Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Giáo án môn Ngữ văn 11 - Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" và "Hai đứa trẻ"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.44 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" và "Hai đứa trẻ" TS. Hoàng Thị Huế Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế. Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống. Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả. Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật tất yếu. “Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách người viết, nó thể hiện thế giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ như một cách di dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con người này. Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con TỔ NGỮ VĂN. 1 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối. Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bóp thái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả màu"(3). Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ(4). Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ ứng xử đẹp. Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻ tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm. Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối TỔ NGỮ VĂN. 2 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải. Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6). Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại TỔ NGỮ VĂN. 3 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng... tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b) Ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c) Ánh sáng con tàu - ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị). Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ. Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng tình huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và giá trị nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diện mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn bản. Điều này không nằm ngoài mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn chương khiến nó luôn mới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị Huế, tháng 2/2007 .. Đi tìm vẻ đẹp của một dòng sông (Tiếp cận văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường) TS. Nguyễn Thanh Tú Tạp chí Văn nghệ quân đội TỔ NGỮ VĂN. 4 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Nếu con sông Đà phải cảm ơn Nguyễn Tuân vì nhờ nhà văn mà nó mới được ghi tên trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại như một đối tượng thẩm mĩ, thì giống vậy, dòng sông Hương cũng phải cảm ơn nhà viết ký Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có thể nói hai con sông ấy chảy trong lịch sử hai vùng đất nước đã được hai nhà văn bắt mạch khơi dòng cho chúng chảy tiếp, uốn lượn bồng bềnh trôi trong miền đất văn chương đầy chất thơ, chất họa, chất nhạc... để rồi mãi tha thiết chảy trong tâm thức bạn đọc. Đúng là chúng ta sẽ thiếu sót với xứ Huế, với học sinh nếu không đưa Ai đã đặt tên cho dòng sông? vào chương trình giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Bởi đây là một bút ký đặc sắc mà qua đó học sinh sẽ vừa được làm quen với một thể loại văn học, vừa được biết đến một phong cách bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường tinh tế tài hoa kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và tính trữ tình, chất nghị luận sắc sảo và sự hiểu biết uyên bác được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, địa lý, lịch sử, hội hoạ, âm nhạc, thơ ca… Đoạn trích trong sách Ngữ văn 12 là đoạn miêu tả từ bắt đầu nơi rừng già, dòng sông xuôi về miền đất Châu Hoá, uốn mình qua kinh thành Huế rồi đi về với biển cả. Thế cho nên có một cách tiếp cận tác phẩm là căn cứ vào hình tượng dòng sông để phân tích với các luận điểm: sông Hương - mãnh liệt nơi rừng già vùng thượng nguồn; sông Hương - êm đềm nơi đồng bằng và ngoại vi thành Huế; sông Hương - thơ mộng soi bóng kinh thành Huế; sông Hương - day dứt chia tay Huế để về với biển cả. Tôi xin giới thiệu một cách khác căn cứ vào chính cách tiếp cận từ nhiều góc độ của tác giả. 1. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ lại địa đồ của dòng sông Hương mà đặc điểm địa lý đầu tiên là nó thuộc về một thành phố duy nhất - thành phố Huế. Khởi nguồn từ rừng già, cường tráng và mãnh liệt vượt qua những cánh rừng Trường Sơn, uốn lượn quanh co qua miền Châu Hoá, theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén vòng qua đất bãi Nguyệt Biều ôm lấy chân đồi Thiên Mụ rồi xuôi về Huế, gặp thành phố ở cồn Giã Viên rồi uốn sang Cồn Hến, ra khỏi kinh thành dòng sông liền chếch về phía Bắc trôi đi trong sắc màu vùng ngoại ô Vĩ Giạ, như lưu luyến với kinh thành mà nó lại rẽ theo hướng đông tây để gặp thành Huế lần nữa ở thị trấn Bao Vinh rồi mới trôi ra biển. Sự xuất hiện một loạt các địa danh văn hoá vốn gắn liền với xứ Huế thực không vô tình, như muốn nói với bạn đọc: sông Hương chính là hiện thân, là bộ mặt, là linh hồn của xứ Huế. Sông Hương là lịch sử của đất cố đô. Từ thuở xa xưa nó là dòng sông biên thuỳ của nước Đại Việt, trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi nó là dòng sông thiêng với tên Linh Giang cổ kính. Đến thế kỷ XVIII nó ưỡn ngực đưa những đoàn quân Tây Sơn hùng dũng tiến ra Bắc đuổi quân Thanh xâm lược. Từ thế kỷ XIX dòng sông lại in bóng những lăng tẩm đồ sộ chôn vùi giấc ngủ nghìn năm của vua chúa nhà Nguyễn. Xuân Mậu Thân 1968 dòng sông lại mở lòng đón nhận những dòng máu anh hùng của những người con xứ Huế, yêu xứ Huế đã ngã xuống bảo vệ mảnh đất anh hùng. Phác thảo lại lịch sử cũng là một cách để nhà văn làm sống dậy dòng sông Hương trong lịch sử, nó như được chảy ra từ lịch sử, mang ý thức của lịch sử. Con sông Hương đã trở thành huyền thoại, thành dấu ấn của lịch sử. Dòng sông Hương mang trong mình nó nét văn hoá đậm đà xứ Huế. Đó có thể là một sắc tím Huế đã trở thành biểu tượng riêng của xứ này mà sắc tím ấy có từ rất xưa, vốn là "màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện". Đấy là sắc áo cưới của xứ Huế ngày xưa, trong những ngày nắng được đem ra phơi và luôn in bóng trên mặt sông Hương trữ tình. Đó có thể là một đêm hội hoa đăng những rằm tháng bảy với hàng trăm nghìn ngọn đèn bồng bềnh trên mặt sông; là âm thanh của "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya"… Đó là giọng hò dân gian cũng là tâm hồn người xứ Huế lan xa và âm vang khắp mặt sông. TỔ NGỮ VĂN. 5 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Giả sử nếu không có mặt nước Hương giang thì dứt khoát không thể có những điệu hò, nhịp hò ấy. 2. Từ cổ chí kim, cái đẹp luôn là đối tượng thẩm mỹ, luôn là chuẩn mực thẩm mỹ để các nhà văn nhà thơ hướng tới khám phá, sáng tạo, so sánh, đối chiếu. Nhưng nếu không khéo sẽ rất dễ rơi vào sự khuôn sáo nhàm chán. Khi miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương nhà văn Hoàng Phủ đã tránh được điều ấy nhờ ông luôn nhìn nó như nhìn một con người mà cụ thể là một cô gái đẹp trong mối liên hệ tự nhiên và có cơ sở. Nơi thượng nguồn, sông Hương như "một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại". Di-gan còn có tên gọi khác là Bô-hê-miêng chỉ một tộc người thích sống tự do, lang thang mưu sinh bằng múa hát. Đặc tính của cô gái Di-gan cũng là đặc tính của dòng sông Hương nơi rừng già, lang thang, tự do và luôn ồn ào hát múa. Chảy giữa cánh đồng Châu Hoá, dòng sông "như người gái đẹp nằm ngủ mơ màng". Không chỉ ngủ say mà chỉ "mơ màng", có lẽ giống như người con gái trong thơ Xuân Quỳnh "Cả trong mơ còn thức", nghĩa là vẫn thao thức chảy, thao thức bên trong cái êm đềm nhẹ nhàng. Về đến kinh thành "sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya" đầy tâm trạng. Những uốn lượn mềm mại của dòng chảy được nhà văn nhìn đó như là hành động yêu của nàng Kiều tài sắc trong đêm tình tự. Ở thời hoà bình sông Hương lại "làm một người con gái dịu dàng của đất nước". Tôi lại liên tưởng về dòng sông Đuống của Hoàng Cầm, thời đánh giặc Pháp cũng được nhà thơ thổi vào một linh hồn con người mà tôi cứ tưởng tượng đó là người gái đẹp, xứ Kinh Bắc "đa tình": "Sông Đuống trôi đi / Một dòng lấp lánh / Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ". 3. Sông Hương như trầm mặc và cổ kính hơn khi mặt nước phẳng lặng loang ngân tiếng chuông chùa Thiên Mụ và như dân giã bình yên hơn khi mặt nước vốn êm đềm lại xao động mỗi khi tiếng gà gáy cất lên ở hai triền sông thanh bình nơi vùng trung du Huế. Chảy tới Huế thì mặt nước sông Hương đã trở thành không gian nhã nhạc cung đình. Trong công tác bảo tồn nghệ thuật âm nhạc cổ truyền, có lẽ là ở bất kỳ quốc gia nào thì việc làm sống lại từng điệu nhạc và phục dựng lại không gian diễn xướng đều quan trọng như nhau. Chả thế mà trong hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Nhã nhạc cung đình Huế và Cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn hoá thế giới chúng ta đã rất chú ý tới không gian nhã nhạc cung đình Huế- chính là mặt nước dòng Hương giang thân yêu và không gian Cồng chiêng Tây Nguyên đầy quyến rũ. Đấy có lẽ là một nguyên lý trong tiếp nhận âm nhạc cổ truyền. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường, chắc là người rất hiểu âm nhạc xứ Huế, trong thiên bút ký này đã gợi ý cho chúng ta làm tốt việc đưa nhã nhạc xứ Huế lên hàng kiệt tác văn hoá nhân loại. Nhà văn cũng "vẽ" sông Hương bằng ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình với những động từ chỉ hoạt động: "vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một đường cung thật tròn…"; "vòng nhiều khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm…". Rất nhiều những từ láy tạo hình dồn dập xuất hiện: lặng lờ, lững lờ, bồng bềnh, ngập ngừng, lô xô, sừng sững, xúm xít, lập loè… và những so sánh tạo hình: "dòng sông như thành quách", "mềm như tấm lụa", "những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi", "nhỏ nhắn như những vành trăng non"…. có cả những so sánh với cái trừu tượng để khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc về dòng sông Hương cổ kính: "như triết lý, như cổ thi"… Rồi là những ẩn dụ tạo hình: "sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ", "kéo một nét thẳng thực yên tâm"… Nhờ sự hoà sắc của ngôn ngữ mà dòng sông như sống động hẳn lên, tươi vui, ấm áp; "những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng", "sắc nước trở nên xanh thẳm", "phản quang nhiều màu sắc "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím", "những biền bãi xanh biếc", "chiếc cầu trắng", "màu xanh biếc của tre trúc"… TỔ NGỮ VĂN. 6 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Sông Hương còn là đối tượng thẩm mỹ, là nguồn cảm hứng của các thi nhân, do vậy mà còn có cả một dòng thi ca về sông Hương. Trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, là "dòng sông trắng - lá cây xanh", trong cái "hùng tâm tráng chí" của Cao Bá Quát, dòng sông "như kiếm dựng trời xanh"; trong nỗi "quan hoài vạn cổ" của Bà Huyện Thanh Quan, Hương giang luôn in "trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn"; trong cái nhìn lạc quan, cái nhìn "phục sinh" của Tố Hữu, "sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều"… 4. Bút ký là tiếng nói của "cái tôi" chủ thể nên "cái tôi" càng thể hiện đậm nét bao nhiêu bài viết càng dễ đi vào lòng người bấy nhiêu. Chắc rằng nhà văn đã rất ý thức điều ấy nên "cái tôi" Hoàng Phủ luôn xuất hiện: "tôi thường nghe nói đến…", "tôi nghĩ rằng…", "… đánh thức trong tâm hồn tôi…", "tôi thất vọng…" , "tôi hi vọng...", như để trò chuyện, tâm sự và nhiều khi thuyết minh lý giải cho bạn đọc hiểu rõ hơn về dòng sông. Giá trị hàng đầu của bút ký là giá trị nhận thức. Một bài bút ký hay sẽ nâng nhận thức của bạn đọc lên một tầm cao mới. Ai đã đặt tên cho dòng sông? xứng đáng là một tác phẩm như vậy. Người đọc được hiểu thêm về dòng sông Hương, hiểu thêm về kinh đô Huế, về xứ Huế, qua đó mà thêm yêu quê hương đất nước mình và người đọc còn được hiểu sâu hơn sức mạnh và giá trị của ngôn từ nghệ thuật. Ngôn ngữ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? là ngôn ngữ cảm xúc, tuân theo quy luật cảm xúc. Dưới góc độ lời văn, nét độc đáo của thiên bút ký này là sự liên tưởng, một sự liên tưởng hợp lý mà lại phóng túng, tinh tế, tài hoa. Miêu tả những khúc quanh bất ngờ đầy cảm xúc của dòng sông, nhà văn gọi đó là "nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu", miêu tả những ngả rẽ đột ngột, nhà văn nghĩ về mối tình Kim Kiều để liên tưởng và gọi đó là hành động của nàng Kiều đã "chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề…". Đấy là những phát hiện nghệ thuật chỉ có ở những người biết nhiều, hiểu rộng và có khả năng quan sát mạnh cùng trí liên tưởng phong phú, bén nhạy. Liên tưởng của nhà văn còn đưa bạn đọc tới cả dòng sông Nêva bên nước Nga xa xôi để cùng chiêm ngưỡng những con hải âu xứ lạnh mà ông muốn "nhập thân" vào chúng để mà "đứng co một chân trên con tàu thủy tinh" là phiến băng nhấp nháy ánh sáng để mà đi ra biển. Nhưng dòng Nêva nước chảy nhanh quá nên chúng ta lại cùng nhau trở về với dòng Hương giang "đi chậm, thực chậm" với "điệu slow tình cảm" để cùng ngắm "trăm nghìn ánh hoa đăng đang bồng bềnh trôi…". Dựa trên căn cứ vào thứ ngôn ngữ có nhịp điệu vốn là đặc trưng thứ nhất của ngôn ngữ thơ ca mà ta có thể ví bài bút ký như một bài thơ. Thứ nữa là ngôn từ của tác phẩm rất giàu giá trị tạo hình được biểu hiện qua một thế giới tính từ được dùng hết sức phóng túng. Có cảm tưởng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một ông chủ ngôn ngữ vừa sở hữu một lượng tính từ giàu có lại vừa giầu có vốn cảm xúc vốn đã tinh tế. Có câu văn đầy tính từ, những tính từ vừa lấp lánh sắc mầu vừa ấm áp cảm xúc: "Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Vì tuân theo quy luật cảm xúc mà câu văn thường dài, nhiều mệnh đề, nhiều bổ ngữ như những lớp sóng ngôn từ xao động để diễn đạt những lớp sóng hưng phấn cảm xúc mà tôi cứ hình dung đó là những lớp sóng của dòng Hương giang đang dập dềnh trong tâm trí bạn đọc1 (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 2.2009 "Đàn ghi ta của Lorca" của Thanh Thảo dưới góc nhìn liên văn bản TS. Phan Huy Dũng Đại học Vinh TỔ NGỮ VĂN. 7 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Theo lí thuyết văn học liên văn bản, bất cứ văn bản nào cũng là một liên văn bản, không phụ thuộc vào việc tác giả của văn bản có ý thức được điều đó hay không. Đọc Đàn ghi ta của Lorca, có thể thấy, mỗi từ, mỗi chi tiết, hình ảnh và cả hình tượng trung tâm trong đó đều là đầu mối của một quan hệ giao tiếp nghệ thuật rộng lớn, mà nếu thiếu tri thức về các văn bản (hiểu theo nghĩa rộng) có trước đó thì độc giả không thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của chúng. Lorca là nhà thơ như thế nào? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt? Vầng trăng, yên ngựa, bước chân lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết đỏ, giọt nước mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái di gan... là những cái gì đây? Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả bình thường khi tiếp nhận bài thơ. Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành trình giải mã văn bản này và quyết tìm tới những văn bản khác đã làm nền cho nó (theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù. Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế giới thi ca chói loà của thiên tài Lorca, là bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật vượt lên trên mọi sự đe doạ của các thế lực bạo tàn, nguy hiểm. Từ những điều vừa thấy, nhìn ngược lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời hiểu biết cho mình – bài Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo – ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lorca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp. Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê Andalucía yêu dấu của Lorca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc: những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn ... tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy? – Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lorca". Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lorca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lorca, là bản mệnh của Lorca. Đọc thơ Lorca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u TỔ NGỮ VĂN. 8 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Granada thuộc xứ Andalucía, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" do người Ả Rập dựng nên. Ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái di gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta – âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lorca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lorca – người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ", "con sơn ca xứ Andalucía". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lorca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng "song trùng" với hình tượng Lorca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lorca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lorca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lorca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 – cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý: Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lorca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du ... tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lorca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự tương tác, xô nhau, đan cài nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lorca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lorca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lorca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu TỔ NGỮ VĂN. 9 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lorca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị – xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lorca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau: áo choàng bê bết đỏ – tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lorca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lorca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca Andalucía) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lorca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhòe đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lorca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng! Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lorca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo TỔ NGỮ VĂN. 10 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ: không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc chàng ném lá bùa cô gái di gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la... Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lorca trong bài Ghi nhớ – lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lorca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực?) gần Granada. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lorca – một ý nguyện thể hiện phẩm chất nghệ sĩ hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở – đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí: không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết(1). Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái TỔ NGỮ VĂN. 11 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn... Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lorca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại... Trên thực tế, cái chết của Lorca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Franco gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lorca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lorca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái di gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt – cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lorca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người! Ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê su trên núi Golgotha (núi Sọ). Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo(2)!... Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên: lila li-la li-la... TỔ NGỮ VĂN. 12 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả "đặc hữu" của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc – cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan – để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lorca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lorca –. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch ________________ (1) Tại đáy giếng này của thơ Thanh Thảo, hẳn có sự hiện về của cả hồn thơ Hàn Mặc Tử nữa. Trong bài Trăng tự tử , nhà thơ của Đau thương đã viết : Miệng giếng mở ra - Nuốt ực bao la - Nuốt vì sao rồi - Loạn rồi ! Loạn rồi, ôi giếng loạn – Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên - Nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên. (2) Tưởng cũng là điều thú vị nếu biết thêm rằng: trong bức tranh Cái chết của Lorca (1979, Viện bảo tàng tranh Tretiakov, Moskva), hoạ sĩ người Nga A. Minnikov đã xây dựng hình tượng Lorca giống như một cây thập giá với hai tay giăng ngang, mặt ngửa lên trời và lồng ngực vỡ toang, nổi bật lên giữa nền tranh nhuộm một sắc xanh xám tang thương, bi đát; phía trước Lorca có một bụi gai.. Hình tượng không gian đa dạng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Tuân PGS.TS. Đoàn Trọng Huy Trường Đại học Sư phạm Hà Nội TỔ NGỮ VĂN. 13 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Tuân thường chứa đựng những hình tượng không gian nghệ thuật đa dạng, những mô hình không gian đặc sắc mang mỹ quan độc đáo của nhà văn. Sáng tác của Nguyễn Tuân trước 1945 được khắc họa nổi bật mấy hình tượng không gian trên sự phân loại đại thể, trong đó một số gần như không còn bóng dáng về sau. Trước hết là một loại có tính chất bao trùm: không gian kí vãng. Đây là loại không gian mang bóng hình quá khứ được dựng lên bởi hoài niệm, ký ức, hồi tưởng và cả tưởng tượng nữa. Tác phẩm tiêu biểu chính là Vang bóng một thời. Tất cả cảnh tượng, cảnh quan đều nằm trong vùng không gian rộng lớn khái quát mang những nét đặc trưng lịch sử một đi không trở lại. Bằng một vốn từ cổ phong phú có chọn lựa, Nguyễn Tuân đã khéo dựng cảnh, dựng việc, tạo không khí, đưa người vào cái không gian cổ kính ấy. Những cái đó quý giá như một tập tranh cổ. Ông đi tìm những tài tử, tài hoa trong quá khứ, tìm về những nơi xưa cũ với vẻ đẹp một thời. Bằng hư cấu, tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Tuân tạo dựng nên một không gian kinh dị trong một loạt sáng tác mà ông dự định xuất bản thành một tập từ lâu, có nhan đề Yêu ngôn. Đó là những đoản thiên gồm những truyện hoang đường, ma quái, kinh dị như Trên đỉnh non Tản, (Vang bóng một thời), Rượu bệnh, xác ngọc lam, Đới roi, Lửa nến trong tranh, Loạn âm... và sau này là Chùa đàn II (Tâm sự của nước độc). Có thể kể vào loại không gian này khung cảnh những truyện giàu chất hiện thực, loại “vang bóng thời nay” cũng mang nhiều yếu tố kỳ quái, kinh dị. Bởi truyện tạo ra những ấn tượng, những cảm giác - ít thì rờn rợn, nhiều hơn là sợ hãi, những ám ảnh ma mị (Chữ người tử tù, Bữa rượu máu, Khoa thi cuối cùng). Chùa Đàn thực sự quái dị. Không khí ma quái ở tất cả: từ cái ấp Mê Thảo, hũ rượu “Vô cố nhân”, “Ức sấu viên”... trong mả rượu đến cái đàn quái đản mà thành đàn nhễ nhại, mồ hôi đổ ra như tắm và thùng đàn phát những tiếng thở dài quái gở; có lúc lại vẳng ngân một tiếng cuồng loạn: cây đàn giết người ấy ai sờ vào là mất mạng; những sợi dây đàn đứt phựt rỏ máu đọng thành giọt lóe tia xanh lạnh... Trong cuộc đàn, hồn Chánh Thú hiện ra cười sặc sụa từ buồng thờ, rồi Bá Nhỡ gục xuống sau khi chỉ còn là một cái bóng trên vũng máu tươi, đàn tự tan vụn ra từng mảnh. Tiếp theo là cuộc hạ thổ Bá Nhỡ - người tự nguyện đổi mạng sống để lấy phút sống thăng hoa của tiếng đàn, câu hát, biến thành con ma tài hoa muôn thuở. Cùng lúc là sự phát hỏa của gò rượu từ cái lênh láng trong miệng huyệt rượu như sự giải thoát phóng đãng của những ma men. Nhiều nhà nghiên cứu đã lý giải Chùa Đàn. Đúng là có sự giải thoát cho sự tìm kiếm những thực đơn mới cho cảm giác ở một không gian lạ, ngoài thế giới thực tại. Ta nhớ Nguyễn Tuân viết trong trạng thái bất định về tâm hồn, cũng có thể nói là sự khủng hoảng trong tìm đường một thời gian khá dài để vùng thoát khỏi o bế, tù túng. Nhưng cần nói kỹ hơn một điều, đó cũng là sự kiếm tìm của con mắt nhìn mang tính chất mỹ học. Tạo ra một không gian đặc hiệu như vậy có thể so sánh với sự sáng tạo một khách thể lạ trong Điêu tàn của Chế Lan Viên. Đó là thế giới ma quái đầy huyệt mộ và bóng ma, thế giới của tủy xương và máu. Mỗi người đều chứa chất qua đó ngụ ý khác nhau. Cái nhìn của Chế Lan Viên siêu hình còn con mắt nghệ thuật Nguyễn Tuân lại hiện thực. Ta biết Nguyễn Tuân là người mê Liêu trai chí dị. Thời nay đi trên Tây Bắc ngày TỔ NGỮ VĂN. 14 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. hòa bình mà ông vẫn có cảm giác “thấy tênh tênh mà tan quạnh cả đi như người và lầu Liêu Trai”. Đắm mình vào dòng văn học cổ điển dân tộc, Nguyễn Tuân có thể còn tìm cảm hứng từ những truyện lạ đầy yếu tố hoang đường của Nguyễn Dữ qua Truyền kỳ mạn lục - một tác phẩm ra đời trước hàng trăm năm Liêu trai chí dị (cuối thế kỷ XVII). Đó là những tác phẩm hiện thực giàu tính chất tố cáo xã hội phong kiến suy thoái. Truyện có yếu tố ma quái hoang đường, kinh dị của Nguyễn Tuân không chỉ mang “cái gien” thể loại truyền thống cổ điển dân tộc mà còn rất hiện đại nữa, làm ta liên tưởng tới sáng tác của nhà văn Italia Malapáctê và nhà văn Mỹ la tinh hiện đại Máckêx với bút pháp của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Tất nhiên cái giống nhau là sự pha trộn các yếu tố hiện thực và hoang đường, chủ nghĩa thần thoại và chủ nghĩa trí tuệ nhưng cái khác với tất cả là phong cách mang nét tài hoa, uyên bác và độc đáo Nguyễn Tuân. Lại thấy Nguyễn Tuân hiện đại biết bao khi, cho đến hôm nay, vẫn tồn tại loại văn học và nghệ thuật kỳ ảo như truyện và phim kinh dị vẫn ăn khách ở Âu, Mỹ. Một không gian nghệ thuật có tính chất bao trùm và tượng trưng cũng hiện hình qua sáng tác của Nguyễn Tuân từ trước kia (và cả một phần sau này nữa). Đó là không gian văn hóa giàu tính chất xã hội và màu sắc dân tộc. Nguyễn Tuân là người sống có văn hóa, văn minh, tức là sống đẹp. Có người đã ví có mười truyện “như mười nén tâm hương nguyện cầu cho cái Đẹp cổ truyền Việt Nam” (Văn Tâm)(1). Đó là cái đẹp đa dạng cả trong đời sống tinh thần và vật chất của giới trí thức bình dân cũng là của cả con người dân tộc. Nguyễn Tuân chủ trương “Chơi cảnh, chơi người” (Chiếc lư đồng mắt cua). Cảnh qua con mắt tài hoa nghệ sĩ rất nên họa, nên thơ. Đối với con người, ông rất trọng nhân cách đẹp, tâm hồn đẹp, thậm chí tâm linh đẹp. Chùa Đàn - viết ngay sau 1945 xét cho kỹ, có cái nhân cốt khả thủ - sự ca ngợi cái đẹp đích thực của nghệ thuật, cái tinh anh của nghệ sĩ dám sống đến cùng cho nghệ thuật. Khái quát hơn, là một chủ đề đẹp: ước vọng hóa thân qua quan niệm triết lý về hủy diệt và tái sinh có màu sắc biện chứng(2). Dù sao, cái không gian văn hóa trong sáng tác Nguyễn Tuân thời kỳ này mới chỉ là một gợi mở cho những không gian văn hóa mang vẻ đẹp truyền thống đích thực sau này (chủ yếu qua mảng Cảnh sắc và hương vị đất nước và những bài viết thời chống Mỹ). Nếu có thể phân nhỏ hơn một chút, còn có một loại không gian cũng khá đặc trưng của Nguyễn Tuân gắn với lòng đam mê tìm kiếm những chân trời - đã được mệnh danh là chủ nghĩa xê dịch - thì đó là không gian du lịch hay gọi đúng tên hơn: không gian du hí. Ở đây, những mô hình hoặc môtíp nghệ thuật có loại tương đối mở là một con sông, một nhà ga, một bến tàu... loại đóng là nhà hát (ca lâu, hàng viện), tiệm hút ứng với những chuyến đi, những cuộc đời, những thú vui của những đối tượng và những tâm trạng khác nhau: lịch sử trang nhã có mà bê tha, phóng túng cũng có. Sẽ là thiếu sót nếu không phát hiện ra sự đan lồng trong miêu tả, trần thuật, tự bạch những không gian tâm tưởng (hoặc tâm trạng) cũng là một phương thức nghệ thuật quen thuộc để bộc lộ nội tâm của cái tôi mãnh liệt qua những trang văn Nguyễn Tuân. Kiểu không gian này hiện rõ qua Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua... Nổi bật vẫn chỉ là cái tôi quanh quẩn, cô độc, u hoài, buông thả qua những cảnh tượng, những môi trường. TỔ NGỮ VĂN. 15 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Từ sau Cách mạng, hầu như Nguyễn Tuân chỉ viết tùy bút và ký cùng một số tiểu luận, phê bình. Ông tự nhủ “ta chỉ nên chơi một thứ độc tấu” với lòng kiêu hãnh riêng. Nhưng thực ra thứ độc tấu ấy cũng thường là đi “hai bè” hoặc có lúc chứa đựng hòa âm. Đó là sự kết hợp ký và truyện, ghi chép với miêu tả, trần thuật: tùy bút có dựng cảnh, tạo không khí, chữ nghĩa dàn ra mặt phẳng và dựng cả không gian đa chiều, gợi mở tính chất đa thanh của văn xuôi. Một không gian mới của cuộc sống mở ra và ùa vào những trang viết của nhà văn tài năng. Với ý thức nghệ thuật mới, Nguyễn Tuân đã tạo dựng được những không gian hiện thực, sinh động trong sáng tác, phần lớn đã khác xa hoặc đã thay đổi hẳn bản chất những phạm trù không gian trước kia. Trong cái không gian công cộng, không gian sử thi của cuộc đời cách mạng chiến đấu cần lao mở ra chung cho các nghệ sĩ, Nguyễn Tuân đã biết chọn lựa, sáng tạo nên những vùng trời, mảnh đất, những khoảng không gian như hình ảnh thế giới trần gian mới qua con mắt nghệ thuật độc đáo. Không gian nghệ thuật trong sáng tác văn xuôi của Nguyễn Tuân giờ đây như đa dạng, đa sắc hơn. Đây là kết quả của tài năng biết biến hóa, nhào nặn cái thế giới thực tại muôn màu, muôn vẻ để tạo nên những loại, những kiểu, những mô hình không gian, những hình ảnh biểu trưng mới về không gian qua mỹ cảm của nhà văn. Với con người giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, thấu hiểu tường tận cái đẹp, cái hùng của tổ quốc trong suốt đời viết trải nghiệm hơn 40 năm sau Cách mạng, có thể nói Nguyễn Tuân đã tạo dựng được một không gian đất nước tuyệt đẹp trong sáng tác. Có thể kể trong đó những mô hình không gian tiêu biểu: - Không gian con đường - Không gian sông nước - Không gian núi rừng. Năm 1946, Nguyễn Tuân tham gia đoàn sáng tác văn nghệ đi vào mặt trận Nam Trung Bộ, làm chuyến đi đầu tiên trong cuộc đời cách mạng. Qua miền Trung với Bình Định, Phú Yên quen thuộc rồi trở về Vinh, Thanh Hóa với đoàn kịch tuyên truyền Khu 4. Năm sau, ông lên đường ra Việt Bắc. Đường vui (1948) là khởi đầu sự phát hiện kỳ thú một không gian mới: không gian con đường. Nhà văn viết: “Sau Toàn Quốc kháng chiến trong vô số hình ảnh quanh ta thì hình ảnh con đường, những con đường đập mạnh vào mắt ta, tâm óc ta nhiều nhất. Con đường đã là một sự”. Có những con đường cụ thể, rất cụ thể: đường đê, đường máng, đường ruộng, đường núi... Theo chân đi có những quãng đường mà thường là những bước đường trường. Con người mới không chỉ nhìn bằng mắt mà còn cảm nhận bằng tim, bằng óc con đường. Từ con đường cụ thể ấy đã thấy một con đường khái quát, tượng trưng: con đường chiến tranh, con đường xa thẳm của kháng chiến. Con đường không chỉ quẩn quanh, quấn quýt, quay cuồng trên trang viết (hơn 40 chữ về đường trên 4 trang sách) mà nó còn nhảy múa trong lòng người “con đường bây giờ là trọng tâm của suy tưởng chúng ta”. Nó là Đường vui. Ông đặt con đường vào hệ thống của nó, vào không gian đặc hiệu của nó để nói tiến bộ về khoa học, về giá trị kinh tế, quân sự của giao thông vận tải. Lại nói con đường gắn với văn hóa, văn minh thu nhận “rất nhiều tia sáng của chủ nghĩa xã hội. Và đến lượt mình, nó cũng phát ra ánh sáng mới của chủ nghĩa xã hội. “Và con đường mở ra sao lại không là một tia đèn biển rọi đi xa? Chiếu rọi qua những cái sóng đêm dài ở Tây Bắc” (Đi mở đường). Con đường như vậy là hình ảnh trong trí óc, trong tâm khám Nguyễn Tuân. Con đường nằm trong nhỡn quan mỹ học cũng như tư tưởng nghệ thuật nhà văn. Thật đủ ý thức và tình cảm khi Nguyễn Tuân viết về cái đẹp của con đường. Con đường nằm trong “cuốn sách Mở đường”, hơn thế, một tiểu thuyết Mở đường. Đã có Bài ca trên mặt phần đường, cũng lại có Một bài thơ đường. TỔ NGỮ VĂN. 16 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Con đường đã bắt nguồn cho khúc hát lên đường của tâm hồn. Sông, hồ và biển cả đã tạo nên không gian sông nước đặc sắc Nguyễn Tuân. Có thể nói sông nước tràn ngập những trang viết về ba vùng tiêu biểu: Sông Đà, Sông Tuyến và sau này cũng có thể nói là sông nước Cà Mau cụ thể là “kênh rạch, sông ngòi Cà Mau” bởi vì “Nam Bộ là cả thế giới của sông nước và kênh ngòi” (tác phẩm tiêu biểu: Vẫn cái tiếng dội Cà Mau ấy). Nhiều người đã trích dẫn đoạn miêu tả con sông Đà trữ tình thơ mộng. Tuy nhiên cần chú ý cái hùng vĩ, dữ dội là một vẻ đẹp khác. Hình ảnh sông nước thường sống động và mang hồn người, kể cả những hoài niệm, những ước vọng thầm kín mà xao động dạt dào. Này đây là con sông Đà “tuôn dài như một áng tóc trữ tình... Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Còn con sông Tuyến là “một con sông lạ ở nước ta”. “Sao mà không lạ được cho một con sông không đủ cả hai bờ mà chỉ lại có một bờ sông. Sao mà không ngạc nhiên được cho một con sông chỉ có một nửa cái cầu với với trên dòng sông...”. Con sông ấy bị cắm mốc phân tuyến. Sông Bến Hải thời đất nước chia cắt như có hơi hướng chút gì xao xuyến của sự cách ly trĩu nặng tâm tư con sông trong thơ lãng mạn Xuân Diệu ngày nào: Cũng cách xa như những bờ xa cách/ Không có thuyền qua, không cánh bay; cái thoáng buồn vời vợi lưu luyến của sông nước Huy Cận, Thế Lữ. Nhưng, quan sát kỹ sẽ thấy từ trong lòng sông sâu có cái tâm khảm của con người thời nay. Đó là cái tâm trạng có phần gần gũi với Tế Hanh và Xuân Diệu khi nhớ về Con sông quê hương. Cái nét cơ bản phân biệt phải chăng là dấu ấn của cái tôi trữ tình công dân rất mới, rất đậm của Nguyễn Tuân? Trong thực tế đời sống, con cầu là tiếp nối của con đường và cũng gắn bó với con sông. Cũng có thể nói, không gian cầu đã hiện diện và mang nhiều lớp nghĩa trên trang viết của Nguyễn Tuân. Con cầu - nó là hình ảnh sự tiếp nối, sự thông thương, sự giao lưu trong trường hợp thông thuận bình thường (Đi mở đường, Một bài thơ đường, Thăng Long cầu mới 15 nhịp). Ngược lại, bất bình thường là sự đứt đoạn, sự ngáng trở, sự ách tắc (Cầu ma, Cắm cột mốc giới tuyến, Chỗ đầu cầu đó, chỗ bờ sông đó chỗ biển cát đó). Cầu do vậy cũng gắn với tâm trạng con người và cũng thường gợi ra không gian tâm tưởng với Nguyễn Tuân. Qua không gian cầu ta thấy được “một trái tim và một nhịp cầu. Trên cầu vương vấn những trái tim chân chính. Trong tim bắc được những nhịp cầu”. Cầu đòi hỏi phải trở lại đời sống bình thường, quan hệ bình thường. Lịch sử đã qua cầu, đã vượt cầu gắn kết, tụ hội những trái tim Việt Nam. Hoàn chỉnh một không gian đất nước rộng lớn còn là không gian rừng núi. Không gian này thường mang vẻ hoành tráng hiếm có, cho dù là rừng bãi Nam Bộ hay núi rừng Tây Nguyên, ngàn trầm Quảng Bình hay rừng hồi Đông Bắc. Non nước Lào Cai núi thì tuyệt đỉnh với hoa đỗ quyên mặt núi nở bạt ngàn. Vùng Tây Bắc nắng tắm trên rừng thu, núi xa, núi gần liên miên như trùng dương thạch trận. Rừng núi đã được nhìn nhận dưới con mắt khoa học trên nhiều bình diện phân tích của nhà văn, TỔ NGỮ VĂN. 17 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. với nhiều định nghĩa mỹ học. Rừng và núi hiện lên với một tầm vóc mới, tư thế mới. Rừng núi mang vẻ đẹp cao vời, mang sức mạnh kỳ vĩ, trở thành một môtip không gian không kém đặc sắc của Nguyễn Tuân. Nhà văn nói lên một cảm nhận rất mới: “Từ ngày được làm chủ nhân ông núi rừng sông ruộng đất nước Việt Nam, tôi phải tập dần cái cách nhìn của một người quản lý non nước”. Đó là cái trữ tình công dân rất đậm trong tâm hồn Nguyễn Tuân. Không gian chiến trường trên những trang viết trong cuộc chiến tranh nhân dân kéo dài 30 năm ở Việt Nam, không hẳn là của riêng của các nhà văn quân đội, cho dù loại hình ảnh không gian này nổi trội trong sáng tác của họ. Nói chính xác thì đó là của cả một thế hệ nhà văn - chiến sĩ một thời, hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nam Cao... là thuộc lớp nhà văn này, đã bám sát chiến đấu từ những ngày đầu nổ súng. Nguyễn Tuân đã viết về khung cảnh trận địa - như trận địa pháo cao xạ bờ sông vào giờ phút tĩnh lặng, trong cuộc liên hoan cưới giữa ngày B.52 rải thảm và cả khung cảnh chiến trận dữ dội trong lửa đạn đánh đồn thời chống Pháp. Đó là những giây phút ngàn vàng trong đời và những trang viết cũng quý giá như vàng mười tâm hồn. Ông đã sống thực sự đời người lính và mang tâm sự thực của con người chiến đấu. Lần đầu tiên trong đời ông cầm quả lựu đạn. Lần đầu tiên trong đời ngủ “đùi quặp lấy báng súng”. Và cũng lần đầu tiên trong đời đem cái phấn khích bồng bột khôn tả vào trận đánh. Chàng lãng tử chỉ quen cầm roi chầu, nay mạnh dạn vớ lấy cành cây thúc trống liên hồi trong trận đánh đồn. Cũng như sau này, ông trụ lại ở Hà Nội hăng say đội mũ sắt ra trận địa trong không khí chiến trận đánh Mỹ. Cái quý giá nổi bật ở những trang tả khung cảnh chiến đấu của Nguyễn Tuân là cái sự thật chiến tranh cùng cái sự thật lòng người. Ông viết với tư thế và tâm thế của người dự phần trực tiếp, của người trong cuộc. Ông ghi những trận đánh thật sinh động: “Hỏa thiêu Đại Bục. Xích Bích giữa rừng khô... Đại Bục ngụp trong biển lửa, ngạt thở trong khói súng. Đại bác, trọng liên của ta át hẳn giọng địch. Lơ láo, vài tràng liên thanh đồn địch hấp hối, ằng ặc như tiếng bị bóp cổ”. Đây là tiếng trống thúc trận: “Những hồi trống ngũ liên ầm ầm như thủy triều dâng lên mặt đê. Trống giục nước dâng, cái đồn Đại Bục lọt thỏm dưới thung lũng kia phỏng còn gì nữa? Tiếng trống cái đang cuộn lên dồn lũ giặc từ đồi A xuống đồi B... trống rung nước dâng đến đâu, lưỡi mác xung kích dâng cao lên đến đấy. Búp đa thép chơm chởm như cỏ bồng nước lũ”. Tiếng pháo “Choét! Choét! Ung! Các ông 60, các ông 80 làm việc đều tay. Tây cứ nháo cả lên dưới sân đồn. Rồi đến đạn lõm của anh em công binh thì không chê được. Badôca hay quá. Sẹt. Này một cái chớp thụt hậu, này một cái chớp nữa phọt thẳng vào tường đất”. Nói cho công bằng thì Nguyễn Tuân không thể tả hay và nhiều những trận đánh như những cây bút đằm sâu trong chiến đấu thực sự: Trần Đăng, Nguyễn Đình Thi, Hữu Mai, Nguyễn Khải, Hồ Phương... Nhưng ông lại có phần ưu thế hơn họ là gắn chặt được hậu phương và tiền tuyến. Ông theo dõi được toàn cục diễn biến với sự tự ý thức sâu sắc: “Cái tụ điểm quý giá nhất về tư liệu mỗi đồn là ở chỗ không khí chuẩn bị đánh và sắc thái sinh hoạt của dân chúng quanh cứ điểm. Sau trận đánh, trước trận đánh và phải là cái phần phối hợp của quân, dân, chính giữa lúc đánh”. Quả vậy, ông đã tả cuộc thực tập phá rào, hạ đồn trên sa bàn (Tình chiến dịch, Bàn đạp), ông tả quang cảnh đồn giặc TỔ NGỮ VĂN. 18 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. tan hoang sau trận đánh (Lửa sinh nhật), cảnh quê hương đã sạch bóng quân thù (Giữa một thị xã mới giải phóng). Một cái gì đang trồi lên, trỗi dậy, nảy nở, lan tỏa... như sức sống không thể dập tắt cũng chính là dáng vẻ của con người dân tộc bất khả chiến thắng. Phải chăng cái bao trùm lên tất cả các trận địa, các khung cảnh chiến đấu là màu sắc hào hùng của chiến tranh nhân dân và cái tình chiến dịch sâu đậm của nhà văn chiến sĩ? Độc đáo Nguyễn Tuân là cách “đọc ngược” chiến thắng. Những năm chống Mỹ, tuổi cao sức yếu, Nguyễn Tuân vẫn tiếp tục đánh giặc bằng vũ khí ngôn từ. Ông gián tiếp nêu chiến công của ta trên bầu trời bằng đặc tả chiến bại của địch trên mặt đất (Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi). Phải nói là thảm bại. Nhà văn tưởng tượng rõ rệt: “Tôi ngồi xa tận ngoài này mà vẫn có thể nghe được cái tiếng sóng biển Nam ngày càng dâng nước triều lên, và trong phong trào miền Nam, xác những con phượng hoàng Mỹ ngày càng lún thêm dưới lớp cát lầy mặn. Những cái xác chim Mỹ, xác mới trùng lên xác cũ trên vùng đất trẻ Cà Mau”. Nhưng ở Hà Nội là mục sở thị: 23 con đại bàng B.52 đã bỏ xác, và ở cái thôn hoa nổi tiếng: “sát nách những đuya ra xám bệnh, hồng nhung, hồng quế và thược dược, huyết dụ cứ bầm bầm dướn lên như vừa mọc từ máu tươi”, “trong lòng hồ xinh nhú lên một cái đầu B.52 cháy đen, trên cái sọ dừa vĩ đại Mỹ ấy, trên một tấm biển chưa khô nét sơn “Bảo tồn tại chỗ”. Cái đôi câu đối hàng ngày chiến tranh và hòa bình ở đây cũng đồng nghĩa chiến thắng và chiến bại, vinh quang và xỉ nhục. Từ đây mở ra một khung cảnh mang ý nghĩa khái quát thế giới, đó là chiến trường, chiến tuyến đối địch của chính nghĩa chống chọi với phi nghĩa. Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi gợi cho ta hình ảnh chiến trường gần và chiến trường xa một thời khi vang vọng chiến tranh đã vượt ra ngoài biên giới. Đó là những cuộc biểu tình khổng lồ hàng 30-50 vạn người Mỹ xuống đường chống chiến tranh Mỹ tại Việt Nam. Riêng ở Oasinhtơn 25 vạn người với nến và hoa xisêđêlích trên tay, tấm băng biểu ngữ giương cao “không chết thêm một người nào nữa”. Hà Nội đại diện cho cả nước. Hà Nội là Việt Nam. Thật tài tình khi Nguyễn Tuân gợi mở được một không gian bao la của trận địa lòng dân qua những trang viết như cuộn sóng, như bốc lửa (Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội). Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn đánh Mỹ một cách trí tuệ. Ông biết đối sánh, đối chọi cái văn hóa thực sự với cái văn hóa giết người, cái văn minh cao quý với cái văn minh man rợ. Một thông điệp ngầm được tuyên bố. Thắng lợi của Việt Nam thực chất là thắng lợi cuộc đấu trí với siêu cường B.52, thắng lợi của đường lối chiến lược chiến tranh nhân dân với học thuyết xâm lược vũ khí luận. Một không gian đặc trưng nữa phải kể là không gian văn hóa và lịch sử. Đúng ra là không gian của giá trị văn hóa, không gian tích tụ lịch sử. Nếu như trước kia Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp xưa cố hữu của thời vang bóng thì ngày nay ông tiếp tục sự kiếm tìm ấy, phát hiện những vẻ đẹp hiện hữu trong thời đại. Không hẳn chỉ là văn hóa ẩm thực, văn hóa du lịch, văn hóa tâm linh... mà là văn hóa hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất, đặc biệt là những mỹ tục mới, những nếp sống đổi mới, những cách hành xử văn hóa đẹp đẽ mới. Có khi tiềm ẩn thật sâu xa. Như tâm thức trĩu nặng của một người Hà Nội, bạn ông. Con người vốn dửng dưng với Hồ Gươm đã phản tỉnh sau cơn mơ thấy con hồ bị lấp kín (Con hồ thủ đô). Trên tất cả là đất nước với tầm cao văn hóa đối lập và đối chọi với những gì là phản văn hóa. Có những kẻ tự xưng là đại diện của văn minh bậc nhất nhân loại lại xúc phạm và hủy diệt văn hóa. Chúng “chẻ ván gỗ khắc và đốt bốn cô tố nữ”, phá đình chùa, nhà thờ, bẻ gẫy đầu, gẫy tay tượng Phật, đập tan thánh giá... Trong TỔ NGỮ VĂN. 19 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> TRƯỜNG THPT KRÔNGANA. TÀI LIỆU VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. khi đó, có những bà tám mươi, đầu bạc phơ, nhớ lại thời con gái của mình mà vận những bộ áo quần màu sắc tươi chói, cất lên làn dân ca mềm mại như đường cong những mái đình cổ kính. Ở đất nước “tiếng hát át tiếng bom” thì tiếng hát chính là sức mạnh của hòa bình chiến thắng mọi bạo tàn. Bọn hiếu chiến dã man dọa đẩy Việt Nam “vào và về một kỷ nguyên đồ đá”. Những tan hoang ở Việt Nam chỉ rõ thêm chúng là “thứ sinh vật đặc biệt của thời đồ đá, có những động tác và bạo lực của thời đồ đá”. Với cảm quan lịch sử mạnh mẽ hầu như Nguyễn Tuân đã lịch sử hóa bất kỳ một vùng đất, một vùng trời, một không gian cụ thể cũng như cả một miền rộng lớn. Hầu như mảnh đất nào cũng mang “sự tích” của nó. Cầu Thăng Long hiện nay mang mối liên hệ lâu bền với cầu Sông Cái. Sơn La đất cũ đau thương và anh dũng một thời. Nếu sông Đà có lịch sử phát tích và đời sống thăng trầm hàng thế kỷ thì Cửa Tùng, Bến Hải cũng gợi lại một quá khứ lâu đời. Thành Nam là một pho sử liệu. Yên Thế đã là nơi tụ hội của nghĩa quân và nghĩa sĩ. Chỉ một con hồ - Hồ Gươm, Hồ Tây hay Hồ Trúc Bạch, cũng mang bao sự tích truyền thuyết và sự tích kháng chiến. Đặc biệt, Nguyễn Tuân am hiểu Hà Nội như một nhà Hà Nội học, thuộc từ góc phố, con đường đến tòa nhà, gốc cây. Hà Nội hôm qua và Hà Nội hôm nay, Hà Nội truyền thống và Hà Nội hiện đại. Không gian trong ý thức nghệ thuật Nguyễn Tuân là một hình tượng đẹp, nhiều hình nhiều vẻ. Với những cảm quan nghệ thuật khác nhau ở những thời kỳ sáng tác trước và sau 1945 nhà văn đã tạo ra được những không gian mang màu sắc riêng biệt. Đó là những hình thức mang tính nội dung theo quan niệm nghệ thuật của nhà văn, tức phương diện của thi pháp. Xem xét thi pháp giàu sức sáng tạo cũng là đề cập tới phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo Nguyễn Tuân./. Thành phố Hồ Chí Minh 10-01-2007. Âm điệu trong thơ Hàn Mặc Tử GS.TSKH. Lý Toàn Thắng Viện Ngôn ngữ học. B ình Định, Quy Nhơn, Ghềnh Ráng… Lần đầu tiên tôi đang đứng trước mộ Hàn Mạc Tử… Lần đầu tiên tôi đang trò chuyện với Dzũ Kha - người dùng bút lửa lưu giữ thơ Hàn... Nhưng lởn vởn trong đầu óc tôi lại đang là một sự hồi tưởng, chuyện đã mươi mười lăm năm trước: một vị Giáo sư - Thầy học của tôi, một nhà phê bình văn học khả kính, khi đó có bảo tôi rằng theo ông nghĩ Đây thôn Vĩ Dạ và Mùa xuân chín của Hàn Mạc Tử là hai bài thơ “trong sáng nhất” của nền thi ca Việt Nam. (Và tôi đã luôn tin vào điều ấy)… Vậy sao bây giờ tôi không thử bàn luận về nó, từ chỗ đứng ngôn ngữ học của tôi? Cái đẹp của văn chương cũng rất cần những sự chứng minh khoa học… * Về Hàn Mạc Tử người ta đã viết khá nhiều, nhưng có điều dường như TỔ NGỮ VĂN. 20 Lop11.com. NGỌC ANH ÊBAN.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×