Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Target Band 7 - IELTS Academic Module - How to maximize your score

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.39 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0033
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 3, pp. 105-113


This paper is available online at


<b>CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU VÀ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP LÍ LUẬN</b>
<b>CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG HIỆN NAY</b>


Nguyễn Hồng Quý


<i>Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh</i>


<b>Tóm tắt.</b>Cơng tác lí luận nói chung, cơng tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo lí luận
chính trị nói riêng đóng vai trị to lớn trong đời sống xã hội, góp phần vào q trình ổn
định xã hội, đồng thuận về tư tưởng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ chế
độ, tham mưu, hiến kế cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối phát triển
đất nước. Đội ngũ làm cơng tác lí luận chính trị là những người tiên phong trong việc phổ
biến thế giới quan khoa học và lí tưởng dân chủ, nhân văn, sáng tạo nên nhiều sản phẩm có
giá trị được xã hội thừa nhận, đánh giá tích cực. Bài viết đề cập đến công tác nghiên cứu
và hoạt động giảng dạy học tập các mơn lí luận chính trị ở các trường đại học và cao đẳng
hiện nay, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao cơng tác này.


<i><b>Từ khóa:</b></i>Chủ nghĩa Mác – Lênin; Đổi mới ; Đội ngũ giảng viên; Giảng viên; Lí luận chính
trị; Tư tưởng Hồ Chí Minh.


<b>1. Mở đầu</b>



Lí luận chính trị ở nước ta hiện nay được hiểu là hệ thống những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cùng với những tinh hoa tư tưởng chính trị của
dân tộc và nhân loại. Lí luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu về lí luận và thực


tiễn chính trị của giai cấp trong công cuộc đấu tranh giành, giữ và xây dựng chính quyền nhà nước,
nó phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, là công cụ quan trọng cho việc bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập các mơn lí luận chính trị trong các trường đại
học và cao đẳng ở nước ta hiện nay là một thể thống nhất, không thể tách rời.


<b>2. Nội dung nghiên cứu</b>



Giáo dục đại học nằm trong hệ thống nền giáo dục quốc dân, có “vị trí đặc biệt” và “tính
đặc thù riêng” của nó. Sở dĩ nói là vị trí đặc biệt bởi đại học là đỉnh tháp của hệ thống cấp bậc đào
tạo, với sứ mệnh là đào tạo chuyên gia, cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao. Tính
đặc thù riêng của giáo dục đại học là giảng dạy, học tập ở bậc đại học gắn liền với việc nghiên cứu
khoa học. Giảng viên đại học chỉ đúng nghĩa nếu họ đứng trên bục giảng với tư cách “nhà khoa


Ngày nhận bài: 10/10/2015. Ngày nhận đăng: 10/2/2016.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

học” nếu họ tiến hành hoạt động dạy học như công việc nghiên cứu khoa học thực sự, đồng nhất
và thống nhất. Môi trường giáo dục đại học phải là môi trường của tư tưởng học thuật, văn hóa,
phản ánh và thể hiện đươc tinh hoa trí tuệ của đất nước, của quốc gia dân tộc. Việt Nam đang ngày
càng hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, trong đó có cả hội nhập về khoa học công nghệ
-giáo dục đào tạo. . . bởi đây là những lĩnh vực then chốt, được coi là nền tảng để thúc đẩy kinh tế
phát phát triển đã được không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay coi là quốc
sách quan trọng hàng đầu. Giáo dục đại học (gồm cả sau đại học) phải nỗ lực vượt bậc, tiến kịp
mặt bằng chung của khu vực, quốc tế và thế giới, xứng đáng là diện mạo trí tuệ, tinh thần của dân
tộc có truyền thống văn hóa và văn hiến ngàn năm.


Trong những năm vừa qua, dưới ánh sáng của lí luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và đường lối chính sách đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã làm nên những thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, hiện nay “nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức to lớn, đan


xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế với nhiều
nước trong khu vực và thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm
trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn
biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn
lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước
ta” [1; 29].


Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân quan trọng là:
“cơng tác nghiên cứu lí luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến lược, tính
thuyết phục, hiệu quả của cơng tác tư tưởng còn hạn chế, thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”. . . cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu ở một số nơi cịn mang tính hình thức, hiệu quả chưa
cao. . . ” [2; 172-173].


Trong khi khẳng định những kết quả tích cực của cơng tác lí luận trong những năm đổi mới
vừa qua, Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị về cơng tác lí luận đã chỉ rõ “cơng tác lí luận
cịn những hạn chế, khuyết điểm. Nhìn chung, lí luận cịn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên
cứu lí luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn. Nghiên cứu về tình hình thế giới, khu vực và
vấn đề thời đại chưa sâu sắc, toàn diện. Kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cịn dàn trải, tính hệ thống chưa cao, chưa gắn kết chặt chẽ với những vấn đề thực
tiễn đang đặt ra. . . đội ngũ cán bộ lí luận đơng, nhưng không mạnh. . . công tác tuyên truyền, giáo
dục, bồi dưỡng lí luận chính trị cịn hạn chế về chất lượng, trùng lắp về nội dung, chương trình
giáo trình; chậm đổi mới về phương pháp. . . ” [3; 2].


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn cách mạng đã xác định tính quy luật của q
trình lí luận tác động đến thực tiễn để hiện thực hóa lí luận: Lí luận phải phản ánh đúng quy luật
phát triển khách quan của xã hội và nhu cầu, lợi ích của quần chúng; Lí luận phải được thâm nhập
vào quần chúng để trở thành tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí cải tạo hiện thực của quần chúng;


Lí luận phải thể hiện mình trong mục đích, nội dung, chương trình, kế hoạch và phương pháp hoạt
động của quần chúng; Tổ chức hoạt động thực tiễn của quần chúng để thực hiện hóa lí luận [6,
tr.289] . Tương ứng với 4 tính quy luật của q trình tác động nói trên, cơng tác lí luận chính trị ở
các trường đại học, cao đẳng bao gồm 3 hình thức hoạt động cơ bản: Hoạt động nghiên cứu lí luận
chính trị; Hoạt động giảng dạy lí luận chính trị; Hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng.


<b>2.1. Hoạt động nghiên cứu lí luận chính trị</b>



Hiện nay, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục tồn tại và có những bước phát triển mới nhờ quá
trình “tự điều chỉnh” trong quá trình vận động và phát triển. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội vẫn
chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng; tồn cầu hóa vừa mang yếu tố tích cực, vừa mang yếu tố tiêu cực
đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi tồn cầu; cuộc cách
mạng khoa học cơng nghệ đang phát triển như vũ bão làm cho tri thức khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp và trở thành động lực của kinh tế tri thức; công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
ở nước ta đã và đang đạt được những thành tựu to lớn. . . Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước
nhiều nguy cơ và thách thức lớn, trong đó “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong
khu vực và thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm
trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu diễn biến hịa bình” [7, tr.184-185]


Trong bối cảnh nói trên, cần phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu lí luận chính trị ở các
trường đại học, cao đẳng nhằm tìm ra những bước đi mới, những hình thức mới cho phù hợp với
xu thế hội nhập phát triển của đất nước, đảm bảo theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù
hợp với tình hình mới hiện nay, hoạt động nghiên cứu lí luận chính trị ở các trường đại học, cao
đẳng cần tập trung vào những vấn đề sau:


Một là, nghiên cứu và đúc kết những giá trị cơ bản, bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.


Giá trị cơ bản, bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là ở sự chân thực về khoa học,


tính cách mạng của nó với mục đích giải phóng người lao động, giải phóng xã hội khỏi mọi áp
bức, bóc lột, mọi sự tha hóa, thực hiện một xã hội cơng bằng, nhân văn và nhân đạo. Bất chấp
thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh
liệt của mình; với “linh hồn sống” là phép biện chứng duy vật, với “hòn đá tảng kinh tế” là học
thuyết giá trị thặng dư, với những phát kiến vĩ đại duy vật về lịch sử mà nội dung cơ bản là lí thuyết
hình thái kinh tế - xã hội, vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân... Một ngun lí này hay một quan
điểm nào đó,. . . của chủ nghĩa Mác - Lênin có thể bị thực tiễn vượt qua, nhưng về tổng thể, với tư
cách là học thuyết cách mạng và khoa học thì nó khơng mất đi, mà ngược lại, nó cịn sống mãi với
thời gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

địch càng ra sức bài bác chủ nghĩa Mác - Lênin thì càng chứng tỏ tính đúng đắn, tính khoa học và
tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.


Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó khẳng định:
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động. . . . Và qua các kì đại hội, Đảng ta vẫn nhấn mạnh: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là những kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử
của Đảng và cách mạng Việt Nam, trong suốt quá trình cách mạng từ khi thành lập Đảng đến nay.
Đó là quyết định có tầm lịch sử quan trọng, thể hiện bước tiến trong tư duy lí luận của Đảng ta.


Đương nhiên, nói kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin khơng có nghĩa là rập khn, giáo điều,
áp dụng một cách máy móc mà phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ thể; Kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin là kiên định những nguyên tắc lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết; đồng thời phải biết vận
dụng và phát triển sáng tạo nó. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng tuyên bố: Học thuyết của các
ông không phải là học thuyết nhất thành bất biến mà là học thuyết về sự phát triển, học thuyết của


sự phát triển. Và, V.I.Lênin cũng đã từng nhắc nhở: “Chúng ta không hề coi lí luận của Mác như
là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng, lí luận đó chỉ đặt
nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi
mặt, nếu như họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.


Hai là, nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội hiện thực, đồng thời
nghiên cứu làm sáng tỏ mơ hình, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


Đứng trước những thay đổi của chủ nghĩa tư bản, nhiều người cho rằng xã hội tư bản hiện
nay khơng cịn giống xã hội tư bản thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX như C. Mác – Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin mô tả nữa. Người ta tuyên bố học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đã cáo chung và
rằng, chủ nghĩa tư bản đã phát triển lên một bước mới và khơng cịn là nó nữa.


Một điều nữa chúng ta cũng cần lưu ý là chúng ta chưa đánh giá hết khả năng co giãn của
cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa, cũng như tính linh hoạt của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản
hiện đại đã đi rất xa trong q trình tồn cầu hố sản xuất xã hội và nhất thể hoá kinh tế. Sự điều
tiết của tư bản tư nhân đối với các quá trình kinh tế quyện chặt với sự điều tiết của nhà nước tư
sản thơng qua cơng cụ luật pháp - hành chính - kinh tế - xã hội hết sức đa dạng. Vì vậy, khi đánh
giá chủ nghĩa tư bản hiện đại, cần cân nhắc cả hai mặt. Một mặt, đúng là những khuyết tật của nó,
những mâu thuẫn của nó, những cặn bã của nó, vẫn chưa mất đi. Nhưng mặt khác, năng lực phát
triển và tự cải tạo của nó, khả năng thích ứng của nó với điều kiện mới, rõ ràng không nhỏ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Chủ nghĩa xã hội hiện thực phải được nhìn nhận trong tính đa dạng, phong phú, sinh động
của thực tiễn mà quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng chỉ dẫn. Ngày nay quan niệm đúng
đắn phù hợp về chủ nghĩa xã hội phải là sự kết hợp những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin
với những giá trị tư tưởng, văn hóa truyền thống vốn có của từng quốc gia dân tộc đặt trong bối
cảnh của xã hội đương đại. Sự khơi phục phát triển đa dạng của mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa
phụ thuộc rất lớn vào sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo lí luận Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và
về xây dựng chủ nghĩa xã hội của đảng cộng sản, của đảng công nhân, đảng cánh tả trên thế giới


trong điều kiện hiện nay. Nghiên cứu, đánh giá về chủ nghĩa xã hội hiện thực và về những mơ hình
xã hội xã hội chủ nghĩa trên thế giới hiện nay là vấn đề lớn. Nó địi hỏi vừa phải có nhãn quan khoa
học, tầm nhìn thực tiễn sâu rộng.


Ba là, nghiên cứu một cách có hệ thống đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong đó, đặc biệt chú trọng đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.


Bốn là, nghiên cứu về con người Việt Nam, hệ thống giá trị truyền thống dân tộc để “chăm
lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức,
ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tơn vinh lịch sử, văn
hóa dân tộc” [8, tr.4].


Năm là, nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung, hình thức và phương pháp giảng dạy,
học tập lí luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng phù hợp với đối tượng học tập và đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong điều kiện mới. Đồng thời nghiên cứu đổi mới phương thức
trong cuộc đấu tranh về tư tưởng, lí luận chính trị hiện nay để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và chống “diễn biến hịa bình”,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Để cơng tác nghiên cứu lí luận chính trị có hiệu quả, các trường
đại học, cao đẳng cần phải có kế hoạch, có lộ trình cụ thể để xây dựng chương trình nghiên cứu lí
luận chính trị với các đề tài khoa học cụ thể và bố trí nguồn kinh phí tương ứng.


<b>2.2. Hoạt động giảng dạy và học tập lí luận chính trị</b>



Giảng dạy và học tập lí luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng là hoạt động đưa tri
thức lí luận chính trị “thâm nhập vào quần chúng”, góp phần hình thành tư tưởng, niềm tin, ý chí
cách mạng của quần chúng để chuyển hóa lí luận thành lực lượng vật chất cải tạo hiện thực. Do đó,


đội ngũ giảng viên giảng dạy lí luận chính trị là những người tiên phong trong việc phổ biến thế
giới quan khoa học và lí tưởng dân chủ, nhân văn, sáng tạo nên nhiều sản phẩm có giá trị, được xã
hội thừa nhận, được đánh giá tích cực.


Bên cạnh những thành quả đáng khích lệ, chúng ta phải thừa nhận một cách thẳng thắn rằng
công tác giảng dạy học tập lí luận chính trị cịn nhiều bất cập, chất lượng dạy và học các mơn lí
luận chính trị hiện nay ở các trường đại học, cao đẳng đang có dấu hiệu suy giảm, cơng tác định
hướng, tổ chức, quản lí chưa đáp ứng tốt những địi hỏi của sự nghiệp đổi mới chất lượng và mục
tiêu giáo dục, chưa tạo được sự kết nối giữa người dạy và người học, giữa những nội dung trong
sách với thực tiễn cuộc sống. Những mâu thuẫn và bất cập trong chương trình, giáo trình, chất
lượng đội ngũ giảng viên dạy các mơn lí luận chính trị. . . ngày càng trở nên gay gắt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Thứ nhất,</i>chủ nghĩa Mác – Lênin là đỉnh cao trí tuệ và tinh hoa văn hóa của nhân loại, bao
gồm (Triết học Mác – Lênin; Kinh tế chính trị Mác – Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học). Giảng
dạy chủ nghĩa Mác – Lênin là giáo dục giá trị, tinh thần khoa học, cách mạng và nhân văn, mà
trước hết là giáo dục nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cùng với “thế giới quan duy vật biện
chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật cùng hệ tư tưởng khoa học của giai cấp cơng nhân
cách mạng với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức,
bóc lột, tiến tới xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [9, tr.9].


Trước đây, tương ứng với các môn học Triết học Mác – Lênin; Kinh tế chính trị Mác –
Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học thì trong các trường đại học có các khoa hoặc bộ mơn chun
ngành nhằm đào tạo giảng viên cho các môn học này. Tuy nhiên, sau khi ghép ba môn học trên
thành môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, để chuẩn bị đưa vào giảng dạy, Bộ
giáo dục và Đào tạo đã giao cho một số trường mở các lớp tập huấn ngắn hạn cho đội ngũ giảng
viên nhằm trang bị những kiến thức cơ bản của môn mà giảng viên chưa được đào tạo chuyên sâu.
Thực tế việc giảng dạy môn học mới này ở các trường cũng có sự khác nhau. Có trường vẫn
duy trì dạy theo chuyên ngành, nghĩa là giảng viên dạy triết học sẽ dạy khối kiến thức phần triết
học, tiếp sau là giảng viên dạy phần kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Điều đó có
nghĩa là một mơn học ln phải duy trì ba giảng viên. Một số trường thì yêu cầu một giảng viên


phải dạy hết cả môn học. Thực tế cho thấy, giảng viên được đào tạo chun ngành nào thì chỉ dạy
tốt phần đó mà thơi, cịn các học phần khác thì hiểu tới đâu dạy tới đó. Hiện nay, khi mơn học này
đã được đưa vào giảng dạy được 7 năm, tuy nhiên hiện vẫn chưa có trường hay khoa sư phạm của
trường đại học hay viện nghiên cứu nào mở mã ngành đào tạo giảng viên Những nguyên lí cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin.


<i>Thứ hai,</i>tư tưởng Hồ Chí Minh là “hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vơ cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”
[10, tr.88].


Giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh là giáo dục tri thức Hồ Chí Minh học về triết học, chính
trị học, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, con người. . . , nhất là giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, phong cách và phương pháp Hồ Chí Minh trong cuộc sống và trong ứng xử với mình,
với người, với cơng việc. . .


<i>Thứ ba,</i>Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước không chỉ
phản ánh quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam, mà cịn thể hiện nhu cầu, lợi
ích và khát vọng của quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy, phải giáo dục và làm cho cán bộ đảng
viên, nhân dân, nhất là thế hệ trẻ thấu hiểu và tin tưởng vào Cương lĩnh, đường lối, chính sách
của Đảng và vào sự nghiệp đổi mới làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Trong điều kiện hiện nay, cần giáo dục làm cho cán bộ đảng viên và sinh viên các trường
đại học, cao đẳng thấu hiểu và tin tưởng vào “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển 2011); mục tiêu và những đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt Nam (thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng) và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát


triển kinh tế tri thức, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc).


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mà dựa vào đó thế hệ trẻ có thể phát huy được giá trị quá khứ, tiếp thu được giá trị hiện đại và định
hướng giá trị trong tương lai để tự tồn tại, tự phát triển mà khơng suy thối, biến chất và đánh mất
chính mình.


Trong điều kiện hiện nay, giảng dạy và học tập về giá trị truyền thống dân tộc ở các trường
đại học, cao đẳng là giáo dục: Ý thức tự tôn, tự lập, tự cường và tự hào dân tộc; Giáo dục chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam đã được tôi luyện qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; Giáo
dục tình u thương con người và tính cố kết cộng đồng, sống thủy chung nhân ái và khoan dung;
Giáo dục đức tính cần cù, trí thơng minh và sáng tạo; Giáo dục tinh thần lạc quan cách mạng, luôn
yêu cuộc sống hịa bình và ln vươn tới tương lai.


<i>Thứ năm,</i>tinh hoa văn hóa nhân loại là kết tinh những giá trị văn hóa tiêu biểu, mang tính
nhân văn phổ qt có ích và có ý nghĩa đối với sự phát triển của dân tộc Việt Nam và nhân loại
tiến bộ. Trong điều kiện tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, giảng dạy về tinh hoa văn hóa nhân loại
ở các trường đại học, cao đẳng là giáo dục: Tri thức khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại; Giáo
dục tinh thần dân chủ và ý thức tôn trọng pháp luật; Giáo dục giá trị của tự do, bình đẳng, bác ái
và trách nhiệm của cơng dân đối với tổ quốc.


Đào tạo, giáo dục lí luận chính trị là hoạt động giáo dục tồn diện ở trình độ cao và mang
tính chuyên nghiệp đối với sinh viên đại học cao đẳng, đối với cao học, nghiên cứu sinh chuyên
ngành lí luận chính trị, những người tương lai sẽ trở thành chuyên gia giáo dục trong tương lai, nhà
lí luận, thành giảng viên dạy lí luận chính trị, nghiên cứu viên lí luận chính trị.


Với các đối tượng như trên, cần được trang bị khối lượng kiến thức hệ thống tồn diện và
sâu sắc của khoa học lí luận chính trị; cùng với kiến thức kinh điển, kiến thức lịch sử các môn học
và kiến thức hiện đại được cập nhật thường xuyên. Đồng thời, cần trang bị hệ thống phương pháp
luận, phương pháp và kĩ năng hoạt động thực tiễn cho người học.



Hiện nay việc nâng cao chất lượng giảng dạy và đào tạo lí luận chính trị yêu cầu cần phải
đảm bảo những yếu tố cơ bản sau: Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên lí luận chính trị có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ và nhân cách, giàu lịng u nghề, tâm huyết với việc giáo
dục bồi dưỡng thế hệ trẻ, mẫu mực trong hoạt động nghiên cứu giảng dạy và trong cuộc sống. Mỗi
giảng viên phải là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ;


Xây dựng, hồn thiện “chương trình chuẩn” về giảng dạy lí luận chính trị với những nội
dung, hình thức và phương pháp thích hợp đối với đối tượng chun ngành và khơng chun ngành
lí luận chính trị; Xây dựng và hồn thiện “giáo trình chuẩn” và các “tài liệu tham khảo chuẩn”
tương ứng với nội dung các mơn học lí luận chính trị và phù hợp với từng đối tượng (chuyên ngành
và không chuyên ngành). Xây dựng “chương trình chuẩn” là trách nhiệm của cơ quan quản lí nhà
nước về giáo dục đào tạo với sự giúp đỡ của những nhà khoa học có chun mơn, có tầm nhìn
chiến lược. Cịn việc xây dựng “giáo trình chuẩn” và “tài liệu tham khảo chuẩn” thuộc về trách
nhiệm của các nhà khoa học; Luôn đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung môn
học, với đối tượng người học và với thực tiễn đổi mới đất nước; Tổ chức quản lí, đánh giá, tổng kết
q trình đào tạo, giảng dạy, học tập lí luận chính trị một cách khoa học, khách quan và đúc rút
những bài học kinh nghiệm; Bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí cho đào tạo, giảng dạy
và học tập lí luận chính trị. Đặc biệt là phải đảm bảo lương cho đội ngũ giảng viên đáp ứng ít nhất
ở mức sống trung bình của xã hội; Đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và những tiêu cực của xã hội, đặc biệt là những tiêu cực trong công tác giáo dục đào tạo.


<b>2.3. Công tác giáo dục tư tưởng chính trị</b>



</div>

<!--links-->

×