Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 20 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
iiSỊlSSll
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TẬP I
<i>(Tái bản lần thứ 4)</i>
m r r<i>-</i> <i>t</i>
T <i>r ■■</i> ' ' * “> ' • , / “ * .■“ " / * 1 I ! A / ' * <i>1</i>1 1 I I
í K ;J Ji\ỉG ĐA! HOC
*»■»<» »rv-. s»ú»r
Chủ biên
TS. NGUYỄN VIẾT TÝ
Tập thể tác giả
1. PGS.TS. NGUYỄN NHƯPHÁT Chương VI, VII
2. PGS.TS. NGƠ TRÍ LONG Chương VIII (Mục C)
3. TS. BÙI NGỌC CUỜNG Chương III
4. TS. NGUYỄN VIẾT TÝ Chương I
5. ThS. NGUYỄN THỊ KHẾ Chương IV
6. ThS. LÊ THỊ LỢI Chương V
7. ThS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN Chương II
8. TS. NGUYỄN THỊ DUNG Chương VIII (mục A)
LỜI GIỚI THIỆU
<i>Từ đầu nhữnq nàm 90 của thế kỉ trước</i>, <i>đẻ ptìiic vụ cơng</i>
<i>tác giảng dạy và học tập môn học luật kinh tế, Trường Đại</i>
<i>học Luật Hờ Nội đã xuất bản và tái bân nhiều lán giáo trình</i>
<i>luât kinh tế vù iỊỉủo trình luảỉ thương mại Vỉêt Nam. Các</i>
<i>giáo trình đó đã nhân đươc sư quan tâm và đón ciỊÊkcíia bạn</i>
<i>đọc gần xa.</i> ^ỊỊỊằ
<i>Tuy nhiên, trong những nám qua</i>, <i>cùng với sựịđếyểti đổi</i>
<i>phạm trù</i>, <i>khái niệm mới so với trước. Hơn nữa, ịể p h ụ c vụ</i>
<i>cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập theo c!ề(ơng trình</i>
<i>dào íạo mới của nhà trường,(j) Trường Đại học Luật Hà Nội</i>
<i>tổ chức biên soạn giáo trình luật thương mại</i>, <i>thay thế giáo</i>
<i>(rình Ỉỉiật kinh tế và ụáo trình luật thương mại Việt Nam</i>
<i>tỉèii trẽn.</i>
<i>Với những cơ gắng vượt bậc của mình, tập thể tác giả dã</i>
<i>tập trung nghiên cứu và biên soạn những vấn đề lí luận và</i>
<i><b>thực tiễn CƯ bản cấp bách của pháp luật thương mại Việt</b></i>
<i>Nam nhằm đáp ứng nhu cầu ỹảng dạy, học tập và nghiên</i>
<i>cứu môn luật thương mại. Bên cạnh đó, cuốn giáo trình cũng</i>
<i>gợi mả những đề tài cần dược nghiên cứu sâu thêm, khi bạn</i>
<i>đọc có nhu cáu.</i>
<i>Giáo trình luật thương mại gồm 18 chương, được thể</i>
<i>hiện trong hai tập: Tập I có 8 chương (từ chươtĩg 1 đến</i>
<i>chương 8), phục vụ cho việc học tập và giảng dạy hai học</i>
<i>phần bắt buộc (học phần pháp luật về doanh nghiệp và học</i>
<i>phần pháp luật cạnh tranh) và một học phần tự chọn; Tập II</i>
<i>có 10 chương (từ chương 9 đến chương 18), phục vụ cho việc</i>
<i>học tập và giảng dạy hai học phần bắt buộc (học phần pháp</i>
<i>luật vê các hành</i> vi <i>thương mại và học phần pháp luật vê</i>
<i>phá sản và giải quyết tranh chấp trong thương mại) và một</i>
<i>học phẩn tự chọn.</i>
<i>Chúng tôi trân trọng cảm ơn tập thể tác giả đã dành</i>
<i>nhiều thời gian để biên soạn và chỉnh lí chỉnh sửa giáo</i>
<i>trình. Đặc biệt chúng tôi trân trọng câm ơn Hội đồng</i>
<i>nghiệm thu giáo trình Luật thương mại về sự hổ trợ các ỷ</i>
<i>kiến đóng góp hết sức quỷ báu trong quá trình biên soạn và</i>
<i>thẩm định giáo trình này.</i>
<i>Giáo trình luật thương mại lần đầu tiên được biên soạn</i>
<i>chắc khó tránh khỏi những hạn chế nhất định. Trường Đại</i>
<i>học Luật Hà Nội chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp</i>
<i>cùa bạn đọc đ ể hồn thiện giáo trình trong các lần tái bán.</i>
<i>Hà Nội, tháng 4 năm 2006</i>
CHUƠNGI
K H Á I Q U Á T LUẬT THƯ Ơ NG M Ạ I V IỆ T N AM
i
I. QUAN NIỆM VỀ LUẬT KINH TẾ, LUẬT THUƠNG
MẠI, LUẬT KINH DOANH
1. Quan niệm về luật kinh tẽ
Quan niệm về luật kinh tế được biết đến ở các nước tư
bản từ những năm đầu của thế kỉ XX, khi trong nền kinh tế
xuất hiện những nhân tố mới như: sự can thiệp của nhà
<b>(x03flMCTBeHH0e n p a B O , economic lavv) - ngành luật Iiàm ở</b>
chỗ giáp ranh giữa luật công và luật tư.
trọng nhất.
Cho đến nay, vẫn đề này vẫn được GS.TS. Friedrich Kubler
khẳng định lại rằng luật kinh tế không thuần túy thuộc cơng
pháp hoặc tư pháp mà nó trùm lên cả công pháp và tư pháp,
có vấn đề thuộc cơng pháp và có vấn đề thuộc tư pháp.(l)
Sau Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, cùng với việc
thiết lập chính quyền chun chính vơ sản, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đã thiết lập chế độ <i>sở</i> hữu hoàn
toàn mới - chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất. Sở hữu
XHCN về tư liệu sản xuất là cơ sở của nền kinh tế quốc dân
XHCN. Hầu hết mọi chủ trương chính sách của các đảng
cộng sản và các nhà nước XHCN đều nhăm phát triển tối đa
hình thức sở hữu này. Mặt khác, nhà nước XHCN không chỉ
là trung tâm quyền lực chính trị rr>à cịn là trung tâm kinh tế.
Với tư cách là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu và
là người nấm quyền lực chính trị, nhà nước XHCN trực tiếp
tiến hành hoạt động kinh tế và lãnh đạo hoạt động đó. Tất cả
các tình tiết đó có ý nghĩa quan trọng để nhận thức bản chất
Mặc dù, ở các nước XHCN trước đây có các điều kiện
kinh tế, chính trị - xã hội tương đối giống nhau nhưng quan
niồ*n về luật kinh tế cũng khong hoàn toàn thống nhất với
nhau. Thậm chí, ngay ờ trong một nước như Liên Xô (cũ),
trong mỗi thời kì lịch sử, cũng có nhiều quan niệm khác
nhau về luật kinh tế.
<b>(i).X em : V F. Kubler và J. Simon (1992), </b><i><b>M ấy vấn d ề ph áp ĩuật kinh t ế Cộng</b></i>
- Theo GS.VS. Laptev - người đứng đầu trường phái luật
kinh tế trong những năm 60, 70 thế kỉ trước thì luật kinh tế là
một ngành luật - tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định
trật tự quản lí và thực hiện các hoạt động kinh tế và điều
chỉnh các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế XHCN
cũng như các đơn vị cấu thành bên trong của nó với việc vận
dụng nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau.(l)
Như vậy, những người theo trường phái luật kinh tế của
GS.VS Laptev cho rằng luật kinh tế là ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật Xô viết, điều chỉnh các quan hệ
giữa các tổ chức kinh tê XHCN và các bộ phận cấu thành
của chúng tronjị lãnh đạo và thực hiện các hoạt động kinh tế.
Những quan kệ này được gọi là các quan hệ kinh tế và phát
sinh trong quá trình tái sản xuất XHCN. Tất nhiên, đối tượng
điều chình của luật kinh tế không phải là tất cả các quan hệ
phát sinh trong quá trình tái sản xuất XHCN mà chỉ một
phần các quan hệ đó - các quan hệ kinh tế, với đặc trưng
<b>nguyên tắc riêng.</b>
Ở Việt Nam, vào những năm 60, 70 của thế kỉ XX, nhân
dân ta phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đó là giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước và xây dựng CNXH ờ
<b>(l).X cn i: v .v . Lap chep (1975), </b> <i><b>Giáo trình InợỊ kinh tê\</b></i><b> Nxb. Khoa học,</b>
miền Bắc. Trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc, chúng
ta có những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cơ bản tương tự
như Liên Xơ và các nước Đơng Âu, do đó chúng ta đã áp dụng
cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập trung như các nước
đó. Đó là lí do cơ bản để lí giải cho sự tác động của khoa học
pháp lí của Liên Xô và các nước Đông Âu đối với khoa học
pháp lí nước ta. Có thể nói, trong thời kì này, Việt Nam đã
tiếp thu hoàn toàn các quan điểm lí luận của GS.VS. Laptev
về luật kinh tế là ngành luật độc lập là tổng hợp các quy
phạm pháp luật quy định trật tự quản lí và thực hiện các hoạt
động kinh tế và điều chỉnh các quan hệ kinh tế giữa các tổ
chức kinh tế XHCN cũng như các đơn vị cấu thành bên trong
của nó với việc vận dụng nhiều phương pháp điều chỉnh khác
nhau mà khơng có sự tranh luận gay gắt nào xảy ra.
Chính vì vậy, quan niệm về luật kinh tế trong giới lí luận cũng
Trong thời gian gần đây ở nước ta, luật kinh tế vẫn được
quan niêm là: <i>"Tổng thể các quy phạm pháp luật... điều</i>
<i>chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong q trình tơ’ chức,</i>
<i>qn lí và hoạt động của sản xuất kỉnh doanh giữa các</i>
<i>doanh nghiệp với nhau và với cơ quan quản lí nhà nước”,{X)</i>
Như vậy, có thể nói, luật kinh tế là ngành luật điều chỉnh
hai nhóm quan hộ xã hội chủ yếu, đó là những quan hệ phát
sinh trong quá trình thực hiộn hoạt động kinh doanh và
những quan hệ trong quá trình quản lí nhà nước đối với hoạt
<b>(l).X em : Truờng Đại học Luật Hà Nội (1996), </b><i><b>Giáo trình luật kinh tê\</b></i><b> Nxb.</b>
động kinh doanh đó. Tương ứng với các quan hệ đó, nội
dung của luật kinh tế bao gồm hai bộ phận quy phạm pháp
luật chính: thứ <b>nhất, </b>những quy định về việc thực hiện hoạt
động kinh doanh; thứ hai, những quy định về quản lí nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh. Tùy thuộc vào bản chất
của nền kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử mà nhà nước chú
trọng ưu tiên phát triển các quy định về thực hiện hoạt động
kinh doanh hoặc các quy định về quản lí nhà nước đôi với
hoạt động kinh doanh.
2. Quan niệm về luật thương mại
Trong đời sống kinh tế xã hội cũng như trong khoa học
<b>tính chất hàng hóa - tiền tệ.</b>
Luật thương mại ra đời do yêu cầu mới của đời sống kinh
tế xã hội lúc bấy giờ và do các quy định của luật dân sự
không thể đáp ứng được đối với những quan hệ mới phát
sinh trong lĩnh vực lưu thông thương mại. Lúc đầu người ta
chỉ biết có dân luật. Tới thời kì thương mại phát triển, người
ta nhận thấy có nhu cầu đặc biệt, cần có các quy tắc riêng
mới thoả mãn được. Thí dụ, nhu cầu nhanh chóng, Itiau lẹ vể
thủ tục, nhu cầu tín dụng.(1)
Lúc khởi thủy, luật thương mại là ngành luật tư điển
hình, là luật của các thương gia, điều chỉnh các quan hẹ mua
<b>(l).X em : Nguyền Quang Quýnh (1967), </b><i><b>Giáo trình dân luật</b></i><b>, quyển 1, Viên</b>
bán trên thị trường.(l) Như vậy, lúc bấy giờ luật thương mại
chi điều chỉnh các hành vi mua bán hàng hóa nhằm mục đích
kiếm lịi. Nhưng về sau, quan niệm "hành vi thương mại"
khơng cịn bị bó hẹp là hành vi mua bán mà được mờ rộng ra,
bao gồm tất cả các hành vi: đầu tư, sản xuất, trao đổi hàng
hóa, cung ứng dịch vụ... nhằm mục đích sinh lợi. Do đó, phạm
vi điều chỉnh của luật thương mại ngày càng được mở rộng và
nội dung của nó ngày càng phong phú hơn. Nội dung của luật
thương mại các nước này được thể hiện tập trung nhất trong
các bộ luật thương mại, đề cập những vấn đề cơ bản như: địa
Ở Việt Nam, cùng với việc ban hành Luật thương mại
năm 1997, trên thực tế đã xuất hiộn khái niệm "luật thương
mại". Song, do khái niệm thương mại được hệ thống pháp
luật nước ta lúc đó được tiếp cận ờ nghĩa hẹp, tức chì là một
khâu của hoạt động thương mại, cho nên luật thương mại
không được coi là một ngành luật mà chỉ được coi như một
bộ phận của luật kinh tế. Trong thời gian gần đây, để phù
hợp vói Hiệp định thương mại Viột Nam - Hoa Kì cũng như
các văn bản pháp lí của WTO, hoạt động thương mại được
pháp luật Viột Nam ghi nhận theo nghĩa rộng. Đó là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá
<b>(i).X em : Dương Đàng Huệ (1996), </b><i><b>C ơ s ò khoa học cùa việc xây dim g pháp</b></i>
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác.(l) Với quan niệm luật
thương mại với nghĩa như vậy, cho nên ở trường Đại học luật
Hà Nội, môn học luật kinh tế trước đây được đổi thành môn
học luật thương mại.
<b>3. Quan niệm </b>về <b>luật kinh doanh</b>
Vào cuối thế kỉ XX, trong một số tài liệu nghiên cứu và
giảng dạy pháp lí cùa một số nước trên thế giới xuất hiện
<b>(1).Xem: Điéu 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại nãm 2003; khoản 1 Đièu 3</b>
<b>Luật thương mại (2005).</b>
<i>chính".w</i> Các vấn đề pháp lí trình bày trong cuốn sách này
có thể chia thành hai bộ phận: Thứ nhất, bộ phận pháp luật tư
bao gồm các vấn đề về chủ thể thương mại, hợp đổng; sở hữu
tư nhân và các biộn pháp đảm bảo; mua bán; giấy tị có giá,
bảo hiểm... Thứ hai, bộ phận pháp luật công bao gồm các
vấn đề như vi phạm và tội phạm trong kinh doanh, trình tự tơ'
tụng... Với nội dung trên của cuốn "Luật kinh doanh", chúng
tôi suy luận rằng luật kinh doanh mại bao gồm những quy
định điều chinh các quan hệ kinh doanh, bảo vệ những lợi
ích tư của các chủ thể tham gia thương trường và những quy
ở Việt Nam, thuật ngữ "luật kinh doanh" hay "pháp luật
kinh doanh" được bàn đến vào những năm đầu của thập kỉ 90
thế kỉ XX, trong các đề tài nghiên cứu khoa học và trong các
hội thảo khoa học. Theo PGS.TS. Lê Hồng Hạnh: <i>"Luật kinh</i>
<i>doanh điều chình các quan hệ gắn liền với hoạt động sản</i>
<i>xuất kinh doanh''p</i> Còn theo PGS.TS. Dương Đăng Huệ,
pháp luật kinh doanh, nói một cách nổm na nhất là tổng hợp
các vàn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
quá trình tổ chức hoạt động và giải thể doanh nghiệp. Nội
dung của kinh doanh có bốn bộ phận cơ bản cấu thành là:
pháp luật về các loại hình doanh nghiệp; pháp luật về hành vi
kinh doanh; pháp luật về vỡ nợ, phá sản; pháp luật về cơ
<b>(1).Xem: Robert Rosenberg R. (1983), Business law: With ƯCC Application,</b>
<b>Sixth Edition, Mc Gravv-Hill.</b>
<b>(2).Xein: Lô Hổng Hạnh, Tham luận tại Hội íhảo khoa học, Bộ Tư pháp tổ chức</b>
<b>ngày 19/1/1990.</b>
quan tài phán trong kinh doanh.10
Từ những quan niệm trên cho thấy dù quan niệm luật
kinh doanh là ngành luật hay môn học thì nội dung cơ bản
của nó cũng chứa đựng hai vấn đề pháp lí cơ bản, đó là: Pháp
luật về hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh và
pháp luật về quản lí nhà nước đôi với hoạt động kinh doanh.
Suy cho cùng, những vấn đề trong nội dung của luật kinh
Tóm lại, ở một phương diện nào đó, luật kinh tế, luật
thương mại hay luật kinh doanh mại được sử dụng như
những khái niệm cùng loại - đều là ngành luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thương mại hoặc kinh
doanh tại một quốc gia nào đó, trong một giai đoạn lịch sử
nào đó. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cách thức và mức độ can
thiệp của nhà nước vào hoạt động nói trên mà trong nội dung
của chúng cũng có những điểm khác nhau.
II. Sơ LUỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIEN c ủ a l u ậ t
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Luật thương mại Việt Nam dưới chế độ cũ
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam đã có các bộ
luật như Bộ hình thư (triều Lí), Bộ Quốc triều thống chế
(triểu Trần), Bộ Quốc triều hình luật (triều Lê), Bộ Hoàng
Việt luật lệ (triều Nguyễn). Cho đến ngày nay, hai bộ luật
thời Lí, Trần khơng cịn được lưu lại. Cịn bộ Quốc triều hình
luật và bộ Hoàng Việt luật lệ, mặc dù nội dung nặng về hình
sự nhưng ngồi những quy định về luật hình sự, hai bộ luật
này còn chứa đựng một sô' chế định của luật dân sự và một
số ngành luật khác và hai bộ luật cổ này có thể được coi như
Như vậy, các quy định của luật dân sự có từ thời phong
kiến, còn pháp luật thương mại hầu như không được biết đến
trong pháp luật Việt Nam thời phong kiến. Điều đó có thể lí
giải, là vì nền thương mại Việt Nam lúc bấy giờ cịn kém
cỏi, chưa có gì phát triển đáng kể.
Phải đến thời Pháp thuộc ở nước ta mới có những quy
định, chế định của luật thương mại. Năm 1864 người Pháp
đem Bộ luật thương mại của mình áp dụng vào Nam kì và Bộ
luật đó cũng được áp dụng vào Bắc kì năm 1888. Bộ luật
thương mại Pháp quy định về các vấn đề như thương gia và
quyền hạn nghĩa vụ của thương gia; về các hội buôn; về
thương phiếu; vể luật hàng hải; về phá sản (khánh tận) và về
toà án thương mại. Năm 1892, Pháp ban hành sắc lệnh quy
định việc hành nghề thương mại của người Á Đông ngoại
quốc và người Việt Nam sinh tại các nhượng địa Pháp (Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật Pháp.
có vi phạm thì được xét xử ở các toà án Pháp và theo pháp
luật của Pháp.
Ngồi những văn bản đó, về sau cịn có những văn bản
khác quy định về từng vấn đề cụ thể như: Đạo luật về bán và
cầm cố cửa hàng thương mại năm 1909; Đạo luật về bào vệ
quyền sở hữu cửa hàng thương mại năm 1926; Luật về hối
phiếu, thương phiếu năm 1894, 1922, 1935; sắc luật về chi
phiếu năm 1935 V .V ..
Mãi đến năm 1942, triều đình Huê' mới ban hành Bộ luật
thương mại Trung phần. Bộ luật này có nội dung cơ bản
giống Bộ luật thương mại của Pháp, có hiệu lực thi hành tại
Trung bộ từ ngày 25/1/1944.
Sau Cách mạng tháng Tám, trên cơ sở sắc lệnh 90/SL
ngày 10/10/1945 và sắc lệnh sô' 97/SL ngày 22/5/1950 của
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong những nãm
đầu cách mạng, pháp luật về thương mại vẫn cịn có hiệu lực
trừ những luật lệ trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt
Nam và chính thể nhân dân cộng hịa.
Hịa binh lập lại (1954), đất nước bị chia cắt thành hai
miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Nam, chính
phủ Việt Nam cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
về thương mại quan trọng. Chẳng hạn như: Luật sô' 13/57 về
nhãn hiệu thương mại; Luật số 12/57 về bằng sáng chế; Nghị
định số 92/BKT/CKN ngày 9/4/1968 và Nghị định số
406/BKT/ND ngày 11/10/1968 về danh sách các ngành nghề
tiểu công nghệ <b>V.V.. </b> Quan trọng hơn hết trong pháp luật
luật thương mại, luật thương mại Việt Nam cộng hịa có một
bước phát triển đáng kể với nội dung khá phong phú, đề cập
nhiéu vấn đề của đời sống thương mại lúc đó ờ miền Nam
Việt Nam. Luật thương mại Việt Nam cộng hịa có những
vấn đề cơ bản như định nghĩa và lịch sử của luật thương mại;
những hành vi thương mại; thương gia và sự hành nghê
thương mại; những nhiệm vụ nghề nghiệp của nhà buôn; cửa
hàng thương mại; khế ước thương mại; thương phiếu và hối
<b>2. Luật kinh tế trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung</b>
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, luật kinh tế
được coi là một ngành luật trong hộ thống pháp luật Việt
Nam. Điều đó được thể hiện khá rõ nét irong các giáo trình
của các trung tâm đào tạo cử nhân luật <i><b>ở</b></i> nước ta.(I) Theo
quan niệm trong các giáo trình đó, luật kinh tế được hiểu là
tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình lãnh đạo và thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế
XHCN với nhau.
Như vậy, luật kinh tế là ngành luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh chủ yếu giữa các tổ chức XHCN với nhau
trong quá trình lãnh đạo và thực hiộn hoạt động sản xuất
kinh doanh. Chủ thể của luật kinh tế chủ yếu là những tổ
chức XHCN.
<b>(l).X em : Trường Đại học Luật Hà Nội (1993), </b><i><b>Giáo trình lí luận v ề nhà nước</b></i>
Cũng cần nhấn mạnh rằng ờ giai đoạn cuối của thời kì
bao cấp, trong nền kinh tế của chúng ta có sự tham gia của
các thành phần kinh tế khác ngoài thành phần kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Hơn nữa, để thu hút nhân lực, vật
lực và tài lực vào việc thực hiện thắng lợi kế hoạch của Nhà
Trong thời kì bao cấp, việc kinh doanh chủ yếu được các
tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành.
Chính vì vậy, để điều chỉnh các quan hệ kinh tế nảy sinh
trong quá trình kinh doanh XHCN, luật kinh tế trong thời kì
này tập trung ghi nhận các chế độ pháp lí liên quan đến việc
tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh. Cụ
thể, nội dung của luật kinh tế gồm có những chế độ pháp lí
chủ yếu như: địa vị pháp lí của các chủ thể luật kinh tế; chế
độ pháp lí về tài sản của các đơn vị kinh tế quốc doanh; chế
độ pháp lí về kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân; chê độ
pháp lí hạch tốn kinh tế; chế độ hợp đồng kinh tế và trọng
tài kinh tế.
Nói tóm lại, do tính chất của kinh doanh trong nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, luật kinh tế trong thời kì này chủ
yếu ghi nhận về tổ chức và hoạt động kinh doanh của các
đơn vị kinh tê quốc doanh.
3. Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
<i>kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dàn chủ".(ị)</i>
Cùng với việc khẳng định bản chất của việc đổi mới cơ chế
quản lí kinh tế, Đảng ta cũng đã xác định hai đặc trưng cơ bản
của cơ chế mới là <i>"tính k ế hoạch - đặc trưng thứ nhất", "sử</i>
<i>dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa tiền t ệ ' dặc trưng thứ hai" p</i>
Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế đã làm thay đổi cơ bản
tính chất của các quan hệ trong kinh doanh. Điều này cũng
đưa đến yêu cầu tất yếu phải có sự thay đổi trong luật kinh tế
cho phù hợp với thực tế khách quan.
. Về thực chất, luật kinh tế trong giai đoạn này vẫn được
hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp
hoặc giữa chúng với cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của t nc, ô ã ã
Ni dung của luật kinh tế có bốn bộ phận quy phạm pháp
luật cơ bản, đó là: pháp luật vế chù thể kinh doanh; chế độ
hợp đồng kinh tế; pháp luật về phá sản doanh nghiệp; pháp
luật về giải quyết tranh chấp kinh tế.
Như vây, thoáng nhìn phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế
so với trước đây hầu như khơng có sự thay đổi, vẫn là những
quan hệ phát sinh trong quá trình kinh doanh. Song, quá
trình kinh doanh trong giai đoạn này có những thay đổi vể cả
chủ thể lẫn phương thức kinh doanh, cho nên các quan hệ
<b>(1).Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (1987)* </b><i><b>Văn kiện Đ ại hội đại biển toàn</b></i>
<i><b>quốc ìắn thứ V ỉ,</b></i><b> Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 65.</b>
<b>(2).Xem: Đảng Cộng sản Viột Nam (1987), </b><i><b>Vãn kiện Đ ại hội đợi biểu toàn</b></i>