao người nông dân Việt Nam khác, ông phải đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc, mà đành bỏ lại phía sau những gì thân thương nhất của đời mình, ruộng nương, nhà cửa, vợ và cả người con chưa đầy tuổi của mình. Xa nhà suốt tám năm, từng nỗi nhớ lại càng lớn thêm và ngày càng chồng chất “Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương” Nhớ quê, nhớ nhà, nhớ tình làng nghĩa xóm, và ông nhớ da diết đứa con gái của mình. Bởi vì xa con đến tám năm, chưa một lần ông được nghe thấy tiếng nói của con, chưa một lần tận mắt thấy người con bé bỏng, có chăng chỉ là một tấm hình mà vợ ông đã gửi, hòa bình lập lại, được về nhà chỉ có ba ngày ngắn ngửi, ông vô cùng hạnh phúc. Cùng người bạn, bác Ba, ông về thăm nhà, cốt là để gặp con mình, đã xa con quá lâu nên lòng ông cứ nôn nao khi đến gần hơn với nhà, “…cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh” . Và lòng háo hức, niềm khát khao được thấy con, đã thúc giục ông không thể chậm trễ được nữa khi nhìn thấy đứa bé giống đứa con mà mình đã nhìn qua tấm ảnh, “…không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với.”. Rồi hành động đã chuyển thành tiếng nói và những biểu hiện trên khuôn mặt ông, ông kêu to một tiếng : - Thu ! Con, lại gần con ông xúc động vô cùng “..vết thẹo dài trên má phải lại đỏ ửng lên, giần giật, trông rất dễ sợ.” , bật lên hai câu với giọng run run: “-Ba đây con !”. Qua tất cả những điều đó, ta thấy được ở ông là một niềm thương con da diết, nhớ con và khao khát gặp con, Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 3 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng Ng÷ V¨n 9 chính vì thế ông đã không ngăn cản được cảm xúc của mình dâng trào. Nhưng con người ta lại hy vọng quá mức vào một điều để rồi thất vọng cũng vì điều đó, từ một cảm giác vui sướng tột cùng, thay vào đấy là sự hụt hẫng vô bờ của cảm xúc, ông bàng hoàng trước sự sợ hãi, lạnh lùng, xa lánh của bé Thu, niềm háo hức đã trở thành nỗi đau, “…nỗi đau như khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy” . Đó chắc chắn là một cảm giác rất đau đớn và thất vọng, nỗi đau ấy có lẻ còn đau hơn khi ông phải hy sinh trên mặt trận, khi ông mong quay về sẽ được nghe lại tiếng gọi : “ Ba” mà ông chưa từng được nghe từ đứa con bé bỏng của mình, qua đó ta thấy lòng yêu thương con của ông Sáu là rất chân thực và vô cùng to lớn. Nhưng tình phụ tử không cho phép ông khóc ngay lúc này, chính vì yêu con, mà trong mấy ngày nghỉ phép ông không ghét con mà tiếp tục vỗ về và chăm sóc con, làm mọi cách để con có thể kêu lên một tiếng :”Ba” duy nhất. Nhưng trớ trêu thay, ông càng tỏ ra yêu thương bé Thu, cố gắng xóa bỏ một đoạn ngăn cách giữa hai cha con, thì Thu lại nới rộng thêm khoảng cách đó ra. Thứ ông nhận được chỉ là những lời nói trống không, sự vô cảm tàn nhẫn của bé Thu. Nỗi đau tinh thần lại càng lớn dần, khiến ông không thể khóc mà chỉ cười được thôi “Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh cười vậy thôi” , nụ cười mang trong đó là sự ngượng ngạo, sự bất đắc dĩ, cười chỉ để quên đi nỗi đau vô bờ bến nhưng nỗi đau vẫn còn trong lòng. Và từ tâm trạng thất vọng, ông đã trở thành tuyệt vọng khi bé Thu hất trứng cá ra khỏi bát, không thể kìm nén được nữa, bây giờ cũng không thể cười được, nên ông đành giận dữ và đánh thật mạnh vào mông bé Thu rồi hét lên rằng : “ Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?” . Thật là khổ tâm cho ông, tình yêu chưa thể hiện được bao nhiều, đã phải đánh con, nỗi đau đánh con còn lớn hơn cả nỗi đau con không nhận ra cha, bởi vì đánh con tức là phủ nhận tất cả niềm yếu thương mà ông đã dành cho con mình, nhưng ông đành thế, vì ông muốn con biết ông chính là người cha của em. Và rồi, nỗi tuyệt vọng càng kéo dài không nguôi đi được, nhưng ông vẫn không ghét con, chào tạm biệt con ông cũng chỉ nói nhỏ nhẹ: “ Thôi! Ba đi nghe con! “ . Nhưng một lần nữa, chuyện lại càng trớ trêu và đầy bất ngờ, lúc ông cảm thấy không còn một chút hy vọng gì thì bé Thu lại kêu dài một tiếng như xé toang cả khoảng không gian im lặng : “ Ba...a...a…Ba” và điều đó là một món quá vô cũng ý nghĩa đối với ông, yêu con mà phải chịu cảnh thờ ơ của con đến mức giận dữ không kìm nén được thì giờ đây còn gì bất ngờ và hạnh phúc hơn nữa. Chính tiếng kiêu tha thiết của bé Thu đã làm một người lính như ông phải tỏ ra mềm yếu, và xúc động vô cùng, không thể nào ngăn được ông trào nước mắt “…anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con.” Niềm vui sướng có pha lẫn một chút tiếc nuối vì giờ đây ông không thể dành thời gian yêu thương con được nữa, ông phải đi rồi, bởi vậy, mang theo lời hứa “chiếc lược” cũng là lời hứa sẽ quay về nhà để được ở bên con nhiều hơn. Nhưng ước sao ông hãy ở lại bên bé Thu một lúc mà đừng ra đi quá sớm, bởi vì lúc ông lần đầu nghe tiếng gọi “Ba” của Thu cũng là lần cuối cùng mà ông được nghe và thấy mặt con. Ở chiến khu, lòng nhớ con lại càng lớn dần lên, chính vì nhớ con mà ông rất ân hận vì đã trót đánh con, và lòng yêu thương con càng thôi thúc ông làm chiếc lược tặng con mình. Hãy thử cảm nhận được sự vui sướng khi ông tìm thấy chiếc ngà voi làm chiếc lược cho con mình, bằng một vỏ đạn ông “…cưa từng chiếc răng lược, thân trọng tỉ mỉ cố công như người thợ bạc.” , giờ đây ta có thể thấy được chính tình phụ tử, tình cảm gia đình khiến chúng ta như biến thành một con người khác, cũng như ông Sáu là một người lính, nhưng với sự nhớ con vô bờ bến, ông đã trở thành một nghệ nhân kiệt xuất với dụng cụ chỉ là một vỏ đạn và thứ ông chỉ có thể làm duy nhất là chiếc lược ngà cho riêng con gái mình. Không chỉ vậy, thời gian ông làm chiếc lược là thời gian mà ông cảm thấy hạnh phúc nhất, khắc lên trên cây lược dòng chữ : “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, ông muốn ghi dấu thời khắc quan trọng này, chính tình cha con đã làm ông thêm mạnh mẽ để có thể quên đi mùi đạn khói của chiến tranh mà vẫn tiếp tục nâng niu chiếc lược cho con gái. Nhưng rồi mọi chuyện 4 Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn Trường THCS Chí hoà Lop8.net.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng Ng÷ V¨n 9 thật tồi tệ, chiến tranh tàn ác hơn thế, tạo ra vết thẹo để Thu không nhận ra cha, lại còn dập tắt một niềm khao khát nhỏ nho là được tận tay trao chiếc lược cho đứa con gái của mình, ông Sáu đã bị chiến tranh giết chết, một vỏ máy bay giặc bắn vào người ông. Tưởng như một vết thương nặng có thể khiến ông ra đi lập tức, nhưng ông trút hết những hơi thở cuối cùng bằng việc thò tay vào chiếc túi đẫm máu để lấy ra chiếc lược ngà và trao lại cho người đồng đội nhờ đưa cho bé Thu, đến lúc đó, ông mới chịu “…nhắm mắt đi xuôi”. Một hành động thật thiêng liêng cao đẹp, chính tình phụ tử đã góp sức cho ông làm công việc cuối cùng này, “…tình cha con là không thể chết được.”, tình cha con được khẳng định là một tình cảm bất diệt, cao quý, chiến tranh có thể làm sứt mẻ tình cảm gia đình, những không thể làm tổn thương đến tình cảm cha con, bởi vì trong chiến tranh, tình cha con lại càng sâu nặng và thắm thiết hơn, chiếc lược ngà mà ông Sáu đã gửi lại ở cuối đoạn trích chính là một nhân chứng chân thực nhất về tình cảm đẹp đẽ này.. Tình cảm của ông Sáu đối với bé Thu là vô bờ bến nhưng với bé Thu, em cũng rất yêu cha mình. Xa cha từ khi còn nhỏ, mới khi biết nói và biết cảm nhận, em đã có thể thấy thiếu vằng hình ảnh của người cha, người trụ cột trong gia đình mình. Cha là ai ? Cha trông thế nào ? Chắc những câu hỏi đó vẫn hay vương vần trong tâm trí em, hình ảnh người cha duy nhất mà em thấy được là qua bức ảnh cũ kĩ mà ông Sáu đã chụp với vợ. Chính vì vậy, một hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã ăn sâu vào tâm trí và suy nghĩ của em, nên không có gì quá ngạc nhiên khi em tỏ ra “ngơ ngác , lạ lùng” khi mới gặp ông Sáu, phản ứng đầu tiên là “mặt bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “ Má ! Má ! ”” , đó là một cảm giác sợ hãi, cảm giác như thế mình mất ba rồi, qua đấy, ta thấy bé Thu thật trẻ con và thật yêu cha, chính vì trẻ con mà khi thấy vết sẹo trên má ông Sáu thì không cần nghĩ, em vẫn không tin đó là cha, yêu cha bởi vì chỉ có thương nhớ người cha mà em không chấp nhận ai khác làm cha của mình. Rồi trong những ngày nghĩ phép của ông Sáu, đáp lại một niềm mong mỏi kêu lên tiếng “Ba” của ông, Thu chỉ tỏ ra thờ ơ với ông, nói trống không và kiên quyết không kêu lên tiếng “Ba” nào mà tự mình làm công việc chắt nước. “-Vô ăn cơm !... Cơm chín rồi !... Con kêu rồi mà người ta không nghe…. Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái…. Cơm sôi rồi nhão bây giờ !” Hàng loạt những câu nói của bé Thu cho thấy một sự ngang ngạnh, bường bỉnh của cô bé. Từ “người ta” mà em dùng để gọi ông Sáu cho thấy một sự nhất quyết không lên bất cứ tiếng “Ba” nào. Nhưng ta lại cảm thấy đáng thương hơn là đáng trách bé Thu, xuất phát từ lòng yêu cha, nhớ cha và mong mỏi gặp cha, cô bé chắc chắn không gọi bất cứ ai là “Ba” nếu như chưa tin chắc đó là “Ba” mình, chính vì xa lánh ông Sáu ta mới thấy bé Thu yêu ba mình, thật là một tâm hồn ngây thơ của trẻ con. Và rồi, sự ngang ngạnh đã đến mức đỉnh điểm, dẫn đến phản ứng quyết liệt, Thu hất trứng cá ra khỏi bát khi được ông Sáu gắp cho và bị ông Sáu đánh thật mạnh vào mông. Tưởng chừng sau cái đánh đó, cô bé sẽ khóc lên nhưng không “…nó cầm đũa, gắp lại trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm…. mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật, rồi lấy dầm bởi qua sông.” , hành động bất ngờ nhưng cũng thật tự nhiên, bé Thu mạnh mẽ khi không khóc tiếng nào, thay vào đó như là một việc làm trút giận lên chiếc dây lòi tói, nhưng bên trong đó, ta còn cảm thấy rằng, dường như tâm trí bé Thu đã có suy nghĩ ông Sáu là ba của mình, bởi vì thế mà em mới không cãi lại ông Sáu, em khua lòi tói để ông Sáu nếu là cha thì phải đi tìm để dỗ dành mình, toàn bộ hành động tuy thật trẻ con nhưng lại rất đáng thương cho một cô bé như Thu. Và sau khi nghe được bà giải thích, Thu mới hối hận nghĩ lại, trăn trở suốt đêm, thở dài và không ngủ được. Đến khi ông Sáu ra đi, cô bé mới để cho cảm xúc của mình được bộc lộ ra hết. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 5 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng “...kêu thét lên: - Ba…a…a…ba !..... Ng÷ V¨n 9. …-Ba ! Không cho ba đi nữa ! Ba ở nhà với con. …Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa” Đó là một tình cảm đã dồn nén từ rất lâu rồi, hơn tám năm rồi, Thu chỉ mong được biểu lộ tình cảm với ba thôi, tình cảm ấy được thể hiện thật mãnh liệt nhưng lại hòa đẫm sự hối hận của bé Thu. Cái trẻ con trong bé Thu còn được thể hiện lần cuối khi xin ông Sáu mua chiếc lược cho mình. Đó là kết thúc cho một cuộc gặp gỡ cảm động và thật thiêng liêng. Qua cuộc gặp gỡ ấy, ta thấy Nguyễn Quang Sáng tuy không đề cập đến chiến tranh nhưng chiến tranh vẫn luôn hiện lên qua vết thẹo của ông Sáu. Kết quả của tám năm đi lính xa nhà của ông sáu cũng là nguyên nhân khiến bé Thu không nhận ra cha mình, giá như không có vết thẹo ấy thì bé Thu đã được hưởng ba ngày tuyệt vời trong tình yêu thương của cha mình, nhưng nếu không có vết thẹo ấy, tình cảm gia đình cũng không được thử thách và bộc lộ lên được, tình cảm cha con mà vì thế đã trở nên thiêng liêng cao đẹp hơn trong tình cảnh chiến tranh. Câu chuyện với tình huống bất ngờ độc đáo, khi bé Thu không nhận ra cha mình, qua đó làm nổi bật lên tính cách, tình cảm cha con thực sự giữa ông Sáu và cả bé Thu. Ngôi kể bằng nhân vật bác Ba tạo nên sự chân thực, khách quan và tự nhiên làm tăng thêm yếu tố cảm xúc. “Chiếc lược ngà” là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng. Bằng một sự cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình trong chiến tranh, ông đã gợi lên một tình cảm cao đẹp, thiêng liêng , đẹp đẽ, và trên thực tế còn rất nhiều tình cảm khác mà ta cần phải trân trọng và giữ gìn. Chiếc lược ngà (Phần đầu - cuối) Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Tháp Mười mà xung quanh nước đã lên đầy, nói cho đúng đây là cái trạm của đường dây giao thông, nhà nhỏ nhưng người lại đông. Chưa đến chuyến đi, chúng tôi còn phải đợi. Ban ngày, chúng tôi chẳng biết đi đâu, hết nằm lại ngồi, có lúc thấy cuồng chân, thật tù túng, nhưng lại có cái thú bù lại là thọc cần câu ra khỏi nhà để câu cá. Ngày câu cá đã đủ ăn rồi, đêm không ai muốn câu nữa. Trong lúc nhàn rỗi ấy, chúng tôi thường hay kể chuyện. Và tôi nghe câu chuyện này của một đồng chí già kể lại. Ông vốn là người hay kể chuyện - nhiều nhất là chuyện tiếu lâm, có cả tiếu lâm kháng chiến nữa, chuyện nào cũng làm cho chúng tôi cười lăn, cười bò. Trước khi kể, bao giờ ông cũng cười mỉm, mặt trở nên hóm hỉnh, đúng là ông lão có duyên già. Nhưng hôm ấy, ông đâm ra khác thường. Ông già kể nhưng vẫn ngồi im, đầu hơi cúi xuống, trầm lặng, mặt ngước nhìn ra mênh mông. Chắc là một chuyện cảm động, chúng tôi đoán như vậy và không đùa nữa. Bên ngoài, một cơn gió ù thổi tới. Cái trạm này - một ngôi nhà cất chen vào giữa một chòm cây giữa khu rừng tràm thưa, mỗi khi có một cơn gió, sóng nối nhau đập vào tàn cây, nhà lại rung lên và lắc lư như một con thuyền đang chơi vơi giữa biển. Sóng đập đều đều vào các chòm cây. Đàn cò đứng ngủ không yên, một vài con vỗ cánh bay chấp chới. Sóng gió như nhắc nhở ông điều gì, ông nghiêng tai lắng nghe. Khi cơn gió thổi qua, mặt nước trở lại yên lặng, ông mới ngẩng lên và nói. Ông nói với chúng tôi mà như nói với cả trời nước vậy, ông không nhìn vào chúng tôi mà nhìn ra biển nước, chân trời và các vì sao.. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 6 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. - Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tôi cứ bàng hoàng như vừa thấy một giấc mơ - ông mở đầu với giọng trầm đục: - Hôm đó, tôi đi từ trạm N. G. đến L. A. Khi chiếc xuồng máy đuôi tôm vừa xô ra bến thì chúng tôi ai cũng muốn biết người lái ấy là ai. Không phải tò mò mà cần phải biết. Bởi vì trước khi đi, người trạm trưởng có báo cáo với chúng tôi đó là một đoạn đường dài, một đoạn đi xuồng máy, một đoạn đi bộ, đi xuồng dễ gặp trực thăng soi, anh em phải bình tĩnh, không được nhốn nháo, không được tự động mà phải tuyệt đối tuân theo sự điều khiển của người lái. Nói như vậy có nghĩa là sinh mạng mình phải hoàn toàn phó thác cho người cầm lái ấy, có phải không các bạn? Cho nên, tôi cần nhìn, cần biết rõ người đang cầm giữ sinh mạng mình. Nhưng trời đã tối rồi, tôi chỉ thấy đó là một cô gái người mảnh khảnh, vai mang cây “cạc- bin” bá xếp của Mỹ, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng. Trước đó, tôi có được nghe tiếng đồn trạm này có một cô giao liên rất thông minh. Một hôm, cô dẫn một đoàn khách sắp sửa qua sông, cô để khách dừng lại ngoài ruộng xa. Cô và một anh giao liên nữa tiến trước dọn đường. Đến vườn cây bờ sông, cô thấy mình đã lọt vào ổ phục kích của địch. Nhưng cô không bối rối. Cô vừa gọi người bạn của mình vừa nói, cô cố ý nói lớn cho bọn địch nghe: “Tình hình yên, không có gì, anh trở lại dẫn khách đi, còn tôi sang sông lắc xuồng đem qua”. Trong câu nói ấy có ám hiệu. Anh giao liên liền quay lại, êm ái đưa khách bọc qua ngả khác, vượt sông cách đó độ một vài cây số. Còn cô ta, trước khi qua sông cô còn gài lại hai trái lựu đạn. Cô qua sông, thế là thoát. Còn đám biệt kích kia, bọn nó tưởng thật, định hốt cả một đoàn khách, nên chẳng dám rục rịch, mà cứ chờ. Chờ mãi, bọn nó biết, nó chửi rủa nhau, trong lúc lục tục kéo về lớ quớ thế nào lại vấp cả hai quả lựu đạn gài, rụng hết mấy mạng. Qua chuyện đó, người ta thêm thắt rằng cô giao liên ấy có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là Ngụy nữa. Tôi nghĩ, nếu người nữ giao liên ấy là cô đang lái chiếc xuồng máy này thì mình không đến nỗi lo lắm. Tôi muốn hỏi nhưng thấy không tiện nên đành phải nói khéo: - Ở trạm này có mấy cháu nữ vậy hở chú? - Dạ một chị là chị nuôi với cháu nữa là hai. Vậy là cô nữ giao liên này rồi, tôi cảm thấy mừng. Nghe giọng cô nói, tôi đoán cô bé độ mười tám hai mươi là cùng. Tôi cảm thấy mến, muốn hỏi thêm nhưng thấy cô đang lom khom quấn dây vào bánh trớn nên lại thôi. Quấn dây vào bánh trớn xong, cô đứng thẳng người, quay lại nói với xuồng sau: - Tôi đi trước nhé! Mấy anh giao liên xuồng sau nhao lên: - Thôi chị Hai đi trước đi. - Chị út đi mạnh giỏi nhá! Người gọi chị Hai, người gọi chị út, chẳng biết cô thật thứ mấy. Cô đáp lại mấy câu láu lỉnh, gọi mấy chú giao liên là em rồi quay lại chúng tôi, hạ giọng hết sức lễ phép:. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 7 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. - Các bác, các chú, các anh có gì quan trọng nên để trong túi áo, hoặc để trong một cái gói riêng. Lỡ gặp trực thăng bắn hoặc gặp biệt kích thì đồ qúy không bị mất, bị cháy. Cô báo cho chúng tôi những điều không may có thể xảy ra nhưng giọng nói lại dịu dàng - dễ thương nữa - khác hẳn với giọng nói căng thẳng của ông trạm trưởng, nên tôi thấy không lo lắm. Nói xong, cô khom lưng, giật máy. Xuồng rung lên theo tiếng máy nổ giòn, từ từ tách ra khỏi vòm cây rậm, rồi rào rào lướt tới. Gió thổi mát cả người, mát đến từng chân tóc. Nghe cô dặn, anh em khách lúi húi mở bòng. Còn tôi, tôi có cái gì qúy ngoài giấy tờ, tiền ăn đường đã để sẵn trong túi? Tôi chợt nhớ đến cây lược nhỏ. Tôi liền mở bòng, mò lấy cây lược, cho vào túi nhái đựng giấy tờ, bỏ vào túi ngực, rồi cài kim tây lại thật cẩn thận. (Phần giữa: SGK Văn 9-Tập 1) ... Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật thì cũng đã đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được - tìm thấy mồ mả, chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết - cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Tôi lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế, hỏi vậy làm sao mà chịu được? Chúng ta buộc phải cầm súng. Sau khi có căn cứ khá an toàn, người nhà tôi có đến thăm. Tôi định gởi cây lược ngà về cho cháu Thu. Nhưng chị Sáu và cháu Thu không còn ở làng nữa. Qua những lần tố cộng, những trận càn, những trận đốt làng dồn dân của bọn Mỹ, không có mấy năm mà làng nước tan tác đi nhiều lắm. Mỗi người đi mỗi nơi chẳng ai được tin ai. Người nhà tôi bảo có lúc nghe chị Sáu chạy lên Sài Gòn, có lúc lại nghe chị Sáu lại quay về Đồng Tháp, vì thế mà tôi giữ mãi cây lược của cháu. Tôi cầm cây lược nhìn ngắm, lòng thấy bùi ngùi. Trong lúc đó tiếng máy vẫn nổ giòn, và tôi lại muốn nhìn rõ cô giao liên - người đang giữ sinh mạng của mình. Đêm không tối, cũng không sáng, nền trời tràn qua nhiều lớp mây mỏng, rải rác một vài chòm sao. Trời sáng mập mờ - Tôi chỉ nhìn thấy được dáng người của cô giao liên, gương mặt như hơi tròn và một đôi mắt, đôi mắt của người con gái thật là khó tả. Chẳng hiểu cớ sao, từ cái ánh mắt ấy, tôi dần dần thấy một người quen, quen lắm. Tôi cố nhớ, nhớ không ra, tôi thấy mình lẩn thẩn. Bỗng có tiếng kêu thất thanh: - Máy bay ! - Máy bay ! Xuồng liền chòng chành, như có người định lao xuống, người nhốn nháo và nhiều tiếng lao nhao lên: - Tấp vào !. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 8 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. - Đâu? - Đèn nó ở phía sau kìa! - Tấp vào, tấp vào. Phản lực! Cô giao liên cho máy nổ nhỏ dần, quay lại sau một lúc rồi bảo: - Không phải đâu, sao trên trời đó mà. Trong lúc mọi người đang lo, có người hoảng hốt, có người định nhảy thì giọng của cô bình tĩnh như vậy đó. Có người chưa thật tin, nhưng trước thái độ thản nhiên của cô, mọi người lại ngồi yên. "Sao trên trời đó mà", giọng nói nhỏ nhẹ và ngọt ngào. Và cô lại cho máy nổ to. Sau mấy ngày đi bộ, được ngồi trên chiếc xuồng máy thật là thích thú. Nhưng nghĩ đến máy bay, tôi lại thấy phiền. Tiếng máy đuôi tôm nổ to quá như át cả tiếng máy bay. May mà gặp cô giao liên bình tĩnh, cô mà rối, chắc có người đã nhảy rồi, xuồng chắc cũng chìm mất. Tôi cố không nghĩ gì khác, tập trung lắng nghe tiếng máy bay. Xuồng bắt đầu vào một quãng kinh trống, hai bên bờ không có một ngôi nhà, xa xa một chòm tre, một lùm cây, hai bên là cánh đồng hoang. Tôi sốt ruột muốn cho xuồng lao nhanh hơn. Hình như hiểu tâm trạng tôi, cô cho máy nổ to. Sóng trước mũi xuống trào lên kéo thành những đợt sóng dài, làm run rẩy đám cỏ hai bên bờ, vỗ bập bềnh các giề lục bình và các đám nghề(2) mọc hoang. Trong lúc mọi người đang yên tâm, đang thích thú ngồi trên chiếc xuồng lao nhanh thì cô giao liên tắt máy báo tin: - Máy bay! Cô vừa nói vừa tấp sát lại bụi tre. Chiếc xuồng sau cũng tấp lại. Rõ ràng là có tiếng máy bay, tiếng cánh quạt "lạch bạch" của đám trực thăng Mỹ. Tôi chẳng biết cái lỗ mũi của cô thính đến cỡ nào, còn cái tai của cô rõ là thính thật, tiếng máy bay lẫn trong tiếng máy đuôi tôm, thật khó nghe. Xuồng chòng chành, có người chới với muốn té: - Nó còn xa lắm! - Cô trấn tĩnh chúng tôi - Các bác, các chú bước lên phân tán mỏng, tìm núp vào chỗ kín. Nếu nó có soi tới các bác, các chú nhớ đừng động đậy - Trong lúc cô nói, anh em khách đã vọt lên bờ hết rồi. Tôi là người cuối cùng. Tôi vừa bước lên thì cô bảo: - Bác cứ ở đây đi. Xuồng ít người không sao! Nếu một người nào khác bảo như vậy, tôi chắc không nghe. Trước thái độ của cô, ngồi cùng một chiếc xuồng với cô tôi thấy vững hơn ngồi trong công sự. Đám trực thăng Mỹ từ đầu kinh soi lần lần tới, tiếng động cơ của nó rầm rộ, như hàng chục chiếc tầu thủy đang chạy. ánh sáng ngọn đèn soi của nó mỗi lúc một gần. Bọn Mỹ, ngụy thường đi ba chiếc, một chiếc tìm người, tìm mục tiêu, còn hai chiếc soi đèn. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 9 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. thì bắn. - Lấy lá cây che kín, đừng động đậy nhé! - Cô lại nhắc tôi. Đó là lần đầu tiên tôi bị trực thăng soi, khi ngọn đèn của nó soi qua - cái thứ ánh sáng chói chang và tiếng cánh quạt đập trên đầu, tôi thấy xuồng mình rõ quá, tôi thấy cái be dài, thấy những lỗ trống của ba lô dưới lớp lá ngụy trang, thấy cỏ quặn lên như trong một cơn lốc, tôi nghĩ: "Thôi chết rồi". Tôi rút vai thu mình cho nhỏ lại. Như đoán được tâm trạng của tôi, cô lại nhắc: - Nó không thấy rõ mình như mình thấy mình đâu! Lần này, lời cô nói với tôi không hiệu quả nữa. Phút chốc tôi lại muốn lao xuống nước. Nhưng tôi kịp trấn tĩnh. Rồi cái ánh sáng ma quỷ ấy xa dần với tiếng động cơ rầm rộ mỗi lúc mỗi xa. Đêm lại mờ mờ đi. Tôi vẫn ngồi im vì còn lo nó quay trở lại. Cô giao liên nói như an ủi tôi: - Nó làm coi dữ vậy, nhưng nó chẳng thấy cái gì đâu. Miễn là mình bình tĩnh, đừng động đậy - Đoạn cô nhìn ra cánh đồng, gọi anh em khách. Anh em có người ướt nhem, vừa thay quần áo, vừa chửi rủa. Xuồng lại nổ máy. Quá nửa đêm, đoàn chuyển lên đi bộ - Chúng tôi đi men theo bờ mẫu, băng qua cánh đồng, bờ mẫu chỗ bùn lầy, chỗ lồi lõm, chỗ nhầy nhụa, chúng tôi đi sát vào nhau và hầu như thay phiên nhau trượt té vậy. - Người này đang lom khom ngồi dậy, người khác lại đánh "ạch" ngã xuống ruộng, chúng tôi, dép cầm tay, mò mẫn đi từng bước, cứ thế mà đi. Gần đến bờ sông, giao liên cho chúng tôi dừng lại, phái trinh sát đi bám đường. Hai trinh sát đi khoảng hai mươi phút thì đụng biệt kích. Lần này bọn nó không nằm phục trong đám vườn dọc bờ kinh, nó chồm ra ngoài ruộng. Súng nổ tới tấp. Đạn rít veo véo qua đầu chúng tôi. - Nằm xuống! Cô giao liên ra lệnh - Anh Tư dẫn khách đi, tôi ở lại. Chẳng hiểu sao, lúc đó tôi muốn kéo cô cùng đi. Qua giọng phân công của cô, tôi đoán cô là nhóm trưởng. Vừa nghe tiếng cô, nhìn lại cô đã vụt chạy đâu rồi. Đạn đan thành lưới rít qua đầu chúng tôi, rơi "chéo chéo" trên mặt ruộng, khiến chúng tôi phải nằm dán người vào bờ mẫu không sao ngóc đầu lên được. Trong lúc đó, phía bên trái, bỗng có nhiều tiếng "cạc bin" nổ. Lập tức đường đạn bay về hướng đó. Tôi đoán biết, cô giao liên đang dẫn đường đạn bay về mình. - Chạy ! - Anh Tư, người giao liên ra lệnh. Đoàn khách chúng tôi liền vọt lên. Tôi không phải là người dạn súng cho lắm, nhưng lúc đó, tôi không thấy lo cho mình nữa, tôi cứ nghĩ đến cô giao liên. Đoàn khách chúng tôi - không hàng ngũ, chạy bừa qua ruộng lúa, đâm thẳng ra ven cây, rồi vượt qua sông. Tiếng súng mỗi lúc một dữ dội. Tôi cố lắng nghe tiếng "cạc bin" của cô, nhưng không tài nào nghe được, lòng cứ xôn xang.. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 10 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. Nhờ có tiếng súng biệt kích mà chúng tôi đến rặng cây làng rất sớm. Anh em bên kia trạm - trạm L. A, cũng vừa đến, không phải chờ lâu. Đoàn tập hợp lại trong một đám dứa bị chất độc hóa học, tàu lá lơ thơ, trống trải. Đoàn khách còn đủ mặt, có một vài người bị mất dép, có người qua sông bị trôi ba lô. Còn tôi, già mà hãy còn cứng. Tôi chả mất một món gì. Ai cũng mệt mỏi, anh em giao liên cho chúng tôi nằm nghỉ đến sáng. Có người không cần phải mắc võng, cũng chẳng trải ni lông, nằm vật xuống đất, lấy bòng làm gối, ngáy pho pho. Còn tôi, vì nhiều nỗi, nên cứ lơ mơ. Tôi đang trên đường về tỉnh nhà. Làng nước đâu còn như xưa nữa. Người ta bị rời nhà, bị dồn vào các trại tập trung, rồi người ta lại phá ra, cả vườn tược cũng thay đổi. Tôi nghe nói vậy, nhưng không thể hình dung ra được. Tôi cứ nhớ lại cảnh cũ. Nhớ những lần trở về, nhớ cảnh chia tay của cha con anh Sáu mà cây lược tôi vẫn còn giữ đây. Trong khi nghĩ miên man, đôi lúc tôi chợt nhớ đến anh em ở lại chặn bọn biệt kích. Nhất là cô giao liên. Chẳng hiểu cô bé và anh em giao liên ra sao. Mệt quá rồi tôi cũng thiếp đi... Nghe đâu đây có tiếng chân đi, tiếng người nói, tiếng cười đùa. Tôi chợt tỉnh dậy, thấy trời đã đâm mây ngang, màn đêm như vén dần ra cánh đồng. Tôi thấy một nhóm người, chẳng nghe họ nói gì, nhưng biết là họ đang kể lại những chuyện sôi nổi. Và tôi nhìn thấy, cô giao liên, quần áo cô bùn đất bê bết và đẫm ướt. Thế là họ về kịp rồi. Tôi vừa đến họ cũng vừa chìa tay ra. Bây giờ tôi mới nhìn rõ cô. Cô vừa chặn địch, vừa bước ra khỏi chỗ nguy hiểm mà mặt cứ phơi phới. Mặc dù nước da cô bị rám nắng, tôi trông cô không quá hai mươi tuổi. Con gái hai mươi tuổi không thể có cặp mắt trong sáng như thế, và cô mới ngây thơ làm sao, cô vẫn còn đeo bông tòn ten, cô đi dần về phía tôi, tôi bỗng muốn tỏ lòng mến phục của tôi đối với cô, cả lòng cảm ơn nữa. Nhưng chẳng lẽ lại nói như vậy, tôi mỉm cười chào cô và làm quen: - Này cháu. Bác lo cho cháu quá! Cháu thứ mấy? - Dạ cháu thứ hai. - Sao bác lại nghe có người kêu cháu là chị út? Chắc là cháu đã có... - Dạ không! - Cô giao liên chận câu nói của tôi lại - cháu vừa thứ hai vừa thứ út vì cháu là con một mà! - Cháu là người ở làng nào mà sao bác thấy quen quen. - Dạ cháu ở Cù Lao Giêng! Nghe đến tên làng, tôi bỗng giật mình. Nhìn cái đôi mắt cô bé, ngực tôi bỗng phập phồng, và như có linh tính, tôi liền hỏi lại, hỏi dồn dập: - Có phải Cù Lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa không vậy cháu? - Dạ phải. - Cháu tên gì?. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 11 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. - Cháu tên Thu. - Thu à? Tôi lặp lại và kinh ngạc . Tôi lặp bặp hỏi tiếp: - Có phải ba cháu là Sáu, má cháu là Bình phải không? Cô bé kinh ngạc đến nỗi không nói được nữa, nó mở tròn mắt nhìn khắp người tôi. Trong lúc đó, anh em giao liên trạm L.A. kêu khách chuẩn bị lên đường. Nhưng tôi chẳng để ý cũng chẳng muốn nghe, tôi quay lại và bảo: - Chờ tôi một chút. Tôi quay lại cô bé. Cả hai người vẫn còn ngạc nhiên. Cô bé vẫn tròn mắt nhìn tôi, đúng, đúng, đúng là đôi mắt của con cháu. Tôi thầm nghĩ, và bảo: - Có phải không cháu? - Dạ... Sao bác biết? Tôi cố nén xúc động nhưng cũng lặp bặp nhắc lại: - Bác là bác Ba đây này. Cháu có còn nhớ lúc ba cháu đi, ba cháu có hứa mua cho cháu cây lược không? Cô cháu khe khẽ gật đầu: "Dạ nhớ, dạ nhớ". Các bạn ạ! Trong kháng chiến có những cuộc gặp gỡ thật tình cờ! Tôi vừa nhìn cháu, vừa móc túi lấy ra cây lược. - Ba cháu gởi cho cháu cây lược ngà này đây. Cây lược này do ba cháu làm. Đôi mắt của cháu lại to tròn hơn, mặt xúc động đến thẫn thờ. Cháu đưa tay nhận cây lược. Cây lược như đánh thức kỷ niệm ngày chia tay, ngực cháu phập phồng. Thấy cháu nhìn ngắm cây lược, tim tôi bỗng nhói đau. Tôi biết cháu đang bàng hoàng trước hạnh phúc bất ngờ, tôi không muốn làm gì xao động đến hạnh phúc của cháu, tôi thấy cần phải nói dối: - Ba cháu vẫn khoẻ, ba cháu không về được, nên gởi cho bác. Cháu Thu liền chớp mắt nhìn tôi, môi mấp máy run run: - Chắc là bác lầm, cây lược này không phải của ba cháu. Tôi đâm ra thất vọng, hoang mang nữa, tôi hỏi lại: - Ba cháu tên Sáu, má cháu tên Bình phải không? - Dạ phải - Hình như cháu muốn khóc, mắt cháu đỏ hoe nhưng cố nén và nói:. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 12 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. - Nếu cháu không lầm thì chắc bác sợ cháu buồn nên bác nói giấu cháu. Cháu biết cha cháu chết rồi. - Cháu chớp mắt, hai giọt lệ ứa ra, vỡ tràn qua đôi mắt - Cháu chịu đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu xin má cháu đi giao liên... Cháu còn muốn nói gì nữa, nhưng giọng bị tắc nghẹn đầu cúi xuống, mái tóc khẽ run run. Còn tôi , tôi lỡ nói dối, nên chẳng biết thế nào nữa, đành im lặng. Trong khi đó, anh em trong đoàn táo tác gọi tôi, giục tôi đi. Không thể nán lại được nữa, tôi đành phải vội vàng hỏi xin cháu địa chỉ, hỏi thăm qua mẹ cháu và bà con. Nỗi mừng gặp gỡ bất ngờ khiến tôi chưa hết bàng hoàng thì lại phải chia tay. Nhìn cháu tôi bỗng buột miệng nói: - Thôi, ba đi nghe con! Tôi không nghe cháu đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt của cháu mấp máy. Đi được một quãng xa nhìn lại, tôi thấy cháu cố đi theo tôi một đoạn đường. Cháu dừng lại trên bờ mẫu những đợt sóng lúa xanh nhỏ nối đuôi nhau dập dờn như chạy đến vỗ về cháu. Sau lưng cháu là đám dừa bị chất độc hóa học mà tàu lá chỉ còn những cọng khô như những chiếc xương cá khổng lồ treo lủng lẳng, đọt non vừa mới đâm lên, xa trông như một rừng gươm. Lúc chia tay, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi nghe tiếng gọi "ba" của cháu, và tiếng "ba" như vang lên từ trong tâm tôi.. NGUYỄN QUANG SÁNG n. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng: Hồi nhỏ tui rất dốt văn Nhà văn Nguyễn Quang Sáng từ lâu đã quen thuộc với giới học trò. Học sinh cấp 2 được học tác phẩm Chiếc lược ngà, học sinh cấp 3 học Quán rượu người câm cùng những truyện ngắn trong phần đọc thêm như: Con gà trống, Tiếng chày giã gạo… Có nhiều tác phẩm trong SGK, biên kịch nhiều bộ phim nổi tiếng như: Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng… thế nhưng ít người biết rằng nhà văn Nguyễn Quang Sáng- như ông tự nhận- là hồi nhỏ rất dốt môn văn! * “Thằng Sáng mà cũng viết được văn, kỳ vậy ta!” Trong tưởng tượng của nhiều người, nhà văn ắt hẳn phải là người văn hay chữ tốt. Cứ theo hệ qui chiếu ấy mà xét thì nhà văn Nguyễn Quang Sáng phải là người có năng khiếu bẩm sinh và học cực kỳ giỏi môn văn. Cũng như nhiều người đã nghĩ như vậy, tôi đem câu hỏi này hỏi tác giả của nhiều tác phẩm trong SGK mà mình đã được học. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng lập tức phủ nhận: “Đâu có, đâu có. Nói cho trung thực hồi nhỏ tui học dốt môn văn lắm. Tui còn nhớ một bài làm văn của mình chỉ được 0,5/20 điểm. Tui dốt văn không phải do thầy dạy dở mà do mình không chú tâm học thôi. Nhưng bù lại tui giỏi các môn tự nhiên, đặc biệt là môn toán nên vẫn lên lớp đều đều”.. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 13 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng. Ng÷ V¨n 9. Sau này, nhiều bạn bè học cũ biết ông Nguyễn Quang Sáng thành nhà văn, có người đã ngạc nhiên thốt lên: “Thằng Sáng mà cũng viết được văn, kỳ vậy ta!”. Chính bản thân nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng không nghĩ mình sẽ cầm bút làm công việc sáng tạo nhọc nhằn này. Vậy ông Nguyễn Quang Sáng thành nhà văn là do đâu? Ông trả lời thật đơn giản: “Chính cuộc sống thôi thúc mình cầm bút viết cái gì đó cho đỡ buồn phiền”. Những gì Nguyễn Quang Sáng nhìn thấy trong cuộc sống được ông chuyển tải thông qua trí tưởng tượng của mình thành tác phẩm. Nhưng ông cũng nói thêm, nhà văn khác với người thường là nhờ bản năng trong người. Ông ví dụ: “Cũng chứng kiến một sự việc như bao người khác nhưng anh nhà văn lại bị thôi thúc bởi bản năng trong người mà cầm bút”. Từ đó ông nói đến chuyện học giỏi văn không liên hệ gì hết đến danh phận nhà văn. Như trong truyện ngắn Chiếc lược ngà, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã kể bối cảnh ra đời: “Ngày 1/1/1966, từ Hà Nội, tôi cùng với một số văn nghệ sĩ và một đoàn khoảng 40 người vượt Trường Sơn về chiến trường miền Nam. Tất cả mang dép cao su, ngày đi đêm nghỉ, đói và sốt rét, gần 4 tháng thì về đến căn cứ của Trung ương cục, được gọi là R. Cũng trong năm 1966, bắt đầu mùa nước nổi, tôi xuống chiến trường đồng nước Tháp Mười. Đến đồng bằng, người giao liên đầu tiên mà tôi gặp được là một cô gái khoảng 17, 18 tuổi tên Thu. Cô giao liên đưa tôi xuống chiến trường vào một đêm tối trời bằng xuống máy đuôi tôm xuôi theo dòng sông Vàm Cỏ Đông. Trên chiếc xuống đầy lá ngụy trang, có nhiều giề lục bình. Thấy lạ tôi hỏi cô giao liên, cô trả lời lục bình cũng là lá ngụy trang. Tôi nhớ thời kháng Pháp chỉ cần ngụy trang vào ban ngày, ban đêm đâu cần. Nhưng nhờ cô giao liên, tôi mới hiểu thêm thời này ngay cả ban đêm cũng cần vỏ bọc vì trực thăng địch rình suốt. Sau chuyến đi này tôi hình thành câu chuyện Chiếc lược ngà. Khi tôi về chiến trường miền Nam, tôi như người vừa rời khỏi ghế nhà trường bắt đầu bước vào đời, cuộc đời của chiến tranh, nên mọi thứ xung quanh như rải màu lên trang giấy trắng của tâm hồn tôi. Lúc viết Chiếc lược ngà, tôi viết một mạch trong buổi sáng trên căn chòi cạnh sông, kê giấy lên đầu gối mà viết. Tất nhiên, câu chuyện tôi đã kết hợp hình ảnh cô Thu giao liên và cảnh sum họp rồi chia ly của những gia đình mà tôi từng biết. Có thể nói trong Chiếc lược ngà với tôi có hai câu chuyện. Hai chuyện này chẳng liên quan gì đến nhau nhưng thông qua trí tưởng tượng tôi xâu chuổi lại thành một câu chuyện". Như vậy, quyết định thành nhà văn hay không quan trọng nhất là trí tưởng tượng và cuối cùng là hành động viết, vì không viết sao thành tác phẩm được dù nhiều người mơ mộng, tưởng tượng còn hơn tôi”. Từ chuyện sáng tác, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đề cập đến vấn đề dạy văn trong nhà trường thông qua việc học của con cháu mình. * “Vặn” lại giáo viên dạy văn Nhà văn Nguyễn Quang Sáng tiết lộ đạo diễn Nguyễn Quang Dũng – con trai ông làm biên kịch, viết báo … cũng đều do tự học chứ không hề nhờ vả ông kiềm cặp hay học bất cứ trường lớp viết lách nào. Thời Nguyễn Quang Dũng cũng như nhiều con cháu khác của ông học phổ thông, các thầy cô biết phụ huynh Nguyễn Quang Sáng là nhà văn có tác phẩm trong SGK nên thường mời ông lên nhà trường “mắng vốn”. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932 tại huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Ông bắt đầu cầm bút năm 20 tuổi với tiểu thuyết Đất lửa. Đến nay ông đã xuất bản hơn 30 đầu sách.. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 14 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Chuyên đề Nguyễn Quang Sáng Ông đã nhận nhiều giải thưởng văn học nghệ thuật, trong đó có giải thưởng Hồ Chí Minh.. Ng÷ V¨n 9. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng kể chuyện vui: “Nhiều lần nhà trường mời tui lên họp, tôi bị cô giáo chủ nhiệm và cô giáo dạy văn than phiền, đại ý: ông là nhà văn mà con ông học văn dở ẹc!. “Mắng vốn” như vậy một vài lần thì được, đằng này nhiều lần quá nên tui bực mình hỏi vặn lại: Cháu nó viết bài theo ý nó hay theo ý cô? Ông cũng là một nhà biên Theo ý cô thì giỏi, còn theo ý nó là dở à!”. kịch với nhiều bộ phim đã Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng dạy văn theo lối đóng khung, trở thành kinh điển của điện ảnh VN. Công việc chia một bài văn thành nhiều thang điểm… là trói buộc trí tưởng tượng biên kịch cũng do ông tự của học trò. Vì rằng học các môn khoa học tự nhiên, nhất là môn toán người ta cũng cần trí tưởng tượng vậy thì một bài văn, thơ hay cũng học nhờ đi xem phim phải để người học hiểu các nghĩa khác nhau của nó chứ. nhiều chứ không hề thông qua trường lớp học hành điện ảnh gì hết. Theo nhà văn Nguyễn Quang Sáng, công việc của thầy cô giáo dạy văn giỏi chính là truyền đạt niềm yêu thích văn, thơ cho học trò của mình. Ông nói: “Cái hay, cái đẹp ai không thích. Vậy phải làm sao chỉ ra chỗ nào hay, chỗ nào giá trị trong tác phẩm để học trò biết rằng truyện ngắn, bài thơ này giá trị. Và phải khuyến khích học trò phát hiện thêm những chi tiết mới lạ bổ sung vào những gì thầy cô giáo đã biết. Hơn nữa, bản thân các thầy cô phải nghiên cứu thêm để cho giáo án năm sau khác năm trước chứ năm nào cũng một giáo án cũ thì người dạy cũng chán mà người học cũng nhàm. Mấy đứa nhỏ trong nhà tôi học văn thấy mà tội. Nói chung vấn đề này còn là câu chuyện dài kỳ của những người làm giáo dục”. * Nếu tăng giá SGK, chúng tôi sẽ đòi bản quyền! Trong câu chuyện của mình, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đề cập đến vấn đề thời sự là việc tăng giá SGK. Ông cho biết những tác phẩm trong SGK của ông không hề có nhuận bút vậy thì tăng giá SGK ông không đồng tình: “Nếu SGK phát không cho học trò thì tui chẳng màng đến chuyện thù lao tác phẩm của mình làm gì. Đằng này có bán, có lợi nhuận lại còn đòi tăng giá thì những nhà văn như chúng tôi rất bức xúc. Tui có nói với một số anh em có tác phẩm trong SGK phải cùng nhau làm đơn đề nghị NXB xem xét lại chuyện này nếu không chúng tôi sẽ đòi bản quyền!” – nhà văn nói.. Gi¸o viªn : Lª ThÞ Thanh HuyÒn. 15 Lop8.net. Trường THCS Chí hoà.

<span class='text_page_counter'>(16)</span>

×