Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.92 KB, 19 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Vit Nam tuyờn truyn gii phúng quõn, tin thân của Quân đội </b>
<b>Nhân dân Việt Nam, thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 tại khu </b>
<b>rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (nay </b>
<b>thuộc tỉnh Cao Bằng). </b>
Mạc Thạch, làm chính trị viên, Hồng Văn Thái phụ trách tình báo và kế hoạch tác chiến,
Lâm Cẩm Như, tức Lâm Kính, phụ trách cơng tác chính trị, Lộc Văn Lùng tức Văn Tiên làm
quản lý. Vũ khí có 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp.
.
.
Lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
Trong "Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân" do Nguyễn Ái Quốc
soạn có ghi:
1. Tên: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự...
2. Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các
cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm...
3. Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đơng mai
tây, lai vơ ảnh, khứ vơ hình.
Cuối cùng Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Tuy lúc đầu quy mơ của nó cịn nhỏ, nhưng tiền đồ
của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc,
khắp đất nước Việt Nam".
Sau khi thành lập đội đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng).
Sau 2 trận này, quân số tăng lên thành đại đội, Hồng Sâm làm đại đội trưởng, cịn Xích
Thắng làm chính trị viên.
Đội đã tạo ra một khu vực có cơ sở cách mạng rộng lớn ở Hịa An, Nguyên Bình (Cao Bằng),
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân chia thành nhiều mũi, có mũi thọc xuống phía nam đánh chiếm Ngân Sơn, Chợ Rã, Phủ
Thơng, Chợ Đồn, Na Rì (Bắc Cạn), Chiêm Hóa (Tun Quang), có mũi tiến cơng Thất Khê,
Bình Gia (Lạng Sơn), lại có mũi ngược lên biên giới Việt - Trung hạ một loạt đồn trại từ Trùng
Khánh đến Bảo Lạc rồi phát triển sang phía Hà Giang. Cuối tháng 3, đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân đã gặp Cứu quốc quân ở Chợ Chu (Thái Nguyên).
với Cứu quốc quân và một số đơn vị du kích thành lực lượng quân sự thống nhất, lấy tên là
Việt Nam giải phóng quân.
.
Danh sách 34 đội viên đầu tiên
.
Trong s 34 cán b , chi n s c a ố ộ ế ĩ ủ đội có 29 ngườ ài l dân t c thi u s , c th , dân t c T y: 19, dân ộ ể ố ụ ể ộ à
t c Nùng: 8, dân t c Mơng: 1, dân t c Dao: 1; cịn l i 5 ngộ ộ ộ ạ ười dân t c Kinh.ộ
1 - Tr n V n K , bí danh: Ho ng Sâm, dân t c Kinh, quê: Tuyên Hoá, Qu ng Bìnhầ ă ỳ à ộ ả
2 - Dương M c Th ch, bí danh: Xích Th ng, dân t c T y, quê: Nguyên Bình, Cao B ngạ ạ ắ ộ à ằ
3 - Ho ng V n Xiêm, bí danh: Ho ng V n Thái, dân t c Kinh, quê: Ti n H i, Thái Bìnhà ă à ă ộ ề ả
4 - Ho ng Th An, bí danh: Th H u, dân t c T y, quê: H Qu ng, Cao B ngà ế ế ậ ộ à à ả ằ
5 - B B ng, bí danh: Kim Anh, dân t c T y, quê: Ho An, Cao B ngế ằ ộ à à ằ
6 - Nơng V n Bát, bí danh: ă Đàm Qu c Ch ng, dân t c T y, quê: Ho An, Cao B ngố ư ộ à à ằ
7 - B V n B n, bí danh: B V n S t, dân t c T y, quê: Ho An, Cao B ngế ă ồ ế ă ắ ộ à à ằ
8 - Tơ V n C m, bí danh: Ti n L c, dân t c T y, quê: Nguyên Bình, Cao B ngă ắ ế ự ộ à ằ
9 - Nguy n V n C ng, bí danh: Thu S n, dân t c T y, quê: Ho An, Cao B ngễ ă à ơ ộ à à ằ
10 - Nguy n V n C , bí danh: ễ ă ơ Đức Cường, dân t c Kinh, quê: Ho An, Cao B ngộ à ằ
11 - Tr n V n Cù, bí danh: Trầ ă ương Đắc, dân t c T y, quê: Nguyên Bình, Cao B ngộ à ằ
12 - Ho ng V n C n, bí danh: Quy n, Th nh, dân t c T y, quê: Võ Nhai, Thái Nguyênà ă ủ ề ị ộ à
13 - Võ V n D nh, bí danh: Luân, dân t c Kinh, q: Tun Hố, Qu ng Bìnhă ả ộ ả
14 - Tơ V Dâu, bí danh: Th nh Nguyên, dân t c T y, quê: Ho An, Cao B ngũ ị ộ à à ằ
15 - Dương V n D u, bí danh: ă ấ Đại Long, dân t c Nùng, quê: H Qu ng, Cao B ngộ à ả ằ
16 - Chu V n ă Đế, bí danh: Nam, dân t c T y, quê: Nguyên Bình, Cao B ngộ à ằ
17 - Nơng V n Ki m, bí danh: Liên, dân t c T y, quê: Nguyên Bình, Thái Nguyênă ế ộ à
18 - inh V n Kính, bí danh: inh Trung LĐ ă Đ ương, dân t c T y, quê: Th ch An, Cao B ngộ à ạ ằ
19 - H H ng Long, dân t c T y, quê: Ho An, Cao B ngà ư ộ à à ằ
20 - L c V n Lùng, bí danh: V n Tiên, dân t c T y, quê: Cao L c, L ng S nộ ă ă ộ à ộ ạ ơ
21 - Ho ng V n Là ă ường, bí danh: Kính Phát, dân t c Nùng, quê: Ngân S n, B c K nộ ơ ắ ạ
22 - H u A Lý, bí danh: H ng Cơ, dân t c: Mơng, q: Ngun Bình, Cao B ngầ ồ ộ ằ
23 - Long V n M n, bí danh: Ng c Trình, dân t c Nùng, quê: Ho An, Cao B ngă ầ ọ ộ à ằ
24 - B ích Nhân, bí danh: B ích V n, dân t c T y, quê: Ngân S n, B c K nế ế ạ ộ à ơ ắ ạ
25 - Lâm C m Nh , bí danh: Lâm Kính, dân t c Kinh, quê: Th ch An, Cao B ngẩ ư ộ ạ ằ
29 - Nguy n V n Phán, bí danh: K Ho ch, dân t c T y, quê: Ho An, Cao B ngễ ă ế ạ ộ à à ằ
30 - Ma V n Phiêu, bí danh: B c H p, dân t c T y, quê: Nguyên Bình, Cao B ngă ắ ợ ộ à ằ
31 - Đặng Tu n Quý, dân t c Dao, quê: Nguyên Bình, Cao B ngầ ộ ằ
32 - Lương Quý Sâm, bí danh: Lương V n ch, dân t c Nùng, quê: H Qu ng, Cao B ngă Í ộ à ả ằ
33 - Ho ng V n Súng, bí danh: La Thanh, dân t c Nùng, quê: H Qu ng, Cao B ngà ă ộ à ả ằ
34 - Mơng V n V y, bí danh: Mông Phúc Th , dân t c Nùng, quê: Võ Nhai, Thái Nguyên ă ẩ ơ ộ
Mười lời thề danh dự của đội viên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
Chúng tôi đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, xin lấy danh dự của một người chiến sỹ cứu
quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh. Xin thề:
1. Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tiêu diệt bọn phát xít Nhật-Pháp
và bọn Việt gian phản quốc, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập và dân chủ ngang hàng với
các nước dân chủ trên thế giới.
2. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cấp chỉ huy, khi nhận được mệnh lệnh gì sẽ tận tâm, tận lực thi hành
cho nhanh chóng và chính xác.
3. Bao giờ cũng kiên quyết chiến đấu, dù gian lao khổ sở cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng
không sờn chí, khi ra trận quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước.
4. Lúc nào cũng khẩn trương hoạt bát, hết sức học tập để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng,
xứng đáng là một người chiến sỹ tiên phong giết giặc cứu nước.
5. Tuyệt đối giữ bí mật cho bộ đội về nội dung tổ chức, về các cấp chỉ huy, tuyệt đối giữ bí mật cho tất cả
các đồn thể cứu quốc.
6. Khi ra trận nếu bị quân địch bắt được, thì dù cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lịng trung
thành với sự nghiệp giải phóng của tồn dân, khơng bao giờ cung khai phản bội.
7. Hết sức ái hộ bạn chiến đấu cũng như bản thân, hết lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận.
8. Hết sức giữ gìn vũ khí, khơng bao giờ để vũ khí hư hỏng, hay rơi vào tay quân thù.
9. Khi tiếp xúc với dân sẽ làm đúng ba điều răn: "không lấy của dân" – "không dọa nạt dân"- "không quấy
nhiễu dân" và ba điều nên: "kính trọng dân" – "giúp đỡ dân" – "bảo vệ dân", để gây lòng tin cậy đối với dân
10. Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình, giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến
thanh danh Giải phóng qn và Quốc thể của Việt Nam.
Em duyên dáng mũ tai bèo nghiêng xuống
Gơng mặt trẻ vui nh ngày trẩy hội
Dép mòn quai thoăn thoắt bớc hành quân
Em ở đâu và em bao nhiêu tuổi
Vn tng chiu nng mặt thanh xuân
Cũng có thể quê em miền Quan họ
Con sơng Cầu nớc vẫn chảy lơ thơ
Và đâu đó đất Miền Trung cát bụi
Ví đị đa trăng lặn mũi thuyền
Chiều Trờng Sơn lá đỏ ngàn cây
Con gái mẹ một thời la khúi
Em huyền thoại những điều không thể nói
Cho một trời bình lặng nghĩa trang
Những đoàn quân im lặng xếp hàng.
<i>Trêi quê mình hôm nay xanh lắm</i>
<i>Đồng lúa mình bát ngát cánh cò bay</i>
<i>Việt xuyên anh dũng tháng ngày</i>
Gió rừng nghiêng lá xôn xao
Nôn nao cánh võng nhớ ngày ru em
Nhớ lần mẹ đuổi giặc xâm
Git mỡnh tnh gic, ngoi thm bom ri
Em khơng thấy mẹ khóc địi
Ngđ ngoan tý n÷a mĐ vỊ nghe em
Mẹ về em bú thoả thuê
Ng i g ó le te cuối làng
Nắng lên vừa chói góc làng
Giặc cha đánh hết vội vàng – vì con
Bỗng đâu đờng lối ti om
Cây
Giờ sinh vật, thầy giáo hỏi một em học sinh:
- Trong các loại cây mà bố em trồng,
cây nào mang hiệu quả kinh tế cao nhất?
- Dạ! Cây xăng ạ!
- C©y tre ViƯt Nam. ViƯt Nam cã rÊt nhiỊu c©y tre. Tre là biểu tợng của nớc ta. Tre Việt Nam cây nào
cũng thẵng?
- Em tha cô! Em thấy có nhiều cây cong ạ Tùng nói
- ngh em Tựng ngi xuống, không đợc mất trật tự, các em ghi tiếp: “Tuy nhiên vẫn có nhiều cây
cong”.
Anh tụi l bộ đội
Vừa nghỉ phép mấy ngày
Tị mị tơi hỏi chuyện
Là lính thích khơng anh?
Trơng mình thật ngây thơ
Trớc mắt mình nh mơ
Nào là súng là đạn
Nào xe tăng xung trận
Nhng thích lắm em ạ
Bọn anh cời ha ha
Khó sao ri cng qua
Vỡ anh l lớnh m.
<i>Mi ngy no em cũn nhỏ nhóc vơ t</i>
<i>Chợt giật mình giờ em là cơ lính</i>
<i>Mủ cối gắn sao vàng nghiêm chỉnh</i>
<i>Vẫn chiếc quần xanh lá của cha</i>
<i>Giữa thao trờng đeo lá vẫn thích hoa</i>
<i>Dù đã lớn vẫn tham ăn quà vặt</i>
<i>Mặc cho kỷ cơng đồn qn nghiêm ngặt</i>
<i>TiÕng anh h« vang mµ thËt Êm</i>
<i>Thế nhng bị trêu chẵng dám mắng học trị</i>
<i>Nhất là cơ bé có đơi mắt nai to</i>
<i>BÝm tãc nhá thê ¬ trong giã</i>
<i>Má lúm đồng tiền nhìn anh bỡ ngỡ</i>
<i>Đẹp trai thế này đã ai ngõ lời cha?</i>
<i>Đỏ mặt một mình đi sớm về tra</i>
<i>Nghĩa vụ xong anh bảo U hỏi vợ</i>
<i>Vào dịp này học trò oai dễ sợ</i>
Rừng với ngời mà thân thơng thơng quá
Du kích quân một sáng núi rừng
Ta gặp lại thời mắt mang màu lá
Với mái đầu ta đã dầm pha sơng
Ta đi theo dấu cũ con đờng
Mắt nhìn thẳng về phía trớc ngày mai
<b> </b><i><b>Trần Thị Hằng – 10B</b><b>2</b></i>
Một hôm, trên đường đi học về Hùng, Quý và Nam trao đổi nhau xem ở trên đời này cái
gì cao quý nhất.
Quý và Nam cho là có lý, nhưng đi được mười bước Quý vội reo lên “Bạn Hùng nói
khơng đúng, q nhất phải là vàng. Mọi người chẵng phải nói quý như vàng là gì? Có vàng là
có tiền, có tiền là mua được lúa gạo”.
Nam vội tiếp ngay “Quý nhất là thì giờ, thầy giáo thường nói thì giờ q hơn vàng bạc, có
thì giờ mới làm ra lúa gạo và tiền bạc”.
Cuộc tranh luận thật sơi nổi, người nào cũng có lí, khơng ai chịu ai. Hơm sau ba bạn đến
nhờ thầy phân giải.
Nghe xong thầy mỉm cười nói:
- Lúa gạo q vì ta phải đổ bao nhiêu mồ hơi mới làm ra được. Vàng cũng q vì nó đắt
và hiếm, cịn thì giờ thì khơng lấy lại được, đáng quý lắm. Nhưng lúa gạo, vàng bạc, thì giờ vẫn
chưa phải là quý nhất. Ai làm ra lúa gạo, vàng bạc, ai biết dùng thì giờ, đó chính là người lao
động các em ạ. Khơng có người lao động thì khơng có lúa gạo, khơng có vàng bạc, nghĩa là tất
cả mọi thứ đều khơng có và thì giờ cũng trôi qua một cách vô vị mà thôi. Nhưng các em nên
nhớ <i>những chú bộ đội mới là người cao quý nhất.</i> Vì họ đã chiến đấu, hy sinh cả bản thân để
Giờ thực hành công nghệ, thầy giáo cho thực
hành khoan một chi tiết máy.
- Ai xung phong nào? Thầy hỏi
- Tý: Dạ, em em
- Tèo: cả em nữa.
Đợc, cả hai em lên làm thử cho cả lớp xem.
Tý v tốo cha nghe thầy hớng dẫn đã cắm đầu
cắm cổ khoan.
- Thầy: Khoan
Tý và Tèo càng khoan mạnh hơn.
- Thy(quỏt to): thầy đả bảo khoan là khoan cơ
mà.
- Tý, TÌo: Vâng chúng em đang khoan đây.
<i>Nguyễn Thị Vân – 10A1 (sưu tầm)</i>
Nhiều thế hệ Việt nam mơ ước một lần
trong đời được gặp Bác Hồ, nhưng không phải
ai cũng được toại nguyện mơ ước đó. Riêng đối
với cụ Trần Văn Tam (hiện nghỉ hưu ở khối
phố 7 - Phường Tân Giang - Thị xã Hà Tĩnh)
khơng những gặp được Bác mà cịn vinh dự
được nhiều năm làm nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ ở
chiến khu Việt Bắc trong những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
chàng thanh niên làng quê nghèo xung phong đi
bộ đội và được làm chiến sỹ liên lạc cho Trung
đoàn 18 Quân khu 4. Làm liên lạc 3 năm, tháng
4/1951, chiến sỹ trẻ Trần Văn Tam được điều
ra Bắc bổ sung cho Đại đoàn chủ lực 308 (Bác
Hồ đặc tên là Đại đoàn quân tiên phong). Do
lập được nhiều thành tích trong chiến đấu và tác
phong nhanh nhẹn hoạt bát. Tháng 10/1951,
anh được cấp trên lựa chọn về Tiểu đội 32, sau
chuyển thành Trung đội, Đại đội và là tiền
thânh của Trung Đoàn 600 và sau này là Sư
Đoàn 350 Bộ đội Biên Phòng. Trong 6 năm làm
nhịêm vụ bảo vệ Bác thì có rất nhiều kỷ niệm,
kỷ niệm nào cũng sâu sắc, kỷ niệm nào cũng
đáng nhớ. Nhưng có một kỷ niệm sâu sắc gắn
nh em đồng thanh đáp” “Thưa Bác, chúng cháu
làm được ạ!”. Sau đó Bác nói tiếp: “Bác và
Trung ương Đảng hết sức tin các chú cho nên
giao cho các chú bảo vệ và đưa đ/c Ba Duẩn
vào làm việc với Trung ương cục Miền Nam.
Là người bảo vệ nên các chú phải nêu cao tinh
thần cảnh giác, phải dũng cảm, mưu trí và
cương quyết với kẻ thù” Bác còn dặn thêm:
Quảng đường vào Trung ương cục dài, phải
trèo đèo, lội suối, trong khi đó phải giữ tuyệt
đối bí mật, cho nên đi đường các chú phải giữ
Tĩnh đều tự hào, khi còn sống, Bác Hồ đã rất
quan tâm đến Hà Tĩnh. Mỗi lần quân và dân Hà
Tĩnh lập được chiến công Bác Hồ đều gửi thư
khen. Đặc biệt ngày 15/6/1957, trong bộn bề
công việc, Bác đã về thăm Hà Tĩnh. Mãnh đất
Thành Sen anh hùng đã thay mặt nhân dân Hà
Tĩnh đón Bác và báo cơng với Bác.
<i><b>Dương</b></i> <i><b>Thị</b></i>
<i><b>Dun – 11A</b><b>1</b></i>
Vậy là 30 năm, 30 năm rồi mẹ nhỉ, kể
từ độ anh Bảy ra chiến trường …
Thuở bé tôi gọi là thím nhưng gọi mẹ
quen rồi, kể từ ngày anh Bảy ra chiến
trường, để làm vơi đi nỗi nhớ con của thím
Mười và gọi mãi cả khi nghe tin anh Bảy tử
trận.
Ừ! thời gian vậy mà nhanh thật, ngót
nghét đã hơn 30 năm. Mẹ nói đến đó rồi im
lặng, phải chăng là vì nghẹn ngào...
Khơng biết đã bao nhiêu giọt lệ rơi, vì
đã bao lần khóc nhớ con mà mẹ Mười hai
mi mắt dính chặt lại, chúng ơm lấy nhau và
nỗi buồn ơm kín đời mẹ.
Rồi mẹ kể tơi:
Đêm qua, gió đơng lạnh về, thổi vào
gian nhà nhỏ, tiếng lá xào xạc và lạnh lùng,
đôi lúc chúng tạo nên những thứ âm thanh
kỳ lạ, ngỡ như tiếng bước chân ai, mẹ bật
dậy “Thằng Bảy về đó à, con về đó rồi phải
khơng con?”. Nhưng khơng một ai trả lời
mẹ cả mà chỉ nghe tiếng gió lạnh lùng đáp
lại thôi. Rồi tiếng mưa rơi lộp bộp và cũng
thật lạnh lùng, mẹ không thể ngủ được nên
Tơi nhìn mẹ, thật tội biết bao. Thân già
gầy gộc gồi co ro trước ngọn đèn dầu vật
vờ. Nỗi nhớ thương thằng con bé bỏng ấy
vẫn đeo đuổi thím hồi tháng năm. Với
thím, có lẽ cả cuộc đời chỉ có thời gian và
nỗi nhớ. Thật chua xót biết bao khi độ lớn
của thời gian chỉ càng làm tăng thêm độ dài
của nỗi nhớ...
“Tuổi 85 đôi tai thường nghểnh ngãng
Ai chào thưa nhiều khi đốn qua nhìn
Tiếng gọi tên con từ hơn 30 năm trước
Cất dấu trong lòng giờ người nghe lại
từ tim!”
nỗi nhớ đã khiến thím trở nên như vậy? Một
con người thầm lặng, cơ đơn về phía cuối
đời và lưng đã cịng hình dẩu hỏi. Đã biết
bao câu hỏi thím hỏi người ta từ hơn 30
năm trước: “Con tơi dâu?... con tơi đâu?..”
hãy hỏi chính thím và hỏi trong hơi lạnh gió
đêm...???
Những đám mây màu chì anh ách trên
lưng, đom đóm, ma trơi nhiều đêm hốt
hoảng, măng mùa này trốn vào bụi rậm, khế
mùa này trốn vào khẽ kín, đơi mắt nghèo
Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại
năm, thời gian cứ đuổi thời gian, người mẹ
cứ bạc đầu, đôi mắt cứ mịn mỏi, xa xăm....
Vì nỗi nhớ mà mùa thu trr giá, trút lá
vàng cho đỡ cảm giác cách xa, mỗi chiếc lá
chợt hoá thành cơn bão, thổi tơi bời đêm –
khốch - khắc – nghìn – trùng... Lá vàng rơi
thật đấy, não nùng quá, nhưng mẹ vẫn còn
ngồi đó vì vẫn cịn chờ, vẫn cịn đợi, vẫn hi
vọng vào một ngày nào đó người con
“phương xa” trở về...
Độ ấy khi nghe tin anh Bảy hi sinh ở
chiến trường phía Nam, thím Mười khơng
tin vào mấy lời đó. NHưng thím thực sạ
bàng hoàng khi cầm trên tay tờ giấy báo tử
-anh Bảy đã hy sinh...
Đó là đứa con trai duy nhất của thím,
người thân duy nhất của thím, nỗi đau ấy
kéo dài đến tận bây giờ, nó âm ỉ trong lịng
người mẹ già mà khơng một ai dám nhắc tới
vì lại sợ mẹ buồn.
nơi chiến trận, khơng cịn ai vì thế mà hy
sinh, khơng cịn thêm những người mẹ ngồi
Thím nói đến đây, ai cũng dâng trào
cảm xúc, vừa thương thím, lại vừa khâm
phục, vị nể thím biết bao.Thím Mười - một
người mẹ bình dân - một người Tổ Quốc.
When I find myself in times of
trouble.
Mother Mary comes to me
Speaking wonds of wisdom; let it be,
let it be....”
Thơ đang ngồi nghe lại bản nhạc mà
Thắng và nó rất yêu thích. Nó đang rất
buồn. Vì sao ư? Chỉ vì một lý do bé tý teo
như viên kẹo, đó là: Thắng đã lạnh nhạt với
nó....
Hơn một tuần nay, Thơ mất hứng với
hầu hết các thú vui của nó. Một cảm giác
bứt rứt khó chịu len lỏi trong nó, khơng biết
làm thế nào để xả ra, mà xả cho ai chứ???
thoại trên bàn. Là Dung, con bạn thân
không - thể - nào – thân – hơn được nữa.
- Way, tui nghe đây. Có chuyện gì
vậy?
Đầu dây bên kia dọng Dung oang
oang.
- Sao bà cịn bình chân như vại thế?
Chưa biết chuyện gì à?
- Chuyện gì cơ? Thơ bật mạnh người
dậy.
- Ơi dào! Bà thật là... tơi nghe nói ... à
mà nghe xong bà đừng bí xị như cái bị nha.
- Ừ. Nói đi, cứ quảng cáo mãi. Thơ sốt
ruột nói.
- Nè, tui nghe đồn ông Thắng đang
“theo đuổi” cái Thương bí thư A2 đấy. Nghe
nói chiều nào cũng đi chơi đấy.
- Chắc không phải đâu, làm gì có
- Tui nói thật đó, khơng hề có một
mi-li –gam dả dối đâu, nghe nói đến đây, Thơ
cảm thấy buồn vơ cùng. Ao nhiêu ý nghĩ
nhảy bổ vào đầu nó: Thắng là người như
vậy sao? Hay Thắng muốn chơi... trội?
nhưng lỡ Thắng cảm thương thật...? nó chực
muốn khóc, nhưng may thay tiếng Dung
chen vào:
- Bà định tính sao?
- Tùy bà thơi. Tin tức thì tui đã phát đi
rồi, tin hay khơng thì tùi. Nhưng dù sao tui
nghĩ bà cũng nên điều tra xem sao.
Thơ đáp gọn: Ừ thui, bye nha!
Thơ cúp máy, lòng ngổn ngang suy
nghĩ. Nó nghĩ về Thắng và Thương. Hai
người, một người là lớp trưởng, một người
là bí thư, lại gần nhà nhau, “Thanh mai –
trúc mã”. Hơn nữa Hương là một cô bé xinh
xắn, dễ thương, tính tình đơn hậu, dễ gần...
nó đập đầu vào gối để xua đi những ý nghĩ
vớ vẫn.
Sáng hôm sau như mọi ngày, Thơ lê
bước tới lớp nhưng hơm nay, nó vội đi tìm
phút sau, Thắng bước ra trước, trên tay khệ
nệ bưng một túi gì đó rất to. Dung tị mị.
Gì vậy nhỉ?
- Bó tay. Trời biết, đất biết, Thắng
biết, Thương biết nhưng tui không biết.
Sau vài phút loay hoay buộc túi vào
xe, họ cùng xuất phát. Dung và Thơ bám sát
theo sau. Đang đi thì Dung dừng lại.
- Sao vậy? Thơ hỏi nhanh nhưng mắt
vẫn hướng về phía trước.
- Trời ạ. Cái xe “quái gỡ” đến giờ phút
quan trọng nhất thì lại trật xích.
Hai đưa dắt xe vào quán gần đấy để
sữa. Thế là kế hoạch một đã phá sản hồn
tồn.
móc trong túi ra mấy chiếc kẹo chia đều cho
chúng rồi mở túi – cái túi mà khiến cho Thơ
và Dung không - thể - khơng tị mị. Ơi
chạo! trong đó tồn là sách và quần áo cũ.
Thắng vừa đưa sách ra vừa hỏi:
- Hôm nay, anh đưa sách tới. Các em
thấy thích khơng?
-Có ạ...
- Vậy thì chị Thương sẽ chuẩn bị đồ ăn
còn anh em ta học bài nhé.
Bọn trẻ vui vẻ ngồi xuống nghe Thắng
giảng bài. Từ giây phút ấy, Thơ lặng người
đi. Thơ dần hiểu ra sự thực. Nó chắp nối
từng nguồn tin mà nó nhận được, nó chợt
nghĩ: Sao nó lại ích kỷ, ngốc nghếch đến
thế? Sao nó khơng hiểu và tin tưởng tuyệt
đối ở Thắng? Nó ngã đầu vào vai con bạn
khóc. Lúc này Thắng đã kịp nhận ra có
- Thắng... mình... xin lỗi. Mình...đã....
sai... khi...
- Thơ nói trong tiếng nấc: Mình...
- Thơ đừng nói nữa. Bạn khơng có lỗi
gì cả... đơn giản vì nó đã được san sẽ u
thương, được giúp đỡ người khác. Lúc này
đơi mắt nó ướt nước nhưng miệng nó vẫn
nở nụ cười rất tươi. Và một lần nữa bản
nhạc lại vang lên trong đầu Thơ, nhưng
khơng phải vì nó buồn mà nó rất vui và lịng
nó thực sự ấm áp.
“Let it be, let it be
Let it be, yeah let it be”.
(Nếu là mình thì chắc mình cũng xử sự
như vậy.
Thương nắm láy tay Thơ và Dung kéo
chúng vào nhà. Thắng nhìn Thơ mỉm cười.
<i><b>Tai hoạ</b></i>
- Thầy giáo: Em nào cho thầy biết sự khác
nhau giữa tai nạn và tai hoạ?
- Quc: Em tha thy “Tai nạn” là khi bài kiểm
tra của em bị gió bay xuống hồ nớc, cịn “Tai
hoạ” là khi ai đó vớt nó lên và mang nó đa cho
ố em ạ!
Đi trong gió sơng và tiếng suối reo
Ta gp li bao nhiờu ng ụi
Bóng các anh khoác cây súng qua vai
Và tiếng cời ngân vang mÃi rừng xanh
Hà tình một ngày cuối năm
Khói bếp toả trên không gian mái ấm
Ta thấy rõ từ trong sâu lắng