Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Giáo án môn Ngữ văn khối 11 - Luyện tập các thao tác lập luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.95 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Soạn: 20/03/09 Giảng:23/03/09 CHỦ ĐỀ 9: CB (Tiết 22+23). LUYỆN TẬP CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN A. Môc tiªu bµi häc - Giúp hs tìm hiểu sâu hơn về các thao tác lập luận từ đó khắc sâu kiến thức qua các đề văn, đã học - Củng cố kiến thức , kĩ năng tìm hiểu một đề văn , thơ qua các việc sử dụng các thao tác B. Phương tiện thực hiện C. Phương pháp thực hiện: Gv hướng dẫn hs tìm hiểu theo phương pháp gợin mở và nêu vấn đề tìm hiểu , thảo luạn và trả lưòi c©u hái D. TiÕn t×nh bµi häc Hoạt động của GV/HS Néi dung bµi häc I. Phân tích đề, tìm hiểu đề: - Đọc kĩ đề, chú ý từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ nhữ, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của câu, đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm hiểu mối tương Ví dụ đề bài : "Văn học chân chính có quan giữa các vế: song song, chính phụ, nhân quả, tăng khả năng nhân đạo hóa con người". Hãy tiến, đối lập... bình luận ý kiến trên. Đề này đề cập đến chức năng giáo dục * Vấn đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển của văn học. Trên cơ sở hiểu biết về đơn khai? Mối quan hệ giữa các ý như thế nào? vị kiến thức trên mà tổ chức lập luận. * Sử dụng thao tác lập luận gì là chính? Đề học sinh - Nói văn học chân chính có khả năng giỏi thường yêu cầu sử dụng tổng hợp các thao tác, nhân đạo hóa con người là nói đến ý nhưng còn tùy thuộc vào lĩnh vực kiến thức mà thiên về nghĩa tác động tích cực của văn học đối thao tác nào là chính. Nếu liên quan đến tác phẩm thì với người đọc, làm cho họ tốt hơn lên, chủ yếu phân tích - chứng minh, nếu liên quan đến lí biết sống nhân ái, nhân đạo. Khi đã nắm luận văn học thì chủ yếu giải thích - bình luận ... chắc nôi dung luận đề thì tiến hành xác * Vùng tư liệu được sử dụng cho bài viết: tác gia, trào lập ý lớn. Đề trên có thể triển khai thành lưu, giai đoạn, thời kỳ văn học; trong nước hay thế giới. những luận điểm như sau: 1.Vì sao văn học lại có nhiệm vụ nhân II. Lập dàn ý đạo hóa? Do ý đồ sáng tạo của nhà văn, I. Tác dụng của vệc lập dàn ý: là chức năng cao cả của văn học. - Lập dàn ý giúp cho người viết lựa chọn, sắp xếp ý 2.Văn học thực hiện nhiệm vụ nhân đạo thành một hệ thống chặt chẽ và bao quát được nội dung hóa bằng cách nào? cơ bản, nhờ đó mà tránh tình trạng lạc đề hoặc lặp ý, - Đấu tranh vì một xã hội công bằng tốt tránh được việc bỏ sót ý hoặc triển khai ý không cân đẹp. xứng. - Giúp con người tự nhận thức, tự hoàn - Có dàn ý người viết sẽ phân phối thời gian hợp lý khi thiện đạo đức nhân cách, tự chọn lối viết bài sống cách sống đẹp nhân ái. II.Cơ sở lập ý - Đôi khi văn học giúp con người có lối Có hai cơ sở để xác lập ý: sống nhân đạo bằng lời đề nghị trực - Trường hợp đề bài có nhiều ý thì dựa vào chỉ dẫn của tiếp. đề nhưng phải xác định mối quan hệ giữa các ý, nhất là 3. Có phải chỉ có văn học mới có chức quan hệ chính phụ, không nên nhầm lẫn ý chính với ý năng giáo dục con người hay không? phụ. Thường thì những đề này chỉ chứa những ý chính. Gia đình, nhà trường, xã hội! Môn Giáo dục công dân v.v... Vậy đặc thù của văn Ví dụ đề bài: Nguyễn Văn Siêu có viết: " Văn chương học là gì? (...) có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại 4. Ý nghĩa vấn đề: Đối với nhà văn. Đối không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. với bạn đọc. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người" Hãy bình luận ý kiến trên. Đề có hai ý tương đối rõ ràng. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Trường hợp đề bài chỉ có một ý. Đây là dạng phổ biến thường gặp ở những kỳ thi h.s. giỏi. Vậy thì căn cứ vào đâu để xây dựng được hệ thống lập luận gồm những ý lớn ý nhỏ? Hoàn toàn lệ thuộc vào vốn kiến thức của bạn! Nếu có chút lúng túng thì hãy chú ý đến nội hàm của khái niệm (nếu có) hoặc hiểu cái ý ngầm đằng sau những lời văn là gì... III. Cách lập dàn ý bài văn nghị luận: 1. Xác định các luận điểm (ý lớn). - Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm. - Đề bài có một ý, thì ý nhỏ hơn cụ thể hoá ý đó được xem là những luận điểm. Nội dung kiến thức này ở trong bài học, tư liệu hoặc vốn tự có. 2. Tìm luận cứ ( ý nhỏ) cho các luận điểm. Mỗi luận điểm cần cụ thể hoá thành nhiều ý nhỏ hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tuỳ thuộc vào ý lớn. Ý nhỏ có khi được gợi từ đề bài nhưng phần lớn là từ kiến thức của bản thân. 3. Lập dàn ý ba phần: a. Mở bài: Giới thiệu luận đề Tác dụng của phân tích là thấy được giá b. Thân bài: Triển khai nội dung theo hệ thống các ý lớn, ý nhỏ đã tìm. trị ý nghĩa của sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức với bản chất, nội c. Kết bài: Tổng kết nội dung trình bày, liên hệ mở rộng, nâng cao vấn đề. dung. Phân tích giúp nhận thức đầy đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ đối tượng. Riêng đối với tác phẩm văn LUẬN học, phân tích là để khám phá ba giá trị 1. Phân tích 1. Khái niệm của văn học: nhận thức, tư tưởng và Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành thẩm mĩ. Yêu cầu phân tích: phải nắm vững đặc nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng điểm cấu trúc của đối tượng để chia tách nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng. một cách hợp lí. Sau khi phân tích tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết phải tổng hợp khái quát lại để nhận thức đối tượng đầy đủ, sâu sắc và trình bày ngắn gọn. 2. Cách phân tích - Khám phá chức năng biểu hiện của các chi tiết Ví dụ 1: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. (Nguyễn Khuyến) - Dùng phép liên tưởng để mở rộng nội Từ xanh ngắt gợi tả không gian trời thu cao xanh vời dung ý nghĩa vợi, nền trời là một màu xanh ngăn ngắt. Màu xanh này Ví dụ: THoài giới thiệu nhân vật Mị gợi tả được cảnh trong veo và thật im vắng, yên tĩnh. trong truyện Vợ chồng A Phủ: Cụm từ mấy từng cao đã diễn tả không gian sâu thẳm vô - Trước nhà thống lí Pá Tra, người ta lúc cùng. Trên nền không gian bao la ấy, tác giả điểm xuyết nào cũng thấy Mị ngồi quay sợi bên một cành trúc. Từ láy lơ phơ giàu sức tạo hình, gợi tả tảng đá cạnh tàu ngựa. cành trúc khẳng khiu, thanh mảnh, nhẹ nhàng, thưa thớt - Lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn lá, đang đong đưa trong làn gió nhẹ của chiều thu. Nhờ rười rượi. cần trúc với dáng nét lơ phơ mà cảnh thu có vẻ đẹp Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> --> Vị trí ngồi ấy cho thấy cuộc đời Mị như bị thít chặt trong kiếp ngựa trâu và khuôn mặt lột tả cõi lòng luôn mang nỗi đau buồn thầm lặng dai dẳng, triền miên. Nỗi buồn đông cứng như tảng đá vô tri và đè nặng lên đôi vai, lên cuộc đời Mị. Tác giả đã thể hiện nỗi buồn của Mị với giọng văn ngậm ngùi và chiều sâu cảm thông hiếm thấy. Đoạn văn mở đầu giúp người đọc chứng kiến cảnh đời bi thương của nhân vật Mị. Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so sánh tương đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so sánh tương phản. Tác dụng của so sánh là nhằm nhận thức nhanh chóng đặc điểm nổi bật của đối tượng và cùng lúc hiểu biết được hai hay nhiều đối tượng. Ví dụ 2: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”… Nguyễn Du, Bạch Cư Dị so tiếng đàn với tiếng suối. Thế Lữ lại so tiếng hát trong với nước ngọc tuyền (suối ngọc). Những người này không miêu tả trực tiếp tiếng suối. Chỉ có Nguyễn Trãi cho tiếng suối là tiếng đàn cầm. Có lẽ đó là hình ảnh gần nhất với hình ảnh trong câu thơ này. Có thể chẳng phải ngẫu nhiên. Nguyễn Trãi sành âm nhạc. Bác Hồ cũng thích âm nhạc. Tiếng hát của một danh ca Pháp từng thích nghe thời trẻ, đến tuổi bảy mươi Bác còn nhờ chị Mađơlen Rípphô tìm lại hộ. Tiếng suối ngàn của đất nước hay đó là tiếng hát của trái tim người nghệ sĩ yêu đời. (Lê Trí Viễn). duyên dáng thơ mộng, thanh thoát. Ví dụ 2: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc lơ lửng, trữ tình: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương - Hình ảnh thơ chân thực, không gian gần gũi nhưng nhờ cách lựa chọn thời gian nên đã gợi tả được phong cảnh tuyệt vời. Đó là thời điểm ngày đã hết, nắng chiều đã lưng nương nhưng lần lữa như không muốn đi. Bóng hoàng hôn còn lưu luyến thì trăng đã nhô lên, đổ ánh sáng dịu dàng. Do đó cảnh thung lũng có sự giao hòa ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, thứ ánh sáng dịu dàng, trong trẻo của trăng hoà với ánh sáng êm ả của hoàng hôn tạo ra một vừng sáng diệu kì như thực, như mơ. Chớp lấy khoảnh khắc lạ lùng, Tố Hữu đã đem đến cho thiên nhiên Việt Bắc một vẻ đẹp bình dị, mộng mơ làm say đắm lòng người. 2. So sánh 1. Khái niệm: So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật mà mình quan tâm.. 2. Cách làm - Trước hết là cần xác định đối tượng nghị luận từ đó tìm một đối tượng tương đồng hay tương phản, hoặc cần so sánh hai đối tượng cùng lúc - Chỉ ra những điểm giống nhau giữa các đối tượng. - Dựa vào nội dung cần tìm hiểu, chỉ ra điểm khác biệt giữa các đối tượng. - Xác định giá trị cụ thể của các đối tượng. Ví dụ 1: So sánh nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về hiện tượng đời sống và cách làm bài. Nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về hiện tượng đời sống là hai dạng đề cụ thể của nghị luận xã hội. Nghĩa là, bàn bạc để hiểu một cách thấu đáo cũng như vận dụng vấn đề nghị luận vào đời sống và bản thân.Vấn đề đạo lí có tính chất truyền thống nhằm rèn luyện đạo đức nhân cách. Vấn đề hiện tượng đời sống * Lưu ý: Trong thực tế, một vấn đề nhiều khi có mặt đúng, mặt sai. Vì vậy, mang tính thời sự nóng hổi nhằm mục đich rèn luyện ý thức công dân. Đối tượng nghị luận có khác nhau nhưng khi bác bỏ hoặc khẳng định cần cân cách làm bài giống nhau nhắc, phân tích từng mặt để tránh tình Phần mở bài ta nên tìm hiểu và nói rõ nguyên nhân vì trạng khẳng định chung chung hay bác sao xuất hiện vấn đề trên và giới thiệu đề bài bỏ, phủ nhận tất cả. Phần thân bài ta làm lần lượt các ý sau . Vận dụng kết hợp các thao tác lập 1. Giải thích chi tiết và tổng quát vấn đề nghị luận luận 1. Vì sao phải sử dụng kết hợp các thao 2. Đưa dẫn chứng cụ thể đồng thời phân tích để thấy việc đúng / sai của vấn đề. tác lập luận? Nhận đinh khái quát việc đúng / sai, hoặc nửa đúng nửa Viết văn nghị luận là thể hiện sự hiểu biết, nhận thức, khám phá của mình về sai của vấn đề. Khi lấy dẫn chứng bạn cần có phương đối tượng nghị luận nhằm nâng cao trình pháp và tránh hiện tượng lấy quá nhiều hoặc quá ít dẫn Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> độ, năng lực, giúp người khác cùng hiểu và tin vào vấn đề. Đồng thời người viết cũng thể hiện chính kiến, thái độ, sự đánh giá vấn đề, không ngừng đưa ra những điều chỉnh tích cực nhằm nâng cao sự tiến bộ trong lĩnh vực văn minh tinh thần của văn học. Do đó phải sử dụng kết hợp các thao tác lập luận. - hiểu biết, nhận thức --> giải thích - khám phá --> phân tích - đánh giá --> bình luận. ... 2. Tìm hiểu việc sử dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn sau: HOÀNG HẠC LÂU (Lầu Hoàng Hạc) Thôi Hiệu Thôi Hiệu (704 - 754) là một trong những nhà thơ xuất sắc thời Đường. Hoàng Hạc lâu là bài thơ nổi tiếng được truyền tụng xưa nay. Thắng cảnh lầu Hoàng Hạc ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc gắn với truyền thuyết người tiên là Tử An rồi Phí Văn Vi cưỡi chim hạc vàng đến nơi này. Tương truyền khi xưa Lí Bạch có đi qua Hoàng Hạc lâu, thấy phong cảnh hữu tình, muốn phóng bút một vài câu thơ ca ngợi nhưng chợt thấy bài Hoàng Hạc lâu khắc trên vách bèn ngửa mặt than rằng: Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu . Dịch Trước mắt thấy cảnh không tả được Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu. Lầu Hoàng Hạc toạ lạc ở địa điểm cao nên có thể nhìn bốn phương trời mênh mang và phía dưới là dòng sông Dương Tử chảy về đông. Đứng trên lầu cao, cảm giác con người quá bé nhỏ trước vũ trụ, trước không gian vĩnh hằng và thời gian chảy trôi vĩnh viễn. Do đó, bốn câu đầu gợi tả quang cảnh chung nhưng cũng là suy niệm về phận người trước cái vô thủy vô chung: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. Hạc vàng đi mất từ xưa, Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. Nhắc đến tích xưa là chiêm nghiệm cái còn và cái đã mất. Người tiên đã cưỡi chim thiêng mang cái đẹp đi rồi, bây giờ lầu Hoàng Hạc. chứng. 3. Bàn bạc mở rộng vấn đề: bạn nên tìm hiểu các khía cạnh còn lại của vấn đề; lật ngược vấn đề để hiểu chắc chắn hơn và tìm hiểu tác dụng, ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân và đời sống Phần kết bài nên nhấn mạnh lần nữa giá trị của vấn đề. 3. Bác bỏ 1. Khái niệm: Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa ra nhận định đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng đắn của mình. 2. Yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ - Muốn bác bỏ một ý kiến sai thì phải dẫn đầy đủ ý kiến đó. Sau đó làm sáng tỏ hai phương diện: sai ở chỗ nào và vì sao như thế là sai. Trả lời vì sao như thế là sai, đó chính là thao tác lập luận bác bỏ. - Để khẳng định ý kiến sai cần xem xét ba yếu tố: luận điểm, luận cứ, luận chứng. - Bác bỏ ý kiến sai là dùng lý lẽ và dẫn chứng để phân tích, lí giải tại sao như thế là sai. 3. Cách sử dụng Bác bỏ một ý kiến sai có thể thực hiện bằng nhiều cách: bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ cách lập luận hoặc kết hợp cả ba cách. a. Bác bỏ luận điểm: thông thường có hai cách bác bỏ - Dùng thực tế để bác bỏ: Nếu luận điểm đi ngược lại với thực tế thì ta dùng thực tế để bác bỏ. - Dùng phép suy luận: Từ thực tế, ta có thể thêm suy luận để cái sai ấy bộc lộ rõ hơn. b. Bác bỏ luận cứ: Là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lý lẽ và dẫn chứng được sử dụng. c. Bác bỏ lập luận: Là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lôgíc trong lập luận của đối phương. * Lưu ý: Mục đích của bác bỏ là bảo vệ chân lí, xác nhận sự thật. Nếu xa rời mục đích chân lí thì sự bác bỏ trở thành nguỵ biện, vô bổ và có hại. Bài viết có bố cục như sau: Đoạn 1: Xác định luận điểm cần bác bỏ. Đoạn 2: Phân tích để thấy rõ thực chất của luận điểm. Đoạn 3: Dùng luận cứ để bác bỏ luận điểm. Ví dụ: a. Nhất Chi Mai (Nhất Linh) phê bình Vũ Trọng Phụng, năm 1937. Đọc xong một đoạn văn, tôi thấy trong lòng phẫn uất, khó chịu, tức tối. Không phải phẫn uất, khó chịu cái vết thương xã hội tả trong câu văn, mà chính là vì cảm thấy tư tưởng hắc ám, căm hờn nhỏ nhen ẩn trong đó. ... Đọc văn Vũ Trọng Phụng, thực không bao giờ tôi thấy một tia hy vọng, một tư tưởng bi quan. Đọc xong ta tưởng nhân gian là một nơi địa ngục và xung quanh mình toàn là những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục, nói Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> chỉ còn dấu tích của kỉ niệm, đứng trơ trọi như cái xác không hồn. Nhìn lên bầu trời quang đãng chỉ thấy vầng mây trắng trôi lơ lửng ngàn năm: Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. Cảnh trong trẻo mênh mông mà cô quạnh đã diễn tả cái trống vắng chơi vơi trong tâm hồn lữ khách. Bốn câu thơ nhưng có ba từ hoàng hạc, đây là điểm kiêng kị trong thơ Đường nhưng phép điệp hình ảnh chim hạc bay đi (chỉ còn lại khoảng trời trống vắng) đã diễn tả niềm luyến tiếc không nguôi cái đẹp đã mất. Tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc như gởi vào bầu trời xanh mênh mông. Đoạn thơ còn suy niệm về lẽ mất còn và cái hữu hạn, bé nhỏ của đời người trước sự trôi chảy của thời gian và không gian trời rộng sông dài. Hạc vàng tượng trưng cho ẩn sĩ, cái đẹp cao khiết và bất tử. Mây trắng biểu tượng cho trinh bạch, yên tĩnh nhưng vô hồn như lầu không. Hạc đi, mây ở lại, gợi đến tình cảnh biệt li. Hạc vàng đi về đâu không biết như cuộc đời con người thật quý giá nhưng cuối cùng sẽ đi về đâu sau trăm năm chìm nổi nên hình ảnh mây trắng phiêu bồng lãng du gợi cảm giác phù sinh của kiếp người. Thơ luật Đường thất ngôn, đề ra nguyên tắc niêm luật rất chặt chẽ. Tuy vậy bốn câu thơ đầu đã phá luật bằng trắc: hoàng hạc khứ / hoàng hạc lâu để đảm bảo tiểu đối về cái động (chim hạc bay) với cái tĩnh (lầu Hoàng Hạc), từ đó nổi rõ ý tưởng giữa cái hư vô và cái hiện hữu. Bất phục phản đối không chỉnh với không du du nhưng thể hiện được cảm xúc tự nhiên dạt dào. Từ cảnh hiện hữu gợi cái vô thường, nhà thơ đưa người đọc về không gian sống tươi tắn, tràn đầy ánh sáng của cảnh bên lầu Hoàng Hạc: Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. Hình ảnh hàng cây soi bóng sáng rõ mồn một (lịch lịch) trên dòng sông xanh phẳng lặng như gương và cỏ thơm đôi bờ xanh mơn mởn gợi vẻ đẹp diễm lệ mà im ắng như bức tranh tĩnh vật. Cảnh trống vắng như lầu không, như bầu trời cao. Nhìn chung, khung cảnh đẹp như bức tranh thủy mạc tươi thắm những sắc. càn, một thế giới khốn nạn vô cùng. Phải chăng đó là tấm gương phản chiếu tính tình, lí tưởng của nhà văn, một nhà văn nhìn thế giới qua cặp mắt kính đen và một cội nguồn văn cũng đen nữa. b. Vũ Trọng Phụng đã phản bác lại cùng năm đó, 1937. Khi dùng một từ bẩn thỉu tôi chẳng thấy khoái trá như khi các ông tìm được một kiểu áo phụ nữ mới mẻ, những lúc ấy, tôi chỉ thương hại cái nhân loại ô uế bẩn thỉu, nó bắt tôi phải viết như thế, và nó bắt các ông phải chạy xa sự thực bằng những danh từ điêu trá của văn chương. Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trẻ trung, hi sinh cho ái tình hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô học, chẳng có thị vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùng trong người nữa. Tôi không biết gọi gái đĩ là nàng - chữ ấy nó thi vị lắm hoặc tô điểm cho gái đĩ ấy những cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong truyện người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo! ... Đó, thưa các ông, cái chỗ bất đồng ý kiến giữa chúng ta!... Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời... Hắc ám, có! Vì tôi vốn là người bị quan, căm hờn cũng có, vì tôi cho rằng cái xã hội nước nhà mà lại không đáng căm hờn, mà lại cứ "vui trẻ trung", trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ v.v...như các ông chủ trương thì một là không muốn cải cách gì xã hội, hai là ích kỉ một cách đáng sỉ nhục. Còn bảo nhỏ nhen thì thì thế nào? Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của nhân dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho xã hội công bình hơn nữa, đừng có chuyện ô uế, dâm đãng, mà bảo là nhỏ nhen, thì há dễ Zôla (Dôla), Hugo (Huygô), Mabraux (Mabrô), Dostoievski (Đôtstôiepski), Maxime Gorki (Maxim Gorki) lại không cũng là nhỏ nhen? Nếu các ông không muốn sờ lên gáy thì thôi, bao nhiêu chuyện thanh cao, tao nhã, cao thượng của loài người xin các ông cố mà hương hoa khấn khứa. Tôi xin để cái phần ấy cho các ông. Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy khốn nạn, quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê, thợ thuyền bị lầm than, bị bóc lột. Lạc quan được cho đời là vui, là không cần cải cách, cho cái xã hội này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánh phấn bôi môi hình quả tim để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theo ý tôi, thế là giả dối, là tự lừa mình và di hoạ cho đời, nếu không là vô liêm sỉ một cách thành thực. 4. Bình luận Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> màu: cánh hạc vàng, trời trong mây trắng, sông xanh, cỏ mướt. Đứng trong cảnh đẹp thanh khiết, con người như cũng được thanh lọc tâm hồn. Từ thê thê có nghĩa là xanh tươi mơn mởn nhưng cũng có nghĩa là lạnh buốt buồn bã, tùy theo cách phát âm. Do đó, phong cảnh có nắng ấm, cỏ thơm nhưng buồn vắng lạnh lẽo nên gợi biết bao nỗi niềm cho viễn khách thi nhân. Chiều xuống, cảnh hoàng hôn tĩnh lặng càng thêm buồn vời vợi. Khi ánh nắng yếu dần, cái tươi thắm của bức tranh xuân đã nhường chỗ cho khói sương mờ bao phủ dòng sông, ngày đã hết nên tâm trạng muốn quay về ngôi nhà yêu dấu và làm dâng lên nỗi buồn thương nhớ quê hương: Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Quê hương ở đâu sau ánh chiều tà? Quê hương là ngôi làng dấu yêu hay là chốn trở về sau cuộc đời trăm năm chìm nổi đã được suy niệm từ câu thơ đầu? Hết một cuộc đời con người rồi sẽ đi về đâu? Trở về cát bụi hay cõi hư vô? Câu thơ gợi nỗi buồn bâng khuâng, man mác. Bảy câu thơ dọn đường cho chữ sầu buông xuống. Sầu vì hoài cổ, thương kim? hay nhớ quê hương? Bài thơ đẹp về cảnh lẫn tình ý sâu xa nên Nghiêm Vũ đời Nam Tống đã nói rằng “Đường nhân thất ngôn luật thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng Hạc Lâu đệ nhất” (Thơ niêm luật đời Đường bảy chữ, phải xếp bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu vào hạng nhất). 1. Khái niệm: Bình luận là bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng… đúng hay sai, hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại…; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử phù hợp và có phương châm hành động đúng. - Yêu cầu của việc đánh giá là sát đối tượng, nhìn nhận vấn đề toàn diện, khách quan và phải có lập trường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng. 2. Cách làm: BL luôn có hai phần: - Đưa ra những nhận định về đối tượng nghị luận. Thông thường, những nhận định được rút ra từ kết quả phân tích - Trên cơ sở của những nhận định, người viết đánh giá vấn đề Muốn đánh giá vấn đề một cách thuyết phục thì phải có lập trường đúng đắn và nhất thiết phải có tiêu chí. Trong văn NL xã hội, thì dựa vào lập trường nhân dân và tiêu chí đạo lí... Trong văn NL văn học, thì dựa vào lập trường nhân dân, quyền con người và tiêu chí là tính khách quan của đời sống,sự tiến bộ của văn học, đối với tác phẩm cụ thể thi tiêu chí là giá trị nhận thức, giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ. Ví dụ: Bình luận về sự đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu đối với văn học dân tộc qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc? Trả lời: - Lần đầu tiên người nông dân đi vào văn học với vẻ tự nhiên vốn có về cuộc sống, đức tính. - Lần đầu tiên NĐC thấy được nông dân là chủ nhân thật sự của đất nước, trong khi triều đình Nguyễn lúng túng, nhu nhược trước ngoại xâm thì nông dân đã tự giác đứng lên đánh giặc để bảo vệ quê hương bờ cõi. - Bài văn được viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ mộc mạc nhưng có sức gợi hình gợi cảm lớn, đặc biệt đoạn văn dựng lại cảnh chiến đấu rất hoành tráng, có không khí và màu sắc sử thi, vượt qua giới hạn của bài văn tế thông thường. - Bài văn khắc họa được hình tượng con người VN tiêu biểu về phẩm chất yêu nước và anh hùng, thể hiện tinh thần bất khuất và lẽ sống vì nước quên mình mang tính truyền thống của dân tộc VN. - Bài văn có ý nghĩa cỗ vũ tinh thần kháng chiến mạnh mẽ ngay từ lúc nó ra đời.. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(7)</span>

×