Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Công cuộc cải tổ ở liên xô (1985 1991) tác động và bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 163 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===============

LÝ VĂN NGOAN

Đề tài:
CÔNG CUỘC CẢI TỔ Ở LIÊN XÔ (1985 - 1991) – TÁC ĐỘNG VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM CHO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài. --------------------------------------------------------3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.---------------------------------------------4
3. Giới hạn và những vấn đề nghiên cứu-------------------------------7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ------------------------8
5. Đóng góp của luận văn. -------------------------------------------------9
6. Kết cấu luận văn. ---------------------------------------------------------9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA CƠNG
CUỘC CẢI TỔ Ở LIÊN XƠ.
1.1. Bối cảnh thế giới tác động đến Liên Xơ trước cải tổ.
1.1.1. Liên Xô đứng trước những thách thức của cách mạng
khoa
học - kỹ thuật mới và sự phát triển vượt trội của các nước


tư bản phương Tây ------------------------------------------------------- 10
1.1.2. Trước xu thế cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa ---------- 12
1.2. Thực trạng Liên Xô trước cải tổ.
1.2.1. Thực trạng kinh tế. ----------------------------------------------------- 14
1.2.2. Thực trạng chính trị - xã hội.----------------------------------------- 24
1.3. Tính tất yếu của công cuộc cải tổ ở Liên Xô. ------------------------------- 28
CHƯƠNG 2. ĐƯỜNG LỐI CHỈ ĐẠO VÀ TIẾN TRÌNH CẢI TỔ Ở LIÊN
XÔ TỪ 1985 – 1991.
2.1. Đường lối, phương hướng cơ bản và tiến trình cải tổ kinh tế.
2.1.1. Hội nghị tồn thể Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Liên
Xơ 4/1985 và Đại hội XXVII Đảng cộng sản Liên Xô (2/1986) – Chiến
lược tăng tốc. ----------------------------------------------------------------------------- 32
2.1.2. Hội nghị trung ương 6/1987 – Chiến lược cải tổ.----------------- 39
2.1.3. Cải tổ doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp trên cơ sở đổi
mới hệ thống quản lý toàn nền kinh tế quốc dân (giữa 1987 đến 1989). --- 42
2.1.4. Cải tổ quản lý nông ghiệp. --------------------------------------------- 52
2.1.5. Thực hiện các phương án cải cách chuyển sang nền kinh tế
thị trường (đầu 1990 đến cuối 1991). ----------------------------------------------- 54
1


2.1.6. Kết quả cải tổ kinh tế. ----------------------------------------------------- 63
2.2 Đường lối, phương hướng và tiến trình cải tổ chính trị.
2.2.1. Cải tổ chính sách đối ngoại. ------------------------------------------- 65
2.2.2. Cải tổ một số lĩnh vực trong chính sách đối nội.------------------ 71
2.2.3. Kết quả cải tổ chính trị. -------------------------------------------------- 92
2.3 Nguyên nhân thất bại ------------------------------------------------------------ 95
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan----------------------------------------------- 95
2.3.2. Ngun nhân khách quan.------------------------------------------- 105
CHƯƠNG 3. TÁC ĐỘNG CỦA CƠNG CUỘC CẢI TỔ Ở LIÊN XÔ ĐỐI

VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM.
3.1. Thực trạng mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô trước cải tổ. -------- 110
3.2. Tác động của công cuộc cải tổ đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam.---------------------------------------------------------------------------------120
3.3. Những bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. - 126
3.3.1. Bài học về giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và giữ
vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa ------------------------------------ 126
3.3.2. Bài học về giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải
cách kinh tế với cải cách chính trị --------------------------------- 130
3.3.3. Bài học về sự cần thiết phải tiến hành đồng bộ các chính
sách và biện pháp ----------------------------------------------------- 133
KẾT LUẬN----------------------------------------------------------------------------- 138
PHỤ LỤC ------------------------------------------------------------------------------ 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------------------------------------------ 150

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm 1990, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu, giới học giả tư sản lớn tiếng rêu rao rằng sự thất bại của chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới là không thể tránh khỏi, bởi nguyên nhân
của sự sụp đổ nằm ngay trong chính bản chất của chủ nghĩa xã hội, “chủ
nghĩa xã hội đã hết thời”. Thậm chí có người hồi nghi rằng: thời đại này
có cịn là thời đại q độ lên chủ nghĩa xã hội nữa không? Sự thật, thời đại
là tiến trình khách quan của xã hội lồi người, đâu phải tùy thuộc ý muốn
chủ quan của con người. Thực tế cho thấy ở những nước xã hội chủ nghĩa
như Trung Quốc, Việt Nam sau những cải cách và đổi mới đúng hướng,

chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn đứng vững và có những bước tiến đáng kinh
ngạc.
Vậy điều gì chi phối sự thắng lợi hay thất bại của chế độ xã hội chủ
nghĩa, trong điều kiện cuộc khủng hoảng chung của chủ nghĩa xã hội vào
những năm 1980? Thực tế cho thấy, để thoát khỏi khủng hoảng và trì trệ,
hầu như tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều bắt tay vào công cuộc cải
cách, cải tổ và đổi mới đất nước. Tuy nhiên, đường lối cải tổ, cải cách và
đổi mới có sự khác biệt căn bản do tình hình thực tế ở mỗi nước. Ở Trung
Quốc và Việt Nam thì ưu tiên hàng đầu cho cải cách và đổi mới kinh tế, cải
cách chính trị thực chất là cơng việc thể chế hóa những u cầu do cải cách
kinh tế đặt ra, tạo điều kiện và thúc đẩy cải cách kinh tế đi lên. Còn ở Liên
Xơ và các nước Đơng Âu, tình hình diễn ra lại khác: sau vài năm tiến hành
cải cách kinh tế không mấy thành công, các nước này quay sang cải cách
hệ thống chính trị, coi đó là khâu mở đường cho quá trình cải cách ở các
lĩnh vực khác. Kết quả là ở Trung Quốc và Việt Nam chủ nghĩa xã hội vẫn
được giữ vững và tiếp tục có những bước phát triển mới. Cịn ở Liên Xơ và
Đơng Âu thì chủ nghĩa xã hội sụp đổ.
Từ thực tế này, chúng tôi cho rằng nguyên nhân thất bại của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là nằm ngay trong đường

3


lối, bước đi của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và cụ thể là ngay
trong công cuộc cải tổ mà họ thực hiện.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu cơng cuộc cải tổ ở Liên Xơ nói riêng
và các nước Đơng Âu nói chung, nhằm tìm ra những nguyên nhân thất bại
và bác bỏ các giả thuyết, lập luận của những học giả tư sản về sự “sụp đổ
không tránh khỏi của chủ nghĩa xã hội” là việc làm cần thiết. Mặt khác,
Liên Xô và Việt Nam là hai nước có mối quan hệ truyền thống, mật thiết

trong lịch sử; quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có những
nét tương đồng và thậm chí được mơ phỏng theo mơ hình chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô; đồng thời công cuộc cải tổ ở Liên Xô và công cuộc đổi mới ở
Việt Nam diễn ra trong cùng một thời điểm, trong một bối cảnh có thể nói
tương đồng về điều kiện lịch sử. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu bài học
thất bại của cơng cuộc cải tổ ở Liên Xơ sẽ góp phần giúp chúng ta rút ra
những bài học kinh nghiệm cần thiết cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay; nó vừa mang tính lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đó chính là
lý do thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài “Công cuộc cải tổ ở Liên Xô (1985 –
1991) - tác động và bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam” làm đề tài luận văn của mình.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cơng cuộc cải tổ ở Liên Xô (1985 – 1991) đã diễn ra hơn 15 năm, sự
thất bại của công cuộc cải tổ này làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình thế
giới. Chính vì tầm ảnh hưởng to lớn đó mà có rất nhiều nhà chính trị, nhà
lý luận quan tâm tìm hiểu. Do đó, xoay quanh vấn đề cải tổ ở Liên Xơ
(1985 – 1991) có rất nhiều sách, báo và bài viết phản ánh với nhiều góc độ,
khía cạnh khác nhau và theo những lập trường, quan điểm cũng rất khác
nhau. Điều đó cho thấy được lịch sử nghiên cứu vấn đề hết sức phức tạp và
phong phú. Tuy nhiên, trong giới hạn những tư liệu có thể tiếp cận được
chúng tơi khơng tìm thấy cơng trình chun khảo nào viết về “Công cuộc
cải tổ ở Liên Xô - tác động và những bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam”.
Đề cập trực tiếp đến những biến động ở Liên Xô trong thời gian luận
văn quan tâm, hoặc từng mặt, từng khía cạnh, từng giai đoạn riêng biệt của

4


công cuộc cải tổ ở Liên Xô, chúng tôi sưu tầm được một số cơng trình và

bài viết đáng lưu ý sau:
Trước tiên là các cơng trình nghiên cứu thuộc chương trình KX01 của
nhà nước, bao gồm các báo cáo khoa học, bài nghiên cứu, đề tài khoa học
của các học viện, viện nghiên cứu, trung tâm khoa học và các trường đại
học. Các cơng trình này đã đề cập một cách toàn diện về sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đơng Âu, trong đó có đề cập
đến vấn đề cải tổ với tính cách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp
đổ… Từ đó tổng kết những bài học kinh nghiệm có giá trị cho cơng cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, cho thực tiễn đổi mới ở Việt Nam
nói riêng. Điển hình cho các cơng trình này là các đề tài khoa học như:
“Liên Xô tan rã và sự tiếp tục cải cách của Liên Bang Nga”, do Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn quốc gia chủ trì, hồn thành vào các năm
1997, 1998. Ngồi ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu khác được ấn
hành rộng rãi như: “Quá trình tan rã của Liên Bang Xô Viết”, của Viện lịch
sử quân sự Việt Nam. Đây là cơng trình lịch sử biên niên, ghi lại những
biến cố và sự kiện quan trọng trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô từ khi bắt
đầu đến lúc thất bại và kết thúc.
Nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài cũng được
dịch, đăng trên các tạp chí tiếng Việt hoặc xuất bản thành sách, đáng kể là
cuốn “Mùa đông và mùa xuân Matxcơva – chấm dứt một thời đại” của tác
giả Du Thúy, nhà nghiên cứu người Trung Quốc. Tác phẩm này trình bày
tương đối có hệ thống q trình cải tổ của Liên Xơ, tác giả đã đi sâu phân
tích những chủ trương, biện pháp cũng như những sai lầm trong cải tổ trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị dẫn đến việc tan rã Liên Xơ. Trong sách có
nhiều tư liệu phong phú, ý kiến đánh giá sâu sắc và xác đáng. Bên cạnh đó,
cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu, hồi ký của chính những học giả, nhà
lãnh đạo Liên Xơ như: hồi ký của I.Ligachốp; M.A Métvêđép; N.I
Rưgiơcốp; nhóm tác giả V.Páplốp, A.Lukianốp, V.Criuscốp, N.Baibacốp
với tác phẩm “Sự kiện tháng tám nhìn từ bên trong”. Đặc biệt là những tác
phẩm và bài viết, bài phát biểu của M.X Goócbachốp. Tất cả những tác

phẩm này được trình bày theo những quan điểm hết sức khác nhau về cải
tổ, nó mang nặng tính chủ quan của tác giả. Do đó, những tác phẩm này chỉ

5


giúp cho chúng ta có được cách nhìn và hiểu rõ hơn về công cuộc cải tổ ở
Liên Xô, chứ khơng mang nặng nhiều tính khách quan khoa học.
Riêng về cải tổ ở Liên Xơ (1985 – 1991) cũng có nhiều cơng trình
nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí tiếng Việt từ 1985 đến nay, đặc biệt
là các bài của Giáo sư Bùi Huy Khoát. Với loạt bài thuộc chương trình đề
tài KHXH01 như: “Xã hội xã hội chủ nghĩa hình thành phát triển và tan rã
ở Liên Xơ, những bài học”; “Những thành tựu kinh tế – xã hội của chủ
nghĩa xã hội Xô Viết thời Xtalin là có thật”?; “Liên Xơ sụp đổ là khơng thể
tránh khỏi”... Tác giả bám sát từng bước diễn biến của công cuộc cải cách
kinh tế ở Liên Xơ, phân tích, đánh giá một cách sâu sắc vấn đề từ khía cạnh
của kinh tế chính trị Mácxít. Trần Thị Bình với luận văn thạc sĩ “Cải cách
kinh tế ở Liên Xô (1985 – 1991) và một số bài học kinh nghiệm”, tác giả đã
trình bày khá hồn chỉnh bức tranh kinh tế Liên Xô trong cải tổ. Với tác
phẩm này, tác giả đi sâu vào vấn đề kinh tế phân tích và đánh giá dưới góc
độ kinh tế học; tác giả đưa ra những nhận xét khá sâu sắc và rút ra được
một số bài học kinh nghiệm có giá trị. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu phân
tích vấn đề chính trị trong cải tổ; cũng như những ảnh hưởng và tác động
của cải tổ ở Liên Xô đến Việt Nam. Do đó, trong luận văn của tác giả
khơng thấy rõ sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa kinh tế với chính trị
trong cải tổ. Đó là những nội dung mà trong luận văn này chúng tôi sẽ tiếp
thu và bổ sung làm rõ. Luận án tiến sĩ sử học lịch sử “Nguyên nhân và tác
động của sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô tới tiến trình cách mạng thế
giới hiện nay” của tác giả Ngơ Hoan. Tác giả đã phân tích nguyên nhân sâu
xa và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xơ, từ đó xác định

những ảnh hưởng, tác động của sự sụp đổ đó đến tình hình thế giới, đến
phong trào công nhân và cách mạng thế giới. Trong cơng trình này, tác giả
chỉ đề cập đến ngun nhân sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội tồn tại
gần 7 thập kỷ qua, chứ không đề cập đến nội dung cải tổ. Do đó, tiến trình,
diễn biến kết quả công cuộc cải tổ chưa được làm rõ. Bên cạnh đó tác giả
đề cập rất ít đến sự tác động của cải tổ với đổi mới ở Việt Nam.
Cuộc cải tổ ở Liên Xơ cịn được đề cập trong các văn kiện của Đảng
công sản Việt Nam, các bài viết và bài nói của các nhà lãnh đạo Đảng và
Nhà nước ta. Bên cạnh đó trên các báo và tạp chí tiếng Việt cũng có rất

6


nhiều bài viết, bài dịch của các tác giả đã bám sát và phản ánh khá đầy đủ
về tình hình cải tổ ở Liên Xơ.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho chúng tôi nhiều tư
liệu tốt cũng như phương pháp tiếp cận khoa học cho việc tiếp tục nghiên
cứu về công cuộc cải tổ ở Liên Xô. Trên cơ sở đó chúng tơi tiếp thu và kế
thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của những người đi trước để
phục vu cho đề tài: “Công cuộc cải tổ ở Liên Xô (1985 – 1991) - tác động
và bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”. Chúng tơi rất
cám ơn cơng trình nghiên cứu của những tác giả mà chúng tôi đã kế thừa và
sử dụng để thực hiện đề tài của mình!
Giới hạn và những vấn đề nghiên cứu:
+ Giới hạn: Mục tiêu của luận văn là hệ thống hóa tồn bộ q trình
cải tổ ở Liên Xơ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, tìm ra những nguyên
nhân thất bại từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trọng tâm của luận văn sẽ được giới hạn từ năm 1985, khi Đảng
cộng sản Liên Xơ chính thức đề ra đường lối cải tổ tại Hội nghị trung ương

tháng 4/ 1985 đến 1991, khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ. Tuy nhiên,
để làm nổi bật những vấn đề nghiên cứu, chúng tôi phải mở rộng phạm vi
của luận văn cả về không gian lẫn thời gian, coi đó như là bối cảnh của vấn
đề quan tâm.
+ Những vấn đề nghiên cứu: Do giới hạn của luận văn, nên những vấn
đề được đặt ra trong quá trình nghiên cứu là:
- Những nhân tố bên ngồi và thực trạng kinh tế, chính trị – xã hội
Liên Xơ trước cải tổ, từ đó cho thấy được tính tất yếu của công cuộc cải tổ.
- Nội dung cải tổ, trong phần này tập trung vào hai vấn đề chính là
cải tổ kinh tế và cải tổ chính trị. Tuy nhiên, vấn đề cải tổ chính trị là một
vấn đề phức tạp, do đó, luận văn chỉ tập trung làm sáng tỏ một số lĩnh vực
có tính chất then chốt như: cải tổ bộ máy, cải tổ Đảng, đường lối đối ngoại
và đặc biệt là vấn đề “tư duy chính trị mới” của cải tổ. Trong khuôn khổ
một luận văn thạc sĩ chúng tôi không thể đề cập một cách chi tiết trên tất cả
các khía cạnh của vấn đề chính trị như: vấn đề dân tộc, vấn đề mở rộng

7


“dân chủ hóa”, “Cơng khai hóa”,… những vấn đề này xin giới hạn lại để có
điều kiện tìm hiểu sau.
- Nguyên nhân thất bại của công cuộc cải tổ.
- Tác động và bài học kinh nghiệm của công cuộc cải tổ ở Liên Xô
đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
+ Cơ sở lý luận:
Nghiên cứu đề tài này trước hết và chủ yếu chúng tôi dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội.
Thứ hai chúng tơi dựa trên đường lối, quan điểm lý luận của Đảng

cộng sản Việt Nam về vấn đề cải cách, đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
quan điểm về chính sách đối ngoại của Đảng qua các văn kiện Đảng.

8


+ Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp chính được vận dụng trong nghiên cứu đề tài này là:
phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc (để trình bày, lý giải thực trạng,
q trình, tác động và bài học của cơng cuộc cải tổ). Đồng thời chúng tơi
cịn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, đối chiếu, so sánh nhằm
làm nổi bật những vấn đề nghiên cứu.
Đóng góp của luận văn
Luận văn dựng lại những nét chính trong quá trình diễn biến và kết quả
của cơng cuộc cải tổ ở Liên Xơ, giúp người đọc có được một khái niệm
tương đối hoàn chỉnh về một giai đoạn bước ngoặt trong lịch sử hiện đại
Liên Xô.
Những so sánh, đối chiếu, phân tích nguyên nhân thất bại, bài học kinh
nghiệm của cơng cuộc cải tổ được trình bày trong luận văn sẽ góp phần
giúp chúng ta rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam.
Góp phần làm phong phú thêm những nguồn tài liệu phục vụ công tác
giảng dạy lịch sử hiện đại thế giới, phong trào cộng sản và công nhân thế
giới, đặc biệt là đối với những chuyên đề về cuộc khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội và công cuộc cải cách, đổi mới ở những nước xã hội chủ nghĩa
hiện nay.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được cấu trúc thành 3 chương.
Chương 1: Bối cảnh lịch sử và tính tất yếu của công cuộc cải tổ ở Liên Xô.

Chương 2: Đường lối chỉ đạo và thực trạng công cuộc cải tổ ở Liên Xô từ
1985 – 1991.
Chương 3: Tác động của công cuộc cải tổ đối với sự nghiệp đổi mới Việt
Nam và bài học kinh nghiệm.

CHƯƠNG 1

9


BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ
TÍNH TẤT YẾU CỦA CƠNG CUỘC CẢI TỔ Ở LIÊN XÔ
. Bối cảnh thế giới tác động đến Liên Xô trong những năm trước
cải tổ
1.1.1. Liên Xô đứng trước những thách thức của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật mới và sự phát triển vượt trội của các nước tư bản
phương Tây
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, thực lực các nước tư bản
phương Tây phát triển nhanh chóng, vị trí của Liên Xơ - cường quốc kinh
tế đứng thứ hai thế giới bị đe dọa. Tình hình ấy rõ ràng hơn từ thập kỷ 1970
trở về sau. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thập kỷ 50, tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Liên Xô khoảng 10%. Riêng giai đoạn 1946 –
1950, là 14,2% và từ năm 1951 – 1960 là 10%. Từ giữa thập kỷ 60 tốc độ
tăng trưởng bắt đầu giảm: trong kế hoạch 5 năm lần thứ VIII (1966 – 1970)
tốc độ tăng còn 7,1%, đến lần thứ IX còn 5,1%, lần thứ X là 3,9%. Đến
1982, khi tổng bí thư Brêgiơnhép qua đời tốc độ tăng trưởng chỉ còn 2,6% mức thấp nhất thời kỳ sau chiến tranh. Vị trí Liên Xơ với tư cách là cường
quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới bị Nhật Bản thách thức nghiêm trọng.
Theo thống kê của Liên Xô công bố, từ năm 1960 -1965 thu nhập quốc dân
của Nhật Bản tăng 4,5 lần; giá trị sản lượng công nghiệp tăng 6,5 lần; năng
suất lao động công nghiệp tăng 4,3 lần. Cùng thời kỳ, chỉ tiêu tăng trưởng

của Liên Xơ chỉ là 3,9; 4,8 và 3 lần. Cịn so với Mỹ khoảng cách chênh
lệch còn xa hơn: năm 1986, tổng sản phẩm xã hội của Mỹ là 3.900 tỷ đôla,
Liên Xô chỉ là 1.800 tỷ đôla [53, 9]. Với các số liệu thống kê tổng hợp trên
cho thấy vị trí của Liên Xơ bị thách thức nghiêm trọng.
Điều đáng lưu ý là thực lực kinh tế của các nước phương Tây tăng
lên chủ yếu nhờ vào sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật, trong khi tăng
trưởng kinh tế của Liên Xô vẫn chủ yếu dựa vào sự phát triển theo chiều
rộng. Đứng trước cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật mới của thế giới,
Liên Xô vấp phải một thách thức lớn về sự phát triển nền kinh tế theo
hướng hiện đại của khoa học – kỹ thuật, tức là đưa nền kinh tế phát triển từ
chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu. Nên nhớ là Liên Xơ vốn có tiềm
lực khoa học - kỹ thuật rất lớn, có thời kỳ Liên Xơ đứng đầu thế giới về xây

10


dựng nhà máy điện nguyên tử và kỹ thuật vũ trụ. Cán bộ khoa học – kỹ
thuật của Liên Xô chiếm 1/4 tổng số cán bộ khoa học – kỹ thuật trên thế
giới (đông nhất thế giới); phát minh kỹ thuật mới hằng năm chiếm 1/3 thế
giới, đứng thứ hai trên thế giới, chỉ kém Nhật Bản. Tuy nhiên, do cơ chế
quản lý kinh tế, chỉ có 1/4 thành quả kỹ thuật mới được ứng dụng trong nền
kinh tế quốc dân, và thời gian từ nghiên cứu đến ứng dụng một hạng mục
kỹ thuật mới kéo dài từ 10 đến 12 năm. Trong khoa học – kỹ thuật, Liên Xơ
cịn tồn tại hiện trạng mất cân đối: công nghiệp quân sự phát triển mạnh,
công nghiệp dân dụng tương đối lạc hậu. Một số ngành công nghiệp truyền
thống của Liên Xô có sản lượng đứng đầu thế giới như: gang thép, dầu mỏ,
khí đốt thiên nhiên, xi măng,… nhưng các ngành khoa học – kỹ thuật mới
như: vi điện tử, năng lượng mới, vật liệu mới, kỹ thuật thông tin, vi sinh vật
lại tụt hậu so với phương Tây. Theo thống kê, giữa thập kỷ 80, trình độ
khoa học kỹ thuật chung của Liên Xô lạc hậu so với các nước tư bản phát

triển phương Tây khoảng 15 năm. Trong thời kỳ này, số lao động thủ công
của Liên Xô vẫn cịn khoảng 50 triệu người, trong đó cơng nhân lao động
thủ công ngành công nghiệp chiếm khoảng 1/3, ngành xây dựng chiếm
khoảng 1/2, nơng nghiệp chiếm 3/4 . Gcbachốp thừa nhận “sự phát triển
theo chiều rộng về cơ bản đã làm hao mịn tiềm lực”, “căn bản khơng cịn
con đường nào khác, ngoài đẩy mạnh tiến bộ khoa học – kỹ thuật” [53,10].
Phải tiến hành cải tổ lại cơ cấu nền kinh tế và phương pháp lãnh đạo.

1.1.2. Trước xu thế cải cách của một số nước xã hội chủ nghĩa
+ Ở các nước Đông Âu:
Tháng 7 năm 1948, Đại hội đại biểu lần V Liên đoàn những người
cộng sản Nam Tư đã khẳng định rằng: không thể rập khuôn theo mơ hình
của Liên Xơ, bởi vì trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng tồn tại quy luật
giá trị, do đó cần lợi dụng địn bẩy kinh tế trong quản lý kinh tế và khắc
phục những tác hại của chủ nghĩa quan liêu. Từ thập kỷ 1940 đến đầu thập
kỷ 1950, ở Nam Tư bắt đầu thực hiện một số cải cách quan trọng như lập
hội đồng công nhân, loại bỏ một số bộ chủ quản liên bang và thực hiện mở
11


rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp, giao tư liệu sản xuất cho tập thể lao động
điều hành. Thập kỷ 60 tiếp tục mở rộng phạm vi tự quản. Ngoài ra Nam Tư
còn mở rộng hơn nữa quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương của xí nghiệp,
tiến hành cải cách giá cả, thu hút vốn nước ngồi, lập xí nghiệp hùn vốn.
Sau khi xuất hiện khủng hoảng kinh tế, năm 1983, Nam Tư đề ra “Chương
trình phát triển ổn định kinh tế”; năm 1986, Đại hội đại biểu lần thứ XIII
Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư nhấn mạnh hơn nữa sự cần thiết
phải thực hiện cải cách sâu rộng chế độ kinh tế, chính sách kinh tế và chính
sách phát triển nhằm bảo vệ và phát triển quan hệ tự quản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa, xây dựng thị trường thống nhất, khắc phục lạm phát tiền tệ

và giải quyết nạn thất nghiệp.
Trong khi đó, ở Hunggari sau năm 1956, ban lãnh đạo Đảng đã bắt
tay điều chỉnh cơ cấu kinh tế quốc dân, cải cách thể chế kinh tế. Đặc biệt
chú trọng điều chỉnh quan hệ tỷ lệ giữa nông nghiệp, công nghiệp nhẹ,
công nghiệp nặng, loại bỏ kế hoạch phát triển công nghiệp nặng, đặt phát
triển nông nghiệp lên hàng đầu, đồng thời coi trọng phát triển công nghiệp
nhẹ, làm cho nền kinh tế nhanh chóng chuyển biến tốt. Thập kỷ 60,
Hunggari từng bước đi sâu thực hiện cải cách thể chế quản lý công nghiệp,
kết hợp hữu cơ quản lý tập trung có kế hoạch của kinh tế quốc dân với tác
dụng tích cực của thị trường, phân định rõ quyền quyết sách giữa nhà nước
và xí nghiệp, quản lý kinh tế chủ yếu bằng biện pháp kinh tế, về cơ bản
dùng kế hoạch hướng dẫn thay thế kế hoạch pháp lệnh. Tiếp sau Hunggari
là các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức,v.v.. cũng thực hiện
những bước đi nhất định trong cải cách kinh tế
Như vậy, chính những bước đi đầu tiên trong cải cách của các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã rất chú ý tăng cường khống chế ở tầm vĩ mô
và mở rộng quyền tự chủ của xí nghiệp, kết hợp giữa cải cách thể chế kinh
tế với thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển sản xuất, tiến hành
cải cách thể chế kinh tế với cải cách thể chế chính trị, chú ý tăng cường
12


nghiên cứu lý luận kinh tế đã tạo sức ép thúc đẩy Liên Xơ xem xét mình
nên làm như thế nào. Đó được xem là động lực từ bên ngồi thúc đẩy Liên
Xô thực hiện công cuộc cải tổ.
+ Ở Trung Quốc
Từ năm 1979 Trung Quốc tiến hành cải cách và mở cửa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc và giành được nhiều thành tựu
to lớn. Trong kế hạch 5 năm lần thứ VI, từ 1980 đến 1985 (năm
Gcbachốp lên cầm quyền), tổng sản phẩm cơng nơng nghiệp tăng bình

qn hàng năm 11%, trong đó tổng giá trị sản phẩm cơng nghiệp bình qn
hằng năm tăng 12%, tổng sản phẩm nơng nghiệp tăng bình qn hằng năm
8,1%. Từ năm 1980 đến 1985 sản lượng than nguyên khai của Trung Quốc
từ 620 triệu tấn lên 1.150 tỷ tấn; dầu thô từ 106 triệu tấn lên 125 triệu tấn;
lượng điện phát từ 300 kw/h tăng lên 473 kw/h; thép từ 37 triệu tấn lên
46,60 triệu tấn [53,11].
Thành tựu của công cuộc cải cách mở cửa Trung Quốc để lại nhiều
kinh nghiệm có giá trị cho cơng cuộc cải tổ ở Liên Xô:
- Về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, từ chỗ chỉ chú trọng công
nghiệp, đặc biệt là tăng trưởng giá trị sản phẩm công nghiệp nặng, bắt đầu
chuyển trọng tâm sang nâng cao hiệu quả kinh tế, chú ý phát triển hài hịa
nơng nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, chú trọng phát triển
toàn diện kinh tế, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, văn hóa.
- Về thể chế kinh tế, từ thể chế xơ cứng, quản lý tập trung toàn diện
chặt chẽ bắt đầu chuyển sang cơ chế mới, đầy sức sống và năng động, thích
ứng với địi hỏi phát triển có kế hoạch nền kinh tế hàng hóa trên cơ sở chế
độ công hữu. Trong cải cách thể chế kinh tế, trước tiên thực hiện bước đột
phá quan trọng ở nông thơn, thực hiện tồn diện chế độ khốn, gắn sản
phẩm với hộ gia đình và thực thi một loạt biện pháp cải cách khác, giải
phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất ở nông thôn, làm cho nền kinh tế nông
thôn bắt đầu chuyển theo hướng chun mơn hóa, hàng hóa hóa, hiện đại
13


hóa. Cải cách ở khu vực thành thị được thực hiện theo hướng làm sống
động các xí nghiệp, đồng thời tiến hành cải cách với mức độ khác nhau về
các mặt: ngân sách, thuế giá cả, tiền tệ, thương nghiệp, tiền lương. Về kinh
tế đối ngoại đáng chú ý là sự phá vỡ tình trạng khép kín và nửa khép kín để
chuyển sang nền kinh tế mở và sử dụng các hoạt động trao đổi quốc tế như
động lực tăng trưởng kinh tế. Những cải cách như vậy được thực hiện trên

cơ sở đổi mới tư duy, phá vỡ tư tưởng “tả” và quan niệm kinh tế tự cấp tự
túc, đối lập tự lực cánh sinh với mở cửa ra bên ngồi… Thành quả bước
đầu cơng cuộc cải cách mở cửa Trung Quốc đã có sức hấp dẫn to lớn đối
với các nhà lãnh đạo Liên Xô.
1.2. Thực trạng Liên Xô trước cải tổ
Thực trạng kinh tế
Năm 1922, Liên bang cộng hịa xã hội chủ nghĩa Xơ Viết được
thành lập (gọi tắt là Liên Xô), là quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới. Sau khi thành lập Liên Xơ tiến hành xây dựng mơ hình quản lý chính
trị, kinh tế - xã hội trong điều kiện chưa có tiền lệ. Bên cạnh đó, đất nước
vừa mới thốt ra khỏi chiến tranh, cùng với trình độ thấp kém của nướng
Nga trước đó đã gây cho Liên Xơ những thách thức hết sức to lớn. Tuy
nhiên, những nhà lãnh đạo Liên Xô đã dẫn dắt nhân dân Liên Xô vượt qua
những khó khăn ấy, đến những năm 1930 Liên Xơ đã xây dựng được một
nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội vững chắc, đưa Liên Xô từ một nước
nông nghiệp lạc hậu trở thành cường quốc công nghiệp mạnh nhất châu Âu,
đủ sức đương đầu với phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến
thắng phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai, đã chứng tỏ tính ưu việt và
sự hùng mạnh của chủ nghĩa xã hội theo mơ hình Xơ Viết. Mơ hình này
được tiếp tục phát huy trong thời gian dài sau chiến tranh đã giúp Liên Xơ
trở thành cường quốc có sức mạnh ngang ngửa với Mỹ.
Liên Xô đạt được các thành tựu to lớn nhờ có tốc độ phát triển
kinh tế vượt trội. Thật vậy, năm 1951 kết thúc thời kỳ khôi phục kinh tế
14


làm mốc thì sản lượng cơng nghiệp của Liên Xơ tăng 13,7 lần so với năm
1927. Trong khi đó cùng thời gian này Mỹ chỉ tăng 3 lần; Anh 2,6 lần;
Pháp 2,04 lần [53, 6]. Từ năm 1951 đến 1978, thu nhập quốc dân Liên Xơ
tăng trung bình hằng năm 7,7%; sản lượng công nghiệp tăng 9,1%; nông

nghiệp tăng 3,5%. Trong khi đó chỉ số tương ứng của Mỹ là: 3,5%; 4,3%;
1,7% và của các nước tư bản nói chung là: 4,2%; 4,8% và 3,2% [74]. Về
khoa học kỹ thuật, Liên Xơ cũng có bước phát triển nhanh chóng. Năm
1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền
bom nguyên tử của Mỹ, Liên Xô là nước đầu tiên xây dựng nhà máy điện
nguyên tử (năm 1954); là nước đầu tiên phóng thành cơng vệ tinh nhân tạo
(năm 1957); công dân đầu tiên bước vào vũ trụ là cơng dân Liên Xơ (năm
1961)…Đó là những thành tựu đỉnh cao về khoa học kỹ thuật của lồi
người mà lúc đó chỉ có Liên Xơ đạt được.
Với những thành tựu đó, trong những năm 60 - 70 của thế kỷ
XX, Liên Xô được coi là cường quốc đứng hàng thứ hai, khoảng cách về
kinh tế giữa Mỹ với Liên Xô, Tây Âu, Nhật Bản đã được rút ngắn đáng kể.
Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, Liên Xô là nước lớn nhất, hùng
mạnh nhất và trở thành thành trì của hịa bình thế giới và chỗ dựa của
phong trào cách mạng thế giới.
Những thành tựu kể trên là có thực, được thế giới thừa nhận.
Song, việc quá nhấn mạnh đến những thành tựu này trong một thời gian dài
đã che lấp những thiếu sót, khuyết tật của mơ hình chủ nghĩa xã hội Xơ
Viết và những hậu quả khơng lành mạnh của nó.
Nếu đi sâu phân tích, so sánh, đánh giá một cách khách quan
và xác thực sẽ thấy sự phát triển kinh tế ở Liên Xô ngày càng bộc lộ những
khuyết điểm, những mâu thuẫn khó giải quyết, đặc biệt từ cuối thập kỷ 70
trở đi.
Điều đó được thể hiện ở một số vấn đề sau:
+ Cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng
15


Cơ cấu nền kinh tế Liên Xơ được hình thành trong hồn cảnh
quốc tế đang nóng lên cho một cuộc thế chiến mới mà mình là một đối

tượng đánh phá của thế lực phát xít hiếu chiến, lẫn thế lực thù địch đế quốc
thì Liên Xơ khơng cịn con đường nào khác ngồi việc thực hiện chiến lược
cơng nghiệp hóa siêu tốc, phát triển rút ngắn. Theo như lời của Xtalin đã
tuyên bố với dân chúng: “Chúng ta lạc hậu hơn các nước tiên tiến từ 50 đến
100 năm, chúng ta phải vượt khoảng cách đó trong 10 năm”[82, 3].
Chiến lược cơng nghiệp hóa siêu tốc đó được thực hiện qua 3
bước trong 12 năm (lấy đà từ 1926 – 1928; đại nhẩy vọt từ 1929 – 1932;
bước kết thúc 1933 – 1937). Trong suốt thời kỳ này vốn đầu tư vào công
nghiệp đều giành cho phát triển công nghiệp nặng: khoảng 75% thời kỳ
1926 – 1928 và tăng lên 84% cho các năm tiếp theo. Kết thúc thời công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Liên Xơ đã tạo được nền cơng nghiệp nặng
khá hồn chỉnh với hàng chục ngành mới, hiện đại mà trước đó nước Nga
khơng hề có như chế tạo ô tô, máy bay, máy kéo…Đến thời kỳ sau chiến
tranh thế giới, do tính chất đối đầu của trật tự thế giới hai cực Xô – Mỹ nên
Liên Xô tiếp tục ưu tiên cho phát triển ngành công nghiệp nặng, ra sức mở
rộng quân đội, tăng cường thực lực quốc phịng, chạy đua vũ trang,…điều
đó làm cho tồn bộ nền kinh tế quốc dân Liên Xơ ngày càng mang đặc
trưng quân sự rõ rệt. Mất cân đối trong phát triển nông nghiệp, công nghiệp
nhẹ và công nghiệp nặng cũng như giữa tích lũy và tiêu dùng ngày càng trở
nên nghiêm trọng. Tỷ lệ mất cân đối giữa phát triển công nghiệp nhẹ với
công nghiệp nặng kéo dài là do nguyên tắc được xem là bất biến trong
chính sách kinh tế, đó là ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng. Từ kế hoạch
5 năm lần thứ IX (1970 – 1975), mức đầu tư cho cơng nghiệp nhóm A
thường gấp 7 lần nhóm B . Nếu lấy chỉ tiêu đầu tư của hai nhóm vào năm
1913 là 1 thì:
Bảng 1.1: Cơ cấu đầu tư kinh tế giữa nhóm A và nhóm B. [7, 10]
Năm

Nhóm A


Nhóm B
16


1970

214

30

1985

454,9

60,4

1986

478,7

62,8

Xem xét tỷ trọng giá trị sản lượng 1985, công nghiệp nhóm A chiếm
74,8% trong khi đó cơng nghiệp nhóm B chiếm tỷ trọng khiêm tốn là
25,2%. So với Mỹ, sự mất cân đối là quá lớn, tỷ lệ giữa cơng nghiệp nhóm
A và cơng nghiệp nhóm B ở Mỹ là 67/33. Ngay trong công nghiệp nặng,
những ngành công nghiệp có liên quan đến ngành cơng nghiệp qn sự,
quốc phịng thì nhịp độ sản xuất tăng trưởng nhanh hơn những ngành cơng
nghiệp dân sinh. Để duy trì cơng nghiệp nặng, các thế hệ lãnh đạo ở Liên
Xô đều nhấn mạnh cần bảo đảm tăng trưởng ổn định công nghiệp nặng và

ngành chế tạo máy, xem nhẹ một số ngành công nghiệp đương thời mà thế
giới coi là mũi nhọn.
Sự mất cân đối cơ cấu kinh tế còn biểu hiện ở sự mất cân đối giữa
công nghiệp với nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp tụt hậu xa
so với công nghiệp.
Bảng 1.2: Tốc độ phát triển giữa công nhiệp với nông nghiệp. [53,
21]
Thời gian

Nông nghiệp

Công nghiệp

1976 so với 1940

Tăng 2,4 lần

Tăng 18 lần

1975 so với 1960

Tăng 0,4 lần

Tăng 3,2 lần

Trong hơn 10 năm Brêgiơnhép lên cầm quyền, kinh tế nông nghiệp
được chú trọng hơn, đầu tư cho nông nghiêp tăng từ 22% lên hơn 27%, vốn
sản xuất cố định tăng 4 lần. Tuy nhiên, trong ngành kinh tế nông nghiệp
hiệu quả đầu tư vẫn không cao. Ở Liên Xô, lực lượng lao động nông nghiệp
chiếm 20% tổng lao động xã hội; còn ở Mỹ con số này là 4,2%, nhưng khối

lượng sản xuất nông nghiệp Liên Xô chỉ bằng 85% của Mỹ [7, 11]. Chính

17


cơ cấu kinh tế Liên Xô mất cân đối nghiêm trọng đã tạo ra sức ì rất lớn, nền
kinh tế thiếu tính năng động trước biến động của nền kinh tế thế giới. Đặc
biệt vào cuối những năm 80, nền kinh tế thế giới bước sang giai đoạn phát
triển dựa vào thành tựu của cuộc cách mang khoa học - kỹ thuật cao, trong
khi đó Liên Xơ vẫn xem ngành công nghiệp nặng truyền thống là nền tảng
kinh tế của mình. Đó là ngun nhân chính làm cho nhịp độ tăng trưởng
kinh tế Liên Xô ngày càng giảm.
+ Nhịp độ tăng trưởng kinh tế giảm dần
Nếu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1950, nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội là 14,2%; từ 1951 –
1960 là 10% thì từ thập kỷ 60 đã bắt đầu giảm rõ rệt. Trong những năm
1966 – 1970 (kế hoạch 5 năm lần thứ VIII), tỷ lệ tăng thu nhập quốc dân
trung bình hàng năm là 7,1%; từ năm 1971 – 1975 (kế hoạch 5 năm lần thứ
IX) là 5,1%; từ 1976 – 1980 (kế hoạch 5 năm lần thứ X) là 3,9% và đến
1982 là 2,6%, tương đương mức thấp nhất thời kỳ chiến tranh [53, 9]. Nhịp
độ tăng năng suất lao động không ngừng giảm: từ 21% trong kế hoạch 5
năm lần thứ IX (1971 – 1975), xuống còn 14% trong kế hoạch 5 năm lần
thứ X (1976 – 1980) và chỉ còn 12% trong những năm 1980 – 1985, xấp xỉ
2% năm [61]. Các số liệu này chứng tỏ nền kinh tế Liên Xô đang trên đà tụt
dốc không phanh nếu không có cơ chế mới điều chỉnh nền kinh tế.
+ Kinh tế không kịp thời chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang
phát triển theo chiều sâu, chỉ chú ý đến số lượng ít tính đến chất lượng
Do điều kiện lịch sử, trong nhiều thập kỷ nền kinh tế Liên Xô phát
triển chủ yếu bằng các nhân tố chiều rộng, tức là bằng cách thu hút vào sản
xuất những nguồn lực mới: tăng vốn sản xuất cố định, tăng đầu tư mới,

tăng sức lao động, nguyên liệu và nhiên liệu…(dưới hình thức tăng thêm xí
nghiệp và trang thiết bị). Bước sang thập kỷ 80, qui mô nền kinh tế Liên
Xô là cực kỳ to lớn. Sự phát triển công nghiệp nặng “nhất nguyên” theo
chiều rộng này được mô tả khái quát qua hình ảnh của sự luẩn quẩn: khai
18


thác than và quặng sắt để làm ra gang thép, rồi gang thép đó lại được dùng
để chế tạo ra máy móc, thiết bị phục vụ cho việc khai thác than và sắt.
Nhưng điều nguy hiểm nhất là các mâu thuẫn đó tích đọng trên cơ sở một
nền kinh tế hiện vật khơng có sản xuất hàng hóa và thị trường cùng tất cả
những yếu tố và thuộc tính khác vốn phải có của nó [82, 4]. Các ngành sản
xuất đã có hơn 1.600 tỷ rúp tài sản cố định, hàng năm sử dụng gần 1 nghìn
tỷ rúp nguyên, nhiên, vật liệu; hơn 1 tỷ tấn kim loại; hàng trăm triệu tấn
dầu mỏ và hàng chục triệu lao động [7, 12]. Vì vậy, nếu xem nhẹ việc nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, hoặc sử dụng kém hiệu quả cũng đem
lại thiệt hại hết sức to lớn. Thực tế chỉ ra rằng con đường phát triển kinh tế
theo chiều rộng của Liên Xơ là con đường “hao phí”, “tiêu hao” làm cạn
kiệt các nguồn lực. Mặt khác, cũng vào thời điểm trên, ở Liên Xô đã xuất
hiện các nhân tố gây khó khăn cho việc tiếp tục phát triển kinh tế theo
chiều rộng. Đó là: Lao động nhàn rỗi của xã hội đã cạn kiệt và tỷ lệ sinh đẻ
giảm dần, dẫn đến việc giảm lực lượng lao động mới. Bên cạnh đó, bắt đầu
từ cuối thập kỷ 60, tài ngun thiên nhiên ở phía Tây Liên Xơ có dấu hiệu
cạn kiệt, trọng điểm khai thác chuyển về phía Đơng và một số vùng khác.
Năm 1974 mở lại tuyến đường sắt Bai Can – Amua để khai thác vùng
Xibêri và Viễn Đơng, các cơng trình phục vụ việc khai thác ở đây cũng
được xây dựng mạnh mẽ. Tuy nhiên, điều kiện khai thác ở vùng này rất
khó khăn, chi phí khai thác đắt, khoảng cách vận chuyển xa, nên hiệu quả
kinh tế thấp. Ngồi ra việc chi phí cho quốc phòng quá lớn, đầu tư và trợ
cấp cho nơng nghiệp nhiều, cộng thêm việc tăng chi phí duy trì lực lượng,

căn cứ qn sự ở trong và ngồi nước cũng làm ảnh hưởng lớn đến năng
lực sản xuất của Liên Xơ.
Tóm lại, khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng giống như
dao động tắt dần của quả lắc đồng hồ mất động lực và khơng cịn triển
vọng. Đúng như M.X Goócbachốp khi mới lên cầm quyền đã thừa nhận:
“phát triển theo chiều rộng về cơ bản đã làm hao mòn tiềm lực, căn bản
19


khơng cịn con đường nào khác ngồi đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật”
[53, 11].
+ Mâu thuẫn giữa tiềm năng khoa học kỹ thuật với khả năng ứng
dụng
Bắt đầu từ những năm 40, nhân loại bước vào cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật lần thứ hai. Đặc biệt từ cuộc khủng hoảng năng lượng
1973 trở đi, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển cực kì mau
chóng, trong đó cách mạng cơng nghệ được nâng lên vị trí hàng đầu (cũng
có ý kiến cho rằng đó là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ ba
hoặc gọi là cuộc cách mạng khoa học – công nghệ). Cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật lần này đã làm thay đổi một cách cơ bản các nhân tố sản xuất
như công cụ và công nghệ, nguyên vật liệu, năng lượng thông tin, giao
thông vận tải, đồng thời nó cũng biến nền kinh tế thế giới ngày càng được
quốc tế hóa cao, làm hình thành một thị trường toàn thế giới. Trong khi các
nước tư bản chủ nghĩa đã biết khai thác và vận dụng triệt để thành quả của
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật để thốt khỏi khủng hoảng từ nửa sau
thập kỷ 70 thì Liên Xô lại thể hiện sự chậm trễ và yếu kém trong lĩnh vực
này, mặc dù Liên Xô là nước có tiềm năng khoa học - kỹ thuật rất lớn (đội
ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật của Liên Xô chiếm khoảng 20% của thế
giới). Năm 1975, Liên Xô có tổng số 1.223.400 cán bộ khoa học. Trong đó,
số cán bộ có trình độ trên đại học là 454.800 người; năm 1980 con số tương

ứng là 1.373.300 và 30.700 người [7,14]. Liên Xô đã từng đi đầu thế giới
về một số thành tựu khoa học như: khoa học nguyên tử, công nghệ chế tạo
tàu vũ trụ và khoa học thám hiểm không gian – những thành tựu tinh túy
nhất của trí tuệ nhân loại. Thế nhưng do vấn đề cơ chế, Liên Xô đã không
khai thác và vận dụng được tiềm năng khoa học - kỹ thuật của mình cho
phát triển kinh tế - xã hội. Trung bình hàng năm chỉ 1/4 thành quả khoa học
- kỹ thuật mới được ứng dụng trong nền kinh tế quốc dân và thời gian ứng
dụng một hạng mục kỹ thuật mới thường kéo dài 10 – 12 năm (trong khi ở
20


Mỹ mất khoảng 4 – 5 năm, còn ở Nhật thì ngắn hơn nhiều). Có một hiện
tượng ngược đời là nhiều phát minh khoa học - kỹ thuật của Liên Xô nhưng
không ứng dụng được ngay trong nước mà phải bí mật chuyển ra nước
ngồi để sau vài năm lại trở về sử dụng ở Liên Xô. Trong công nghệ của
Liên Xơ cũng tồn tại tình trạng mất cân đối: cơng nghệ quốc phịng thì
tương đối phát triển, cơng nghệ dân dụng lại tương đối lạc hậu. Bên cạnh
đó, Liên Xơ cịn thua kém, tụt hậu so với phương Tây trong nhiều công
nghệ mới như: vi điện tử, năng lượng vật liệu mới, tin học, vi sinh vật,
nông học, điều khiển học và tự động hóa,…
Theo thống kê 1984 – 1985, trình độ khoa học - kỹ thuật
chung của Liên Xô lạc hậu so với phương Tây khoảng 15 năm. Cũng vào
thời gian này, lao động thủ công ở Liên Xơ vẫn cịn khoảng 50 triệu người
(dân số Liên Xơ trước đó là 275 triệu). Trung bình cứ 10 người lao động có
4 người lao động thủ cơng. Trong cơng nghiệp, người lao động thủ công
chiếm tỷ lệ 1/3, xây dựng 1/2 và nông nghiệp 3/4 [7, 10].
Với thực trạng trình độ khoa học - kỹ thuật như vậy thì việc
chuyển nền kinh tế sang phát triển theo chiều sâu dựa trên sự đẩy nhanh
tiến bộ khoa học - kỹ thuật là điều không thể giải quyết dễ dàng trong thời
gian ngắn.

Tóm lại, cho đến trước khi tiến hành cải tổ, nền kinh tế Liên
Xô tồn tại thực trạng là: cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, đứng trên
bờ vực khủng hoảng; nhịp độ phát triển kinh tế giảm xuống mức thực chất
là suy thối và trì trệ; các nguồn lực phát triển theo chiều rộng đã cạn kiệt
mà nền kinh tế không kịp thời chuyển sang phát triển theo chiều sâu; khoa
học - kỹ thuật nhìn chung khá lạc hậu; sự thua kém giữa Liên Xô với các
nước tư bản phát triển, nhất là Mỹ trên nhiều lĩnh vực chủ chốt có xu
hướng gia tăng khơng có lợi cho Liên Xơ.
Bức tranh tồn cảnh của nền kinh tế Liên Xô cho phép chúng
ta khẳng định điều mà Gcbachốp thừa nhận “cách nhìn trung thực và
21


không thiên kiến dẫn chúng ta đi đến kết luận chắc chắn là: đất nước đang
ở vào trạng thái tiền khủng hoảng” [23, 32].
Trạng thái tiền khủng hoảng của đất nước Xơ Viết trong nửa
đầu thập kỷ 80, có nguồn gốc sâu xa và nguyên nhân cơ bản xuất phát từ
việc Liên Xơ xác lập và duy trì q lâu mơ hình kinh tế chỉ huy, tập trung
quan liêu bao cấp với sự can thiệp theo kiểu quản lý độc quyền, toàn diện
của nhà nước, bằng kế hoạch tập trung hóa cao độ mang tính áp đặt, duy ý
chí.
Như đã đề cập, mơ hình Xơ Viết được hình thành trong điều
kiện chưa có tiền lệ; chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ được xây dựng đơn độc
trong vịng vây của chủ nghĩa đế quốc vào khoảng thời gian giữa hai cuộc
chiến tranh thế giới, do đó nó có những khuyết tật này nọ là điều khó tránh
khỏi. Tuy nhiên, người ta đã không nhận ra các khuyết điểm căn bản của nó
mà ngược lại mơ hình này càng được coi là “hồn mĩ” khơng chỉ cho Liên
Xơ mà tồn “phe” xã hội chủ nghĩa sau khi Liên Xô chiến thắng chủ nghĩa
phát xít và giành được những thành tựu to lớn trong thời kỳ khôi phục kinh
tế (1946 – 1951) và thời kỳ tiếp theo. Chính vì vậy, các nước Đơng Âu và

cả Việt Nam cũng đi theo mơ hình này trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Việc thực hiện mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ
công hữu với việc nhà nước quản lý tập trung theo kế hoạch thống nhất,
nhưng thiếu những bước đi, hình thức quá độ phù hợp là sự vận dụng lý
luận Mácxít một cách máy móc, nóng vội, xa rời điều kiện thực tiễn và quy
luật kinh tế khách quan.
Chỉ trong vòng một thập kỷ (1926 – 1937) thực hiện mơ hình này,
qúa trình cơng nghiệp hóa, tập thể hóa nơng nghiệp và mấy năm tiếp theo
sau cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã được tuyên bố là hoàn thành với
thành tựu nổi bậc là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể được xác lập về cơ
bản, các thành phần kinh tế khác nhanh chóng bị phá bỏ và đẩy lùi, được
biểu hiện qua bảng sau:
22


Bảng 1.3: Các thành phần kinh tế ở Liên Xô (%). [7, 17]
Năm

1913

1928

1939

Tồn thể dân cư

100

100


100

Cơng nhân và viên chức

17

17,6

50,2

Nơng dân tập thể và thợ thủ công Hợp tác


0

2,9

47,2

Nông dân cá thể và thợ thủ công riêng lẻ

66,7

74,9

2,6

Tư sản, địa chủ, thương nhân, Cu lắc

16,3


4,6

0

Sự nóng vội trong việc xác lập mơ hình kinh tế tập trung quy mơ lớn, xã
hội hóa tồn diện, khơng phù hợp với cơ sở xã hội kinh tế đã dẫn đến
những sai lầm trong xác lập chế độ sở hữu, bộ máy và cơ chế quản lý kinh
tế, cũng như trong lĩnh vực phân phối.
Như vậy, mơ hình kinh tế chỉ huy, tập trung quan liêu bao cấp…ở
Liên Xô được xác lập trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Trong hoàn
cảnh nội chiến, chiến tranh cùng với các nhân tố khác như ưu thế về chính
trị tư tưởng, tinh thần cách mạng gắn với chủ nghĩa u nước của nhân
dân…mơ hình này đã phát huy tác dụng tích cực, vượt trội làm mờ những
thiếu sót, “khuyết điểm” vốn có của nó. Do đó, khi chuyển sang hồn cảnh
mới thì mơ hình được xem là duy nhất đúng này khơng cịn phù hợp và trở
thành vật cản, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội trong khoảng thời gian
khá dài. Chính điều này là nguyên nhân cơ bản đưa đất nước Xô Viết đến
tình trạng trì trệ, tiền khủng hoảng vào nửa đầu thập niên 80. Chắc chắn
rằng, vào thời điểm đó nếu không tiến hành cải cách, cải tổ theo những
dạng thức nào đó thì Liên Xơ sẽ trược dài đến bờ vực sụp đổ. Chính vì vậy,
vấn đề cải tổ được đặt ra và thực hiện ở Liên Xô là một yêu cầu tất yếu
khách quan.

23


1.2.2. Thực trạng chính trị - xã hội
+ Khủng hoảng về nhận thức giai đoạn phát triển chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô:

Như mọi người biết, thời kỳ Khơrútsốp cầm quyền đã từng nêu lên nhiệm
vụ triển khai toàn diện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ơng chủ trì soạn thảo
Cương lĩnh Đảng cộng sản Liên Xô và được thông qua tại Đại hội XXII
(năm 1961), được tuyên bố là “Cương lĩnh xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa”. Trong đó đã nêu: trong 10 năm (1961 – 1970), sản lượng bình quân
đầu người sẽ vượt Mỹ; khi kết thúc 10 năm tiếp theo (1971 – 1980) sẽ xây
dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô về cơ
bản sẽ xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
L.Brêgiơnhép, sau khi kế nhiệm cương vị người lãnh đạo cao nhất của
Đảng và nhà nước, trong các Hội nghị toàn thể của Ủy ban Trung ương đã
phê bình “chủ nghĩa chủ quan và duy ý chí” của Khơrútsốp, nêu “cần đánh
giá một cách thật sự cầu thị và khoa học những vấn đề và triển vọng xây
dựng chủ nghĩa xã hội”. Sau đó trong dịp lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng
tháng Mười ông nêu lên thuyết “Liên Xô xây dựng xong xã hội xã hội chủ
nghĩa phát triển”, thay cho thuyết “Xây dựng chủ nghĩa cộng sản”. Thuyết
“Xây dựng xong chủ nghĩa xã hội phát triển” của Brêgiơnhép tiếp tục được
sử dụng và phổ biến sang cả các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong 15
năm tiếp sau đó cho đến khi ơng mất.
I.Anđrơpốp lên thay làm Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xơ đã phủ định
thuyết của Brêgiơnhép đưa ra. Ơng từng làm chủ tịch Hội đồng an ninh
quốc gia một thời gian dài nên biết rõ tình hình Liên Xơ, xác định Liên Xô
chỉ mới ở “khởi điểm” chứ không phải “đã xây dựng xong” chủ nghĩa xã
hội phát triển – công việc của một giai đoạn lịch sử rất lâu dài. Trong bối
cảnh ấy, Anđrôpốp nêu lên nhiệm vụ mang tính “chiến lược”: trong vịng
10 – 20 năm cuối cùng của thế kỷ XX, Liên Xơ phải “Hồn thiện có kế
hoạch và tồn diện chủ nghĩa xã hội phát triển” mà hiện thời mới chỉ “đang
24



×