Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài giảng Thông điệp đầu năm mới của Thủ tướng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.08 KB, 12 trang )

Thông điệp đầu năm của Thủ tướng
I. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế
1. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, giai đoạn 2001 - 2010, chúng ta đã
tạo được những xung lực mới cho quá trình phát triển. Mở rộng dân chủ trong kinh tế
với việc ban hành và thực hiện luật doanh nghiệp, phát triển mạnh kinh tế dân doanh,
đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài;
cải cách hành chính mà khâu trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; tham gia sâu
rộng vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, gia nhập tổ chức thương mại thế
giới; nhờ đó, đã phát huy được tiềm năng và nội lực của đất nước, tranh thủ được
nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong 10
năm thực hiện Chiến lược 2001 - 2010, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng khu
vực và tác động tiêu cực của khủng hoảng toàn cầu, nước ta đã vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức và những biến động phức tạp của kinh tế thế giới, giành được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020 đã trình bày khái quát những nét chủ yếu nhất về kết quả đạt được cũng
như những bất cập, yếu kém và rút ra những bài học sâu sắc từ thực tiễn.
2. Chúng ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh
và biến động rất khó lường. Các xu hướng nổi trội là:
(1) Sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ; hình thành nền kinh tế tri thức;
sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên liệu năng lượng, thân thiện với môi trường;
phát triển kinh tế xanh. Đây là động lực chủ yếu, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ
cấu thị trường toàn cầu, thúc đẩy quá trình cải cách và tái cấu trúc kinh tế trong từng
nước cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các nước. Đón nhận quá trình này
một cách tự nhiên hoặc chủ động lựa chọn tuỳ thuộc vào năng lực nội sinh và chính
sách của mỗi nước.
(2) Toàn cầu hóa và liên kết kinh tế ngày càng sâu rộng, thúc đẩy quá trình quốc tế
hóa sản xuất và phân công lao động, hình thành mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Xây dựng một nền
kinh tế độc lập tự chủ có tính cạnh tranh cao trở thành thách thức kinh tế lớn nhất đối
với nước ta trong thập kỷ tới.
(3) Vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế mới nổi, nhất là sự phát triển mạnh mẽ


cuả Ấn Độ và Trung Quốc làm thay đổi cán cân quyền lực kinh tế - chính trị trên thế
giới. Với vị thế địa chiến lược trọng yếu, ASEAN hội nhập ngày càng sâu rộng, tạo
thuận lợi cho sự phát triển của các nước thành viên và khẳng định vai trò chủ đạo
trong một cấu trúc khu vực đang định hình. Tuy nhiên, khu vực này cũng là nơi tiềm
ẩn những nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của nước ta cũng
như các nước trong khu vực.
Sau khủng hoảng, quá trình phục hồi kinh tế thế giới diễn ra chậm chạp và đầy mâu
thuẫn; khủng hoảng nợ công lan rộng và nguy cơ của cuộc chiến tranh tiền tệ chưa
phải đã được loại trừ. Trong bối cảnh đó, sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất
là các nước lớn làm cho độ rủi ro và tính bất định tăng lên.
Song song đó, tình trạng suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu nhất là nước biển
dâng mà nước ta là một trong số ít nước chịu tác động nặng nhất, có thể là biến số lớn
trong tiến trình phát triển của đất nước.
Chưa bao giờ bối cảnh quốc tế lại chi phối nhiều đến sự phát triển của nước ta với tất
cả những thách thức và cơ hội to lớn như vậy. Chúng ta sẽ phải làm gì và ở vị thế nào
trong sự vận động phức tạp này.
Dự thảo Chiến lược xác định các quan điểm làm căn cứ để lựa chọn mục tiêu và đề ra
các định hướng phát triển cho giai đoạn 2011 - 2020 phù hợp với tình hình trong
nước và bối cảnh quốc tế, bảo đảm tính thống nhất với mục tiêu dài hạn trong dự thảo
Cương lĩnh.
II. Bước tiến mới về tư duy phát triển
1. Về các quan điểm phát triển
Quan điểm phát triển bền vững trong dự thảo Chiến lược lần này mang một nội hàm
mới, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nhanh với phát triển bền vững, coi
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược; giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; đặt yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng
trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, đồng thời khắc phục tư
tưởng chạy theo tốc độ mà không chú ý đúng mức đến chất lượng tăng trưởng.
Trong tiến trình đổi mới 25 năm qua, Đảng ta bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới

kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Điều này là cần
thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, khi đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn,
các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này thể hiện
nhận thức đúng đắn của Đảng ta về bước đi và biện chứng phát triển của tiến trình
đổi mới. Dự thảo Chiến lược nêu “đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì
mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để
đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”. Trọng tâm của đổi mới chính
trị là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn
với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy đảng; mở rộng
dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ
quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa mà cạnh tranh kinh tế diễn ra rất
quyết liệt. Mỗi nước đều tìm cách khai thác tốt nhất các lợi thế so sánh sẵn có,
chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, đồng thời, tạo lập các lợi thế cạnh
tranh mới. Tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa kinh tế là những lợi thế so sánh sẵn có,
tuy rất quan trọng nhưng không phải là quyết định nhất. Thực tiễn đã khẳng định
nguồn lực con người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định lợi thế cạnh tranh dài
hạn của một quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện khoa học công nghệ -
sản phẩm trí tuệ của con người phát triển nhảy vọt trong thời đại chúng ta. Hơn nữa,
mục tiêu phát triển kinh tế xét đến cùng là vì con người, cho con người. Con người
phát triển toàn diện, có đời sống vật chất ấm no, đời sống tinh thần phong phú, có
năng lực trí tuệ, phát huy mọi khả năng sáng tạo trong sự nhận thức được cái tất yếu
để có thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, vươn tới tự do. Dự thảo Chiến lược nêu
quan điểm“phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; nhấn mạnh yêu cầu nâng cao năng lực và
tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để
phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm sự đồng thuận cao trong xã hội,

tạo động lực phát triển đất nước.
“Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng
cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”, quan điểm này nhấn mạnh yêu cầu mới, quan trọng của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất phải dựa vào trình độ khoa học, công
nghệ ngày càng cao, phản ánh xu thế khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, còn quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phải bảo đảm “phát triển nhanh hài hoà các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp. Tăng tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết
và định hướng nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể
với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã...”.
Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước mà còn có các nguồn lực khác
do Nhà nước sở hữu gồm ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên, dự trữ quốc gia…
Thông qua các chính sách phát triển và cơ chế điều tiết, phân bổ hiệu quả, các nguồn
lực này sẽ là nhân tố kích hoạt, định hướng việc thực hiện chính sách cơ cấu và sự
phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, khi nói kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo không chỉ nói riêng nguồn lực vật chất mà phải đặt nó trong sự tác động của
chính sách, khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và cũng không chỉ
nói đến vai trò của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế mà phải đặt trong tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Điều đó cũng đòi hỏi phải nhận thức và định
vị lại nội dung hoạt động và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Cùng với việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, dự thảo Chiến lược
nhấn mạnh “Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,
khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp
mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến
trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ
chế chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
của nền kinh tế”.
Từ hội nhập kinh tế, các nước đang mở rộng hội nhập sang các lĩnh vực khác như là

một tiến trình khách quan. Để tích cực, chủ động và nâng cao hiệu quả của tiến trình
hội nhập quốc tế, chúng ta phải “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao
trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”. Nhấn mạnh quan điểm này là
hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Tiềm lực kinh tế của đất nước, lực lượng
doanh nghiệp trong nước có mạnh, nền kinh tế mới vững, vị thế trong hội nhập mới
cao. Càng hội nhập có hiệu quả, chúng ta càng có điều kiện thuận lợi để xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ.
2. Về mục tiêu Chiến lược và các khâu đột phá
Dự thảo Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân
chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát
triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể nêu
trong Dự thảo thể hiện sự thống nhất giữa kinh tế, xã hội với chính trị, quốc phòng,
an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn với yêu cầu phát triển dài hạn, trở thành “Cương
lĩnh thứ hai của Đảng” nhằm triển khai nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thực hiện
Cương lĩnh.
Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, phải tiến hành đồng bộ nhiều
giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột phá - những khâu hiện đang là
những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra
những tiền đề giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho
phát triển. Dự thảo lựa chọn ba đột phá:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm
là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Ưu điểm của kinh
tế thị trường là phân bổ nguồn lực một cách hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó
làm tăng hiệu quả chung của nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn
thiện khi các yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi
trường cạnh tranh bình đẳng. Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị trường.

Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, nâng cao
năng suất - yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi của một phương thức sản xuất,
một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn được vận hành thông qua các thể chế và
thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy
mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Mặt khác, kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển các
lĩnh vực văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và
từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử
dụng hiệu quả các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị
trường.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ
phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Con người
là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Con người làm ra thể chế,
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất.
Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây vừa
là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài. Đặt yêu cầu gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung mới,
thể hiện tính hướng đích của phát triển nguồn nhân lực. Chỉ với nguồn nhân lực có
khả năng phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và quản lý mới tạo
ra năng suất cao để phát triển nhanh và bền vững.
Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập
trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Kết cấu hạ tầng là “đường dẫn”
cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển và là điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên
các vùng của đất nước. Sự yếu kém của kết cấu hạ tầng đang là cản trở lớn đến sự
phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh, không phát huy
được tác động hội tụ và lan tỏa của các yếu tố nội sinh, không khai thác được vị trí
địa kinh tế nằm trong chuỗi cung toàn cầu của nước ta và là nguy cơ làm gia tăng

chênh lệch về mức sống giữa các vùng của đất nước. Trong 10 năm tới, chúng ta phải
huy động các nguồn lực để thực hiện khâu đột phá này.
3. Về các định hướng phát triển
Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát nêu trên, dự thảo Chiến lược đề ra 12
định hướng phát triển, tạo nên một hệ thống đồng bộ các giải pháp lớn trên các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại như một chỉnh thể
của phát triển bền vững; bảo đảm gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới đây, xin phân tích một số nội
dung mới.
Có thể nói tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển các
lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là những tư tưởng
quan trọng nhất cũng là những nét mới trong tư duy phát triển.
Tái cấu trúc nền kinh tế không phải chỉ được đặt ra khi có khủng hoảng. Quá trình
này diễn ra một cách tiệm tiến hoặc nhảy vọt theo sự phát triển của khoa học, công
nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các nước. Nội dung và nhịp độ của tái
cấu trúc phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu
trúc nền kinh tế phải diễn ra đồng thời trên các nội dung sau:
(1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Mặt khác,

×