Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

mach dien xoay chieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.26 KB, 64 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

ôn Văn 12 P1( Nhng bài văn chän läc )



<b>Đất của tâm hồn </b>


“Khi ta ở đất là nơi đất ở


Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”


Có thể đất chỉ là vật chất bình thường vơ tri vơ giác nhưng khi đi xa “đất bỗng hóa
tâm hồn”, thật cao cả thật đáng quý biết bao! Phải chăng đó là tâm hồn của ta
(Người đi) đối với đất hay đất ở đây đã được gắn một tâm hồn người, một tính cách
người đối với những ai đã từng hoài vọng cố hương khi phải sống nơi đất khách quê
người thì nỗi nhớ mong còn vành vạnh hơn với đất quê ta - Nơi ta cất tiếng chào đời
từ cái ngày xa xưa ấy khi bà mụ (bà bảo mẫu) đem cái nhau máu mũ ấy chơn vào
lịng đất, bình thường đó là sự tan biến hư vô theo quy luật tự nhiên nhưng với mỗi
con người Việt Nam đã có một kỷ niệm đầu đời hòa vào lòng đất để trở thành lời
nhắc nhớ đầu tiên, gọi là “ nơi chơn nhau cắt rốn”. Tuổi đời mênh mơng dịng đời vô
tận những cánh chim non rồi cũng trưởng thành rời tổ, trên những chuyến tàu thời
gian quằn nặng những lo toan trăn trở giữa đời thường vì cuộc sống, miếng cơm
manh áo. Những ai ít có được diễm phúc trở lại q hương có nghe dịng hồi ức chảy
ngược về nơi những con đường đầy hoa cỏ dại về mùa mưa lụt đầy bùn lầy lội và
cũng khơng ít những ổ gà, ổ voi lởm chởm khi mùa nắng tới. Nơi ấy các em thơ ngày
hai buổi vẫn đi về và biết nuôi hy vọng cũng như bao lớp đàn anh đi trước và nơi ấy
mẹ cha ta vẫn đi, về tay cuốc vai cày một nắng hai sương mà gởi gắm cho tương lai
con trẻ nơi những miền xa qua những buổi chiều tà đã xong công việc ra cửa nhìn về
phía cuối dịng sơng chảy mong có ánh ráng hồng báo hiệu một ngày mai nắng đẹp.
Thật nhiều lo toan và cũng thật nhiều hạnh phúc khi con người biết lao động và biết
hy vọng... và có những dịng hồi tưởng đẹp để khơng hổ thẹn với chính bản thân
mình cho dù trong đó có những buồn vui lẫn lộn. Chính vì vậy những lúc thả hồn
mình trở lại với đất q hương bằng dịng ký ức mới thẩm thấu hết cái giá trị đích
thực của những gì cịn đọng lại trong tâm mình.



Thực tại sự tác động của cơ chế thị trường đã làm thay da đổi thịt; mỗi mảnh đất,
con đường nhỏ đều được quy đổi gia trị kinh tế. Đất q hương bây giờ khơng cịn
như trong ký ức ngày xưa mà thay vào đó là những con đường mở rộng nối xã liền
xã thôn liền thôn bằng bê tơng rắn chắc, chỉ có dịng sơng như mãi miết lặng lẽ xi
dịng chở theo bao giá trị của đất và cát...Nhưng sơng cũng ngày càng quặn mình đổi
hướng vì chính bàn tay con người. Nước xốy mạnh vào bờ kết hợp với những làn
sóng tạo ra từ những chiếc thuyền máy tấp nập đi về và cứ thế những biền dâu xanh
ngắt một màu, những lũy tre xanh nghiêng mình roi bóng nước, những hình ảnh đẹp
và nên thơ như thế hôm nay hầu như chỉ còn trong ký ức. Bây giờ là vực sâu đầy
nguy hiễm từng gây ra những cái chết thương tâm. Đất với những con người xuất
thân từ đất, quả đúng là một phần hồn của đất trong cuộc sống hôm nay. Điều giản
đơn mà cũng thật là sâu sắc tất cả những gì cuộc sống này có được đều diễn ra trên
mặt đất và từ trong lòng đất. Đặc biệt là đất quê hương nơi những đơi tình nhân hẹn
hị tình tự, nới ấy em đã đi về sau mỗi giờ tan lớp ai đón đưa...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tim khi họ biết cùng nhau vượt qua những rào cản của một quan niệm hay nói đúng
hơn là một cách nghĩ khơng cịn hợp thời. Chính vì thế mà trên con đường đất q
hương chứng kiến khơng ít những cuộc chia ly đầy nước mắt của những trái tim non
trẻ, song cũng nhiều đôi trở thành những đôi uyên ương thật là hạnh phúc. Biết ai
còn nhớ hay ai đã quên..! Âm vọng quê hương nghe thật nhiều xúc cảm mãi mãi vẫn
tươi xanh một màu nhớ thương, một thời nông nổi một vùng ký ức tuổi thơ gắn liền
với đất quê hương...Đất của tâm hồn./.


<b>Cảm nhận về bài thơ "Đàn ghita của Lor-ca"</b>


<b>(Thanh Thảo)</b>



<b>Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo - một sự cộng hưởng của những khát vọng </b>
sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lor-ca, một
suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng
hiến trọn vẹn cho cái đẹp.



Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian
miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi
bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khống, tha thiết u người,
u đời, nhưng nghịch lí thay, lại khơng ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó
hướng về miền đơn độc :


những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la


đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh chống
trên n ngựa mỏi mịn
...


tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy


tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và đưa vào bài thơ
của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha.
Nhưng vấn đề khơng đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã
được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn
gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca - người mê dân ca,
"chàng hát rong thời trung cổ", "con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang
hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra,
nói về một tình u vơ bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã


nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng
"song trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lịng của Lor-ca trước cuộc
sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận
của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một
văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của
một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng
khống. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời
sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự
bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại
và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu
yêu quý :


Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
...


tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy


Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho
việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có
một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của
các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo
gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí
ln dày vị nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ
thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này.



Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở
những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành
hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với
các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng - máu
chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn
liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

sáng tạo của Thanh Thảo. Nó khơng đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có
khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng
bê bết đỏ tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết
hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi
bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người
mộng du có phần thể hiện sự phi lí khơng thể nào nhận thức nổi này).


Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy
nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như
hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần
nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc,
chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi,
bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái
bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của
Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó khơng chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có
tính phổ qt, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu
hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc
mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dịng thơ
li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường
viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt
khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm
biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói


buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù khơng có
sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc
giả hiểu thơ khơng vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc
này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về
số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy
trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng
trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn.


Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác.
Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lịng, từng là đối tượng thể hiện
quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật
phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột
xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân
mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?... Tất cả những liên hệ ấy
đều có cái lí của chúng !


ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng
và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng
chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ :


không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dịng sơng rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cơ gái Di-gan
vào xốy nước



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...


Câu thơ khơng ai chơn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo
của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh
cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Khơng, ở đây
khơng có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ
"chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn
theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác
bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của
Lor-ca - một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên
sự gắn bó vơ cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không
được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra
một chân lí : khơng ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được ! Đây là
tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy
trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn khơng
ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự
thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn khơng ngăn nổi lịng mình khi viết ra những
câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm
giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang
thiên địa. Khơng phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngơn từ có thể
dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là
không ai chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao
thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy
giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.


Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm khơng cịn
gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tn theo đúng lơ gích
tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng


quan trọng hơn, nó tn theo lơ gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là
sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng
hoảng (của xã hội loài người) là sự khơn ngoan, chín chắn,... Trong mn nghìn điều
mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong
đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội
cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thơ bạo với nghệ thuật khơng cịn là
chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lịng để chiêm ngưỡng một sự siêu thốt, một sự hố
thân. Trên dịng sơng của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc
bừng tỉnh thốt khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang
trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc.
Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền
thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại...


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Mặc Tử) vào xốy nước hư vơ, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái
lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan
đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã
thắng khơng chỉ lũ ác nhân mà cịn thắng cả chính định mệnh và hư vơ nữa. Từ điểm
này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm
tầng nghĩa mới. Bị lơi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác.
Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu
lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng
chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới
sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ
dưới văn bản thơ của Thanh Thảo[1] !...


Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững
vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản"
khác nhau vào một tổng thể hài hồ. Tưởng khơng có gì chung giữa đường chỉ tay, lá
bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi"
cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở


nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời
dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của
loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể
chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng.
Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm
thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô
tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la
li-la li-la...


Để lịng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh
không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách
diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của
Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một
sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường
gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của
sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên,
Thanh Thảo khơng phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây khơng có gì
khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị,
khước từ mô tả trực quan - để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà
thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn
<b>ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. </b>
Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc
đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ
XX đầy bi kịch.


<b>Rừng xà nu</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Thành-I. Tìm hiểu chung:</b>
<b>1, Tác giả:</b>



- Tên khai sinh: Nguyễn Văn Báu; bút danh: Nguyên Ngọc
- Sinh 5/ 9/ 1932: quê Thăng Bình- Quảng Nam.


- 1950: Ông ra nhập quân đội; 1954: tập kết ra Bắc; 1962 : trở vào Nam.


- Ông là nhà văn quân đội, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ chủ yếu ở Tây Nguyên và
liên khu 5. Ông gắn bó với con người và mảnh đất nơi này.


- Các TP chính: “ Đất nước đứng lên”(1955); “Mạch nước ngầm”(1960); “ Rừng xà nu”(1965); “
Trên quê hương anh hùng Điện Ngọc”(1969).


<b>2, Xuất xứ:</b>


- Viết vào mùa hè năm 1965: Đế quốc Mĩ ồ ạt đổ quân vào Miền Nam nước ta
- TP được in lần đầu trong cuốn tạp chí “Văn nghệ qn giải phóng”( số 2- 1965)


- Năm 1965: được in lại trong tập truyện kí “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” của
Nguyễn Trung Thành.


<b>3, Tóm tắt cốt truyện:</b>


Có hai câu chuyện đan cài vào nhau.
- Cuộc chiến đấu của dân làng XôMan
- Chuyện đời riêng của Tnú


<b>4, Chủ đề:</b>


- Thông qua câu chuyện về cuộc đời Tnú, TP ca ngợi sức sống, tinh thần đấu tranh quật cường
của dân làng XôMan nói riêng và các dân tộc Tây Nguyên nói chung trong đấu tranh chống Mĩ
xâm Lược.



<b>II. Phân tích:</b>


1, Truyện xây dựng hệ thống nhân vật thể hiện sự tiếp nối của các thế hệ CM làng XôMan cũng
là của đồng bào Tây Nguyên: Cụ Mết, Tnú, Dít, Mai, Heng...


<b>a, Nhân vật Mết:</b>


- Là một giag làng, cao niên, quắc thước khoẻ mạnh.
Chi tiết: + 60 tuổi, tiếng nói vang trong lồng ngực, giọng ồ ồ.


+ Ngực căng như một cây xà nu lớn, mắt sáng xếch ngược, râu dài; hai bàn tay chắc nịch.
- Là người trầm tính, kín đáo, uy nghi đĩnh đạc.


Chi tiết:


+ các nhận xét của cụ được bày tỏ một cách thận trọng có mức độ. Trước khi đánh giá bao giờ
cụ cũngquan sát kĩ đối tượng, nhìn từ đầu đến chẩnồi mới nhận xét. Những khi vừa ý nhất cụ
cũng chỉ nói “Được”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

- Là người giàu lịng yêu thương với dân làng, quê hương:
Chi tiết:


+ Nhường muối cho người đau.


+ Giữ Tnú ở nhà mình và đãi Tnú những món ăn ngon của làng quê.
+ Cụ tự hào về làng quê “ Gạo strá....”


+ Cụ có ý thức truyền lại cho con cháu nhớ câu chuyện của Tnú hay truyền thống đấu tranh của
dân làng XôMan.



- Cụ tin tưởng ở CM:


+ Tổ chức nuôi dấu cán bộ trong 5 năm khơng có một người cán bộ nào bị bắt
+ Cụ dạy cho dân làng XôMan “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”


=> KL: cụ Mết là tập hợp tiêu biểu cho truyền thống lịch sử cha ông, là gạch nối giữa Đảng, CM
và dân XơMan. Cụ chính là cây Xànu lớn nhất của rừng Xànu.


<b>b, Nhân vật Tnú:</b>


* Là nhân vật tiêu biểu cho: số phận; con đường đến với CM > của dân làng XôMan trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ


- Là người gan góc, táo bạo, trung thực
Chi tiết:


+ Lúc nhỏ Tnú vào rừng cùng Mai để tiếp tế cho cán bộ.
+ Đi đưa thư.


+ học chữ chậm-> lấy đá đập đầu...


+ Bị bắt, bị tra tấn-> nhưng Tnú cắn răng chịu đựng.


+ Sau khi thoát khỏi tù ngục-> Tnú vẫn tiếp tục con đường CM.


- Là người giàu ý chí, nghị lực, biết vượt lên bi kịch của cá nhân để sống đúng, sống đẹp sống có
ý chí.


+ Bi kịch: * Mồ cơi



• Vợ con bị kẻ thù giết dã man.


• Bản thân chịu nhiều đau thương: bắt, đánh đập, tra tấn, bị đốt 10 ngón tay
+ Tnú vượt lên bi kịch;


• Từ nhỏ anh đã chọn cho mình con đường sống đúng đắn: Theo cụ Mết, theo dân làng đi ni
cán bộ.


• Mất vợ, con, người thân nhưng Tnú không gục ngã mà ngược lại anh đứng vững rồi bản thân
vượt lên nỗi đau cá nhân-> anh gia nhập quân đội, anh giết chết tên chỉ huy trong hầm cố thủ
của hắn


-> Thổi bùng lên ngọn lửa căm hờn của dân làng XôMan, của đồng bào Tây Nguyên
- là người giàu tình, nặng nghĩa


+ hết lịng u thương vợ con


• Khi Mai sinh con,Tnú khơng đi chợ mua vải cho Mai may địu thì Tnú lấy ngay taams chăn của
mình để Mai làm địu


• Lúc chứng kiến vợ con bị kẻ thù đánh đập: đau thương, căm giận-> anh lao vào bọn giặc
+ Làng quê với Tnú là gia đình-> xa làng quê, Tnú rất nhớ khi gặp mọi người, Tnú đều nhớ, anh
khơng qn ai, nhớ tiếng chày của làng q.


- Có tính kỉ luật cao:


* Câu chuyện tình u của Tnú Và Mai đã góp phần làm đẹp thêm phẩm chất tốt đẹp của nhân
vật



- Lúc đầu là tình bạn khi cịn là thơ ấu: tình bạn thơ mộng: cùng học cùng chịu đựng, cùng nuôi
dấu cán bộ, họ lớn lên cùng với sự lớn lên của dân làng XôMan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Dẫn chứng: Khi Tnú vượt ngục, Mai gặp Tnú và cầm hai bàn tay anh rưng rưng nước mắt
- Mối tình của họ hết sức bi thương bởi quân thù tàn bạo. Tuy nhiên, nó trở thành động lực để
Tnú hoàn thành nhiệm vụ mà CM giao


* ở nhân vật Tnú, hình ảnh bàn tay gây ấn tượng sâu đậm:
- Lúc bàn tay còn lành lặn thì đây là bàn tay nghĩa tình:
+ Bàn tay đã dắt Mai lên rẫy trồng tỉa


+ Bàn tay cầm phấn để viết lên bảng, viết những con chữ đầu tiên
+ Bàn tay cầm công văn để làm liên lạc


+ Hai bàn tay ấy, Mai đã cầm để biện hộ tình u của mình


- 10 ngón tay Tnú bị kẻ thù tẩm nhựa Xà nu để đốt cháy-> trở thành 10 ngọn đuốc-> 10 ngón tay
ấy đã trở thành chứng tích của lịng căm hận kẻ thù.


- Bàn tay mỗi ngón chỉ cịn hai đốt nhưng Tnú vẫn cầm súng và chính bằng bàn tay ấy anh đã
bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm cố thủ của nó.


=> TL: Tnú chính là cây Xànu mạnh mẽ nhất, đẹp nhất trong núi rừng Tây Nguyên


<b>c.Dớt và bộ Heng.</b>


- Dớt “đụi mắt to bỡnh thản trong suốt” khi thi hành nhiệm vụ của người bớ thư …Dớt hỏi Tnỳ =
giọng lạnh lựng “đồng chớ về cú giấy khụng?” … Khi bị bắt và bị tra tấn thỡ “… đến viờn thứ 10
nú chựi nước mắt im bặt, đụi mắt mở to bỡnh thản lạ lựng” =>Dớt là cụ gỏi gan dạ, yờu cỏch
mạng, nghiờm nghị và giàu tỡnh cảm, luụn bỡnh tĩnh trong mọi hồn cảnh.



-Heng cũn nhỏ nhưng đó tham gia đỏnh giặc. Hỡnh ảnh chỳ bộ “sỳng đeo…..một người lớnh
thực sự” đẹp và cú ý nghĩa: Sự chiến đấu của dõn làng XM sẽ được tiếp bước & trưởng thành
hơn lớp măng non nối tiếp cha anh đỏnh giặc .


<b>d.Dân làng Xụ Man : </b>


Người già trẻ em , trai gỏi cú tờn & khụng tờn mừng khi TN về làng ,chăm chỳ nghe Mết kể
chuyện Tnỳ, đồng lũng căm thự giặc& cựng ý chớ chiến đấu bảo vệ làng bản ,bảo vệ cỏch mạng
Họ yờu nước yờu cỏch mạng.


** Sự xuất hiện của Heng, Dỳt ,Tnỳ & cụ Mết là sự nối tiếp hết lớp này đến lớp khỏc nhiều người
con Tõy Nguyờn anh hựng chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn của quê hương đất nước.
Họ là những “cõy xà nu” mà nếu ngó xuống sẽ cú cõy con mọc liờn tiếp nhanh để tạo rừng xà nu
n/tiếp tới chõn trời .


-Hỡnh ảnh bản làng Xụ Man vừa tạo cho truyện khụng khớ sử thi cũng chớnh là hỡnh ảnh cuả
“rừng Xà nu” hiờn ngang tuyệt đẹp, “cỏnh rừng tạo ra những cõy vững chải như cụ Mết Dớt ,Mai,
Heng…


e. Cuộc đồng khởi của dõn làng:


-Giặc đến dõn làng chuẩn bị khớ giới mài giỏo mỏc, vút chụng
-Đờm giặc võy làng TN bị tra tấn mọi người đó nổi dậy


+ Cỏc cụ già chồm dậy. “Tiếng kờu thột dữ dội tiếng chõn chạy rầm rập quanh nhà ủng”.
+ Tất cả thanh niờn trong làng mỗi người một cõy rựa sỏng loỏng…


+ “Đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xỏc 10 tờn lớnh ngổn ngang xung quanh đống lửa” .
+ “Thế là… khắp rừng”



Cuộc vùng dậy quyết liệt & tất yếu. Hành động của kẻ thự chõm ngọn lửa quật khởi of dõn bản.
“Căm thự thỳc giục trả lời, vũ khớ trả lời vũ khớ”… . Đờm bỏo hiệu cuộc chiến với kẻ thự dài lõu.
2, Hình tượng cây Xà nu:


Vừa là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa mang ý nghĩa tượng trưng
- Mở đầu và kết của truyện đều là cảnh rừng Xànu.


Đầu: “ Đứng trên...đến hết tầm mắt cũng....chân trời”


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

+ Con người XôMan: anh Xút bị treo cổ trên cây vaie đầu làng; bà Nhan bị giặc chặt đầu; Tnú bị
đốt 10 ngón tay.


+ Cây Xà nu: bị đạn đại bác bắn suốt đêm ngày. Hàng vạn cây, có những vết thương cây con
khơng lành được-> chết


- Cây Xà nu hiện diện trong suốt câu chuỷện về người dân XôMan trong cuộc kháng chiến chống
kẻ thù xâm lược


+ Cây Xà nu có mặt trong đời sống hàng ngàycủa người dân XôMan: ngọn lửa trong bếp, trong
đống lửa lớn để tập hợp dân làng ở nhà Ưng; là ngọn đuốc để soi sáng những đoạn rừng đêm,
khói Xà nu xơng lên để làm bảng cho Tnú học chữ.


+ Cây Xà nu còn có mặt trong những sự kiện trọng đại:


• Ngọn đuốc Xànu đã cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng đã vào rừng để lấy giáo, mác
để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới


• Đêm đêm, dân làng đãthức để mài vũ khí dưới ánh sáng của nhựa Xànu
- Rừng xà nu có sức sống mãnh liệt như dân làng XơMan đầy khí phách


+ Cạnh một cây Xà nu mới ngã gục đã có 4-5 cây con mọc lên ngọn xanh rờn


+ Đã 2-3 năm nay, rừng Xà nu trong mưa bom bão đạn vẫn “Ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che
chở cho làng-> đây là một hình ảnh đầy kiêu hãnh, biểu hiện khí phách”


+ Kẻ thù định dùng nhựa Xà nu để dìm dân làng trong biển máu nhưng chính lũ ác ơn do thằng
Dục cầm đầu đã bị cụ Mết và dân làng giết chết. Xác chúng ngổn ngangquanh đống lửa Xànu.
Sau đó, Tnú đã tham gia lực lượng-> trở thành người chiến sĩ CM


- Hình tượng cây Xà nu trong TP còn là biểu tượng cho thế trận chiến tranh nhân dân khơng
ngừng lớn mạnh-> đây là hình ảnh ẩn dụ, là liên tưởng kì vĩ của nhà văn. Qua đó ta thấy được
thái độ, tình cảm của nhà văn yêu mến tự hào về nhân dân.


3.Đặc sắc nghệ thuật


a.Nhõn vật được t/h = những nột chấm phỏ, hiện ra hành động (Tnỳ,Mết,Dớt,Heng).
b.Đậm chất sử thi:


-Qua cõu chuyện về c/đ Tnỳ& cuộc nổi dậy của dõn làng XụMan t/g tỏi hiện thời kỳ ls of phong
trào cỏch mạng Mnam cho tới khi Đồng khởi = Đề cập đến vấn đề bao trựm về vận mệnh & con
đường g/p of cả dõn tộc trong thời kỳ khỏng chiến chống Mĩ .


- Hệ thống nhõn vật của truyện là sự tiếp nối của cỏc thế hệ c/m of làng Xụ Man. Tớnh chất sp of
nhõn vật mang ý nghĩa đại diện cho nhõn dõn,cộng đồng .Sp cỏ nhõn thống nhất với cộng đồng.
-Cỏch kể & ngụn ngử kể chuyện tạo nờn tớnh sử thi


+Cõu chuyện được kể trong hồi tưởng of già làng bờn bếp lửa trước đụng đủ lũ làng.
+ Cỏch cụ Mết kể như muốn truyền lại cho bản làng những trang sử cộng đồng.


+ Cõu chuyện về Tnỳ & cuộc nổi dậy of bản làng được kể như chuyện lịch sử = sự kiện quan


trọng .


-Cỏch tạo k/cảnh of NT Thành mang chất sử thi:
+Khung cảnh “Rừng Xà Nu” vụ tận.


+ Khung cảnh đờm nổi dậy …
c.Nghệ thuật trần thuật:


- Truyện kể như một hồi tưởng trong một đêm Tnú về thăm làng qua lời kể của cụ Mếtvà những
hồi ức của Tnú tái hiện theo lời kể ấy.


- Truyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng kể cho đông đảo dân làng nghe. Cách
kể trang trọng như muốn truyền cho thế hệ con cháu trang sử của csr một cộng đồng-> mang
đậm tính chất sử thi.


III. Tổng kết:


- Tác giả đã khắc hoạ rất thành công hình ảnh một tập thể anh hùng.


- RXN là một bước tiến xa so với “ Đất nước tiến lên” ở tầm khái quát, sự chọn lọc và dồn lén
những cảm xúc


- TP dạt dào cảm hứng sử thi


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) có duyên với Tây Nguyên. Cả hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Nguyên Ngọc đã sống và chiến đấu ở mảnh
đất hùng vĩ này. Hai tác phẩm hay nhất của Nguyên Ngọc đều viết về Tây Nguyên là
"Đất nước đứng lên" và "Rừng xà nu".


Truyện "Rừng xà nu" viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến


chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của
văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh
hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu
của Tây Nguyên.


Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh
liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho
phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây
Nguyên.


Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể
chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần 20 lần
nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà
nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên
sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất
sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu
đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần
như vậy, nhất là các hình ảnh "đồi xà nu" (4 lần), "rừng xà nu" (5 lần), với "hàng
vạn cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng".


"Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc... Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi
xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây khơng có cây nào khơng bị
thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.
Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt,
rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn". Hình ảnh cây xà
nu mở đầu truyện đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ
thuật nhân hố, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man
và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một
người dân làng Xô Man ngã xuống.



Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai,mãnh liệt của
dân làng Xơ Man, của con người Tây Ngun. "Trong rừng ít có loại cây sinh sơi nảy
nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên,
ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham
ánh sáng mặt trời đến thế."


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như "nhựa xà nu".
Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú khoẻ mạnh,
cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.


Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai biết bao. "Có những cây
con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó,
nhựa cịn trong, chất dầu cịn lỗng; vết thương không lành được, cứ loét mãi ra,
năm mười hơm thì cây chết".


Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ như lanh
lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết và thanh niên.
Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ
từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách
tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt,
từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh
dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đơi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ
lùng.


Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom đạn của
kẻ thù "ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng" gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh
cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ
ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng. Chính cụ Mết cũng đã nói với Tnú:
"Khơng có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta..." Cụ cịn nói với dân làng: "Nghe rõ
chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói


lại với con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!". Và khi cuộc khởi
nghĩa bùng nổ, nguyên nhân trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu
ngón tay Tnú. Cả làng Xơ Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp
rừng "Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào
rung động. Và lửa cháy khắp rừng..."


Viết về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) muốn gắn chặt đất nước
với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là
"Đất nước đứng lên". Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ lại lấy tên là "Rừng xà nu"... Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo
nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng
chủ đề của truyện "Rừng xà nu" thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà
những nhân vật anh hùng thêm bất tử.


<b>Về nguyên lý “tảng băng trôi” của Ernest Hemingway </b>


<b>Về nguyên lý “tảng băng trôi” của Ernest Hemingway</b>



<i><b>Đào Ngọc Chương </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

thuyết, cách E.Hemingway hay nhân vật của ông đánh giá thứ văn chương hùng biện
hoặc nêu ý kiến về câu chữ… đã giúp cho các nhà phê bình, nghiên cứu định hướng
trong quá trình nghiên cứu về phong cách E.Hemingway (2).


Những cách làm như thế là hoàn toàn sáng rõ về phương diện thao tác và phương
pháp trong chừng mực nhà nghiên cứu tránh cắt xén và coi các phát biểu của tác giả
chỉ đơn thuần là cái cớ mà những phát biểu là tuỳ thuộc cách biện giải của nhà
nghiên cứu, mặc dù những phát biểu của nhà văn đôi khi không thể thâu tóm hết
những vấn đề sáng tác của chính bản thân. Đó là chưa kể, đơi khi, cách nói của
E.Hemingway lại mang tính đa nghĩa bất ngờ, ví dụ một đoạn trong những ngọn đồi


xanh châu Phi:


“Hãy cho biết cái gì, những thứ thực tế và cụ thể ấy, gây hại cho nhà văn ?”


Tôi mệt mỏi về cuộc trao đổi đã ra chiều phỏng vấn. Thế nên tơi đẩy nó thành cuộc
phỏng vấn cho xong chuyện và xin chào. Cần thiết phải đẩy một ngàn chuyện bất
khả tri vào một câu trong lúc này, ngay trước bữa ăn trưa, là rất sinh tử:


“Chính trị, phụ nữ rượu chè, tiền bạc, tham vọng, và thiếu chính trị, phụ nữ, rượu
chè, tiền bạc và tham vọng”. Tơi nói một cách sâu sắc.


Và sau khi đã đi trọn một đời văn, đã đạt đến đỉnh cao vinh quang của nghiệp văn,
Hemingway nhìn lại sáng tác của mình mà đánh giá. Chính bấy giờ, trong bài phỏng
vấn do Geoge Plimpton (3) ghi. Hemingway đã nói về hình ảnh “tảng băng trơi” một
phần nổi bảy phần chìm như thứ nguyên lý (principle) sáng tác của ông, và từ đấy,
“tảng băng trôi” trở đi trở lại trong nhiều bài viết về E.Hemingway, đặc biệt ở Việt
Nam.


Chúng ta tiếp cận ý kiến này của E.Hemingway khi nghiên cứu về sáng tác của ông,
theo chúng tơi, ít nhất xuất phát từ hai lẽ. Thứ nhất, những phát biểu của


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

khác như một đặc điểm thi pháp có tính hệ thống, quan niệm trong sáng tác của
E.Hemingway chuyển tải quan niệm của nhà văn về con người và thế giới.


Điều khá hiểm hóc và tạo nhiều hiểu lầm lại xuất phát từ chính hình ảnh q sáng rõ
của bảy phần chìm và một phần nổi của “tảng băng trơi” và do đó dễ đẩy chúng ta
đến khái niệm mạch ngầm văn bản theo hướng chúng tơi đã nói ở trên. Thực ra,
trước khi phát biểu về nguyên lý “tảng băng trôi”, E.Hemingway đề cập đến chuyện
quan sát của nhà văn nhân gợi lại chuyện ông gặp người phụ nữ có thai rồi ngay buổi
chiều hơm ấy viết truyện ngắn. Những quả đồi tựa như những con voi trắng, bỏ cả


cơm trưa. Sau đây là trọn đoạn trả lời (có đề cập đến ngun lý “tảng băng trơi”) của
E.Hemingway:


Phóng viên: Thế là khi ông không viết, ông vẫn là người quan sát, chờ đợi một thứ gì
đó có thể sử dụng được.


E.Hemingway: Chắc vậy. Nhà văn mà không quan sát là hết đời. Nhưng anh ta
không phải cố ra mà quan sát và không nên nghĩ là điều gì quan sát được sẽ hữu ích
ra sao. Có thể là thời tập tễnh viết thì như vậy. Nhưng về sau thì mọi thứ anh ta nhìn
thấy sẽ hồ vào kho dự trữ lớn những điều anh ta đang biết hoặc đã gặp. Nếu biết
điều quan sát được chút gì lợi ích, tơi ln ln cố gắng viết theo ngun lý tảng
băng trơi. Có bảy phần tám tảng băng trôi dưới nước để cho (ĐNC nhấn mạnh) một
phần lộ ra. Thứ gì anh ta biết có thể bỏ đi và điều đó chỉ làm tảng băng trơi của anh
thêm mạnh mẽ. Đó là phần khơng lộ ra. Nếu nhà văn bỏ đi một vài thứ bởi vì anh ta
khơng biết chúng thế là có một lỗ hổng trong câu chuyện.


Ông già và biển cả có thể dài trên một ngàn trang và có đủ mặt nhân vật trong làng
cùng đủ mọi cách kiếm sống, ra đời, học hành, sinh con đẻ cái… Điều đó được hồn
tất một cách xuất sắc bởi những nhà văn khác. Trong chuyên viết lách anh thường
phải quẩn quanh trong thứ đã được thực hiện thỏa đáng. Vì thế tơi phải cố gắng học
làm một vài điều khác. Trước hết tôi phải cố gắng bỏ đi tất cả những thứ không cần
thiết để chuyển tải kinh nghiệm đến người đọc, nhờ vậy sau khi bạn đọc nam nữ đã
đọc được điều đó thì nó sẽ trở thành một phần kinh nghiệm của họ và như là thực sự
xảy ra. Điều này rất khó làm và tôi đã cật lực thực hiện.


Bỏ qua chuyện ấy được thực hiện như thế nào, dẫu sao lần này tơi có được cơ may
khó tin và có thể chuyển tải kinh nghiệm một cách trọn vẹn và đó là thứ kinh nghiệm
mà chưa ai từng chuyển tải. Cơ may là thế này: tơi đã tóm được một người đàn ông
đáng mặt và một đứa bé trai ngon lành và gần đây các nhà văn đã quên rằng vẫn
đang có những thứ như thế. Cả biển cả cũng đáng được viết như người vậy. Thế là


nơi đó tơi gặp may. Tơi đã từng gặp ơng bạn cá đao và biết rõ điều đó. Thế là tơi bỏ
đi. Tôi đã từng chứng kiến một đàn năm mươi con cá nhà táng trong cùng một luồng
nước và có lần phóng lao vào một con dài 60 feet và để mất. Thế là tôi bỏ đi. Tất cả
những câu chuyện biết từ cái làng chài tôi đều bỏ đi. Nhưng kiến thức là thứ làm nên
phần chìm của tảng băng trơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

đó: “Thứ gì anh biết anh có thể bỏ đi và điều đó chỉ làm tảng băng trơi của anh thêm
mạnh mẽ. Đó là phần không lộ ra. Nếu nhà văn bỏ đi một vài thứ bởi vì anh ta khơng
biết chúng thế là có một lỗ hổng trong câu chuyện”.


Cơ sở của “loại bỏ” là kiến thức, kiến thức viên mãn về một vấn đề nào đó trong kho
dự trữ lớn lao mà nhà văn có được. Nếu khơng, sẽ khơng phải là phần chìm mà là lỗ
hổng. Với thao tác lược bỏ này, E.Hemingway đặc biệt quan tâm đến phần chìm;
trong khi đó với thao tác lựa chọn, chúng ta dễ hướng tới phần nổi. Điều này giúp lý
giải hiện tượng ngôn ngữ trong tác phẩm E.Hemingway.


Trong bài phỏng vấn đã nêu, rất nhiều lần E.Hemingway đề cập đến kiến thức và
nhiều dạng kiến thức: kiến thức xác thân, kiến thức riêng, kiến thức khách quan,
kiến thức khơng thể giải thích được như thứ kinh nghiệm về gia đình, chủng loại đã
bị quên lãng, đồng thời ông cho rằng hoạt động sáng tác (theo cách hiểu của chúng
ta) là hoạt động phát minh (invent), làm ra (make) từ kiến thức, kinh nghiệm và
hiểu biết về hiện thực, thế giới. Những điều đó cho chúng ta thấy rằng sáng tác và
hoạt động sáng tác của E.Hemingway, nhìn từ góc nhìn của chính tác giả, gắn bó với
nhận thức hiện thực và điều đó là nguyên tắc. Xuất phát từ việc loại bỏ những gì đã
biết rõ về hiện thực, thế giới trên cơ sở toàn bộ những kiến thức kinh nghiệm, hiểu
biết về thế giới, nguyên lý “tảng băng trôi” tạo nên một hiệu quả nghệ thuật trên
người đọc, thực hiện q trình dân chủ hố hoạt động sáng tác và tiếp nhận khi
chuyển tải kinh nghiệm như một quan niệm bản thân về thế giới đến người đọc. Và
như thế bản thân hình ảnh “tảng băng trôi” (bảy phần tám dưới nước cho một phần
lộ ra) kia khơng phải là hình thức biểu hiện như hiện tượng hàm súc là hình thức biểu


hiện cảm xúc trong thơ (cổ) mà là hình thức cảm nhận (cảm thức) hiện thực, thế giới
chủ yếu trong văn xuôi (của E.Hemingway).


Từ đây chúng ta có thể nhận ra mối quan hệ giữa thao tác lược bỏ với các biểu hiện
của hình thức cảm nhận hiện thực hay cảm thức hiện thực (nguyên lý “tảng băng
trôi”) của E.Hemingway. Đó là hiện tượng khoảng trắng trong đối thoại và độc thoại;
hiện tượng lắp ghép, lặp lại, phiến đoạn trong kết cấu ở nhiều cấp độ; hiện tượng phi
cốt truyện hay cốt truyện bên trong của cốt truyện; hiện tượng liên văn bản trong
cách đọc văn bản tác phẩm; hiện tượng đa giọng một cách đặc biệt trong ngôn ngữ;
hiện tượng chất thơ trong lời văn… Bởi vì những biểu hiện như vậy đều gắn bó với
hình thưc cảm nhận hiện thực, con người: tảng băng trơi, bảy chìm một nổi. Con
người cơ đơn, xa lạ vừa như đang cố giấu mình vừa như đang tìm nhau; con người
bao giờ cũng như vừa sống hết mình lại vừa phải nén lại, theo đuổi một điều gì rất
riêng như một nỗi ám ảnh. Kiểu nhân vật con người ấy trong hiện tượng liên văn bản
có khi là sự tiếp nối của một nhân vật, (4). Nhân vật luôn luôn đi trên đường trong
từng tác phẩm và luôn luôn đi trên đường trong một chuỗi tác phẩm từ sự thúc đẩy
của thứ tinh thần thời đại, làm một cuộc phiêu lưu mà cuộc đời là hành trình và là
đích tới của nhân vật.


Trong bài viết ngắn này, chúng tôi chỉ nhằm làm sáng tỏ nguyên lý “tảng băng trôi”
của E.Hemingway không thuộc phạm vi hình thức biểu hiện và là một hình thức cảm
nhận hiện thực (cảm thức hiện thực), một đặc điểm thi pháp sang tính hệ thống và
quan niệm trong sáng của E.Hemingway; chứ không đề ra mục tiêu lý giải, miêu tả
và chứng minh những biểu hiện của hình thức cảm nhận hiện thực ấy cũng như mối
quan hệ giữa những biểu hiện ấy với quan niệm về con người và thế giới của


E.Hemingway. Nhưng những khái quát trên đây về những điểm vừa nêu có thể gợi
lên những điểm đáng quan tâm, mới mẻ về thế giới nghệ thuật của Ernest


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

---



<b>ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA</b>
<b>Thanh Thảo</b>


MỤ<i><b>C TIÊU BÀI HỌC</b></i>


- Hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca qua mạch cảm xúc
và suy tư đa chiều vừa sâu sắc vừa mãnh liệt của tác giả bài thơ


- Thấy được vẻ đẹp độc đáo trong hình thức thơ mang đậm phong cách tượng trưng
và có trí thức đọc hiểu bài thơ viết theo phong cách hiện đại.


<b>I. Tìm hiểu chung</b>
<b>1. Tác giả </b>


+ Thanh Thảo tên khai sinh là Hồ Thành Công, sinh năm 1946. Quê xã Đức Tân,
Huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngãi. Tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tổng hợp HN.
Tham gia trực tiếp chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Từ sau năm 1975, Thanh
Thảo hoạt động văn nghệ và báo chí. Ơng là phó chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn
Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quãng Ngãi.


Tác phẩm chính: Những người đi tới biển (1977 - trường ca). Dấu chân qua Trảng cỏ
(1978 - thơ), Khối vn ru bích (1985 - thơ), Từ một đến một trăm (1988 - thơ),
Những ngọn sóng mặt trời (2002 – trường ca).


Ông được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1979 cho tập thơ Dấu chân qua
trảng cỏ.


Thanh Thảo tiêu biểu cho gương mặt thơ trẻ thời chống Mĩ và có nhiều nỗ lực đổi mới
thơ Việt. Thơ Thanh Thảo viết về đề tài nào cũng đều đậm chất triểt lí. Mạch trữ tình


trong thơ ơng đều hướng tới những vẻ đẹp của nhân cách: nhân ái, bao dung, can
đảm, trung thực và yêu tự do. Thơ ông dành mối quan tâm đặc biệt cho những con
người sống có nghĩa khí như Cao Bá Qt, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê-nhin, Lor-ca
<b>2. Nghệ sĩ Phê-đờ-ri-cơ Ghát-xi-a Lor-ca và bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca </b>
Lor-ca sinh năm 1898 ở tỉnh Gra-na-đa miền Nam Tây Ban Nha, được xem là nhà thơ
lớn nhất TBN thế kỉ XX. Ngồi thơ, ơng cịn là tác giả của nhiều vở kịch nổi tiểng. Thơ
của Lor-ca gắn bó máu thịt với nguồn mạch văn hoá dân gian, hồn nhiên, phóng
khống. Nhân cách nghệ sĩ của ơng thể hiện qua câu thơ nổi tiếng “Khi tôi chết hãy
chôn tôi với cây đàn ghi ta” (ghi nhớ). Lor-ca bị phe phát xít phran-cơ giết trong thời
gian đầu cuộc nội chiến ở TBN. Xác ông bị chúng quăng xuống giếng. Thanh Thảo
thực sự xúc động về Lor-ca nhất là cái chết của ông để viết bài thơ Đàn ghi ta của
Lor-ca. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca như một tuyên ngôn nghệ thuật của Lor-ca.
Cây đàn ghi ta


cất tiếng thở than
...


dưới năm đầu kiếm sắc


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

- Bài thơ chia làm 3 phần


+ Phần 1: (6 dòng đầu) Lor-ca một nghệ sĩ tự do và cô đơn, một nghệ sĩ cách tân
trong khung cảnh chính trị và nghệ thuật TBN.


+ Phần 2 (tiếp đó đến “không ai chôn cất tiếng đàn”): Một cái chết oan khuất gây ra
bởi thế lực tàn ác.


+ Phần 3 (cịn lại): Niềm xót thương Lor-ca những suy tư về cuộc giải thoát và giã từ
của Lor-ca.



Chủ đề:


Bài thơ miêu tả Lor-ca, một nghệ sĩ tự do có tư tưởng cách tân về nghệ thuật, sống
cô đơn trong khung cảnh chính trị TBN và cái chết oan khuất của ông do thế lực tàn
ác gây ra. Đồng thời thể hiện niềm xót thương của tác giả và những suy tư về cuộc
giải thoát và giã từ của Lor-ca.


<b>II. Đọc hiểu văn bản</b>
1. Người nghệ sĩ tự do Lor-ca


- Lor-ca được miêu tả trên cái nền rộng lớn của văn hố TBN


+ Áo chồng đỏ gắt: hình ảnh này nhắc tới mơn đấu bị tót, một hoạt động văn hố
khiến TBN nổi tiếng tồn thế giới.


+ Vầng trăng
+ Yên ngựa
+ Cô gái Di-gan


+ Mô phỏng nốt nhạc ghi ta “li-la-li-la-li-la”


Tất cả làm nổi bật không gian văn hố TBN. Hình tượng Lor-ca nổi bật trên nền văn
hố đó, làm rõ ca sĩ dân gian. Đó là một ca sĩ đơn độc lang thang “hát nghêu ngao”
cùng “tiếng đàn bọt nước” cùng với “vầng trăng chếnh chống/ trên n ngựa mỏi
mịn”


- Tấm “áo choàng đỏ gắt” giúp ta liên tưởng tới cảnh đấu trường. Đây khơng phải là
trận đấu giữa bị tót và võ sĩ mà là đấu trường quyểt liệt giữa công dân Lor-ca cùng
khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa nền nghệ thuật già nua của TBN với
nghệ thuật cách tân của Lor-ca. Nhưng ở góc nhìn nào ta cũng thấy Lor-ca đơn độc.


Chàng sống mộng du với bầu trời, đồng cỏ, dịng sơng và lá bùa sinh mệnh trên
đường chỉ tay.


- Ta bắt gặp sự đồng cảm sâu sắc giữa nhà thơ Thanh Thảo với đối tượng cảm xúc -
người nghệ sĩ Lor-ca.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

+ Bài thơ giàu tính nhạc qua biện pháp tu từ, từ láy


+ Mô phỏng âm thanh các nốt đàn ghi ta (li-la-li-la-li-la). Tất cả làm nổi lên hình
tượng Lor-ca, nghệ sĩ hát rong, người đã dùng tiếng đàn ghi ta để giải bày nỗi đau
buồn và khát vọng yêu thương cảu nhân dân mình.


<b>2. Cái chết oan khuất của Lor-ca</b>


- Đấy là khi Lor-ca bọn phát xít Phrăng-cơ giết, ném xác xuống giếng để phi tang.
- Để miêu tả sự việc bi phẫn này, Thanh Thảo sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật
+ Đối lập:


+) Tự do của người nghệ sĩ và thế lực tà n bạo của phát xít


+) Tiếng hát yêu đời, vô tư với hiện thực phũ phàng đến kinh hồng (áo chồng bê
bết đỏ)


+) Tình u cái đẹp với hành động tàn ác, dã man.


+ Nhân cách hoá: “Tiếng ghi ta rịng rịng máu chảy” có sức ám ảnh
+ Hoán dụ:


+) Tiếng hát để chỉ Lor-ca



+) Tấm “áo choàng bê bết đỏ”: chỉ cái chết
+ So sánh và chuyển đổi cảm giác:


* Tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn. Mỗi so sánh này cũng làm
nổi bật về tình yêu, cái đẹp, cái chết, nỗi đau trong tư tưởng, khát vọng, tình cảm
của Lor-ca. Cái chết của người nghệ sĩ cịn để lại nhiều suy nghĩ. Bọn phát xít khơng
thể sống được trong bầu khơng khí dân chủ, khát vọng tự do. Chúng phải thủ tiêu
Lor-ca. Cái chểt của Lor-ca gây lịng căm thù bọn phát xít và lịng thương cảm người
nghệ sĩ dân gian.


<b>3. Nỗi xót thương và suy tư về cuộc giã từ của Lor-ca </b>


- Nỗi niềm xót thương Lor-ca được chuyển hố thành niềm tin bất tử của tiếng đàn
Lor-ca


Không ai chôn cất...
....cỏ mọc hoang


+ Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lor-ca. Nó cịn là tình u con người,
khát vọng mà ông hằng theo đuổi. Đấy là cái đẹp mà mọi sự tàn ác không thể nào
huỷ diệt được. Nó sẽ sống, lưu truyền mãi mãi như thứ cỏ dại “mọc hoang”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Thanh Thảo cảm thông đến tận cùng với Lor-ca. Nhà thơ tài hoa của đất nước TBN ấy
đành chấp nhận số mệnh phủ phàng. Đường chỉ tay báo trước phận người ngắn ngủi.
Dòng sông rộng mênh mang tượng trưng cho thế giới vô cùng. Con người ấy “ném là
bùa vào xoáy nước” “ném trái tim” vào thế giới của sự im lặng (cõi chết) để “bơi
sang ngang/trên chiếc ghi ta màu bạc”. Đấy có thể coi như một sự giải thốt.


- Sự giã từ cuộc đời cũng là cách giải thoát. Song tiếng đàn của Lor-ca, nghệ thuật
của Lor-ca, tình yêu con người và khát vọng tự do ông hằng ôm ấp là cái đẹp mà sự


tàn ác không thể huỷ diệt được


- Câu thơ “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn: Đây là thể hiện nhân cách nghệ sĩ
của Lor-ca. Nó thể hiện tình u say đắm với nghệ thuật của Lor-ca. Đó là tình u
tha thiết với đất nước TBN (Tây ban cầm). Nhưng Lor-ca đâu phải là người nghệ sĩ
sinh ra để nói những điều đơn giản. ơng muốn bộc lộ điều sâu sắc đến một ngày nào
đó thi ca của mình sẽ án ngữ, ngăn cản những người đến sau trong sáng tạo nghệ
thuật. Ông đã dặn cần phải biết chơn nghệ thuật của ơng để đi tới.


<b>Tìm hiểu bài thơ "Sóng" (Xn Quỳnh) </b>


<b>SĨNG (Xn Quỳnh)</b>


<b>MỤC TIÊU BÀI HỌC:</b>


- Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn và niềm khao khát mãnh liệt về hạnh phúc của
người phụ nữ trong tình yêu.


- Nắm được nghệ thuật kết cấu, xây dựng hình ảnh, ngơn từ và nhịp điệu của bài thơ
<b>I. Tìm hiểu chung</b>


<b>1. Tiểu dẫn</b>


- Xuân Quỳnh sinh năm 1942 và mất năm 1988, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân
Quỳnh. Quê làng La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Xuất thân trong một gia đình
cơng chức. Mẹ mất sớm, Xn Quỳnh ở với bà nội.


- 13 tuổi, Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa đồn văn cơng Trung ương, Biên tập
báo Văn nghệ, biên tập viên NXB Tác phẩm mới, Uỷ viên BCH Hội nhà văn Việt Nam
khoá III. Xuân Quỳnh mất đột ngột cùng chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang


Vũ vì tai nạn giao thơng tại Hải Dương (chiều 29/4/1988).


- Tác phẩm gồm có:


+ Tơ tằm, chồi biếc (in chung với Cẩn Lai) (1963)
+ Hoa dọc chiến hào (1968)


+ Gió Lào cát trắng (1974)
+ Lời ru trên mặt đất (1978)
+ Tự hát (1984)


+ Sân ga chiều em đi (1984)


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Truyện: Bến tàu trong thành phố, Bầu trời trong quả trứng, Vẫn cịn ơng trăng khác.
- Truyện viết cho thiếu nhi mang đến cho các em những tình cảm trong trẻo, trìu
mến, nhân hậu và cái nhìn hỏm hỉnh thơng minh.


- Xn Quỳnh được xem là một trong những người viết thơ tình hay nhất trong nền
thơ Việt Nam từ sau 1945. Đó là tình u vừa nồng nàn, sơi, say đắm, vừa tha thiết
dịu dàng, vừa giàu trực cảm, vừa lắng sâu trải nghiệm suy tư. Cái tôi của thi sĩ là cái
tôi thành thật:


Không sĩ diện đâu nếu tôi yêu được một người
Tôi sẽ yêu anh hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu vạn lần cay đắng…


- Xuân Quỳnh thể hiện trong thơ khát vọng sống, khát vọng yêu và đi liền với nó là
những dự cảm về sự biến suy, phai bạc:


+ “Bây giờ yêu mai có thể xa rồi”


+ “Mùa thu hoa vẫn vàng như thế
Chỉ em là đã khác với em xưa”


- Thơ Xuân Quỳnh nổi bật ở vẻ đẹp nữ tính. Đó là thiên chức làm vợ, làm mẹ với tâm
hồn tinh tế, chăm lo, tạo dựng đời sống bình yên. Thơ Xuân Quỳnh cũng là thơ tự
bộc bạch giãi bày, mong được nương tựa, chở che, gắn bó.


<b>2. Bài thơ Sóng</b>


<b>a. Hồn cảnh và mục đích sáng tác</b>


- Bài thơ viết năm 1967. Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25. Người phụ nữ ở độ
tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình u. Mặt khác cũng thấy được ý thức của cái tôi
bên cạnh cái ta chung.


- Tác giả cũng khơng đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện
khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá. Cảm xúc thơ do vậy
vừa sôi nổi mãnh liệt, vừa gợi tới chiều sâu của sự triết lí.


<b>b. Chủ đề</b>


Sóng và em là hai hình tượng sóng đơi, để từ đó những khám phá về sóng, em thấy
mình. Tình u trong em là sự vươn lên cái cao cả, lớn lao, là nỗi nhớ thương, thuỷ
chung son sắt. Đồng thời là khát vọng mãnh liệt của tình yêu, nỗi lo âu giữa cái hữu
hạn của đời người với cái vô cùng, vô hạn của thời gian.


<b>II. Đọc hiểu văn bản</b>
<b>1. Cấu trúc bài thơ</b>


- Bài thơ có cấu trúc song hành giữa sóng và em. Sóng cũng là em mà em cũng là


sóng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

tình u đơi lứa


+ Cả bài thơ đoạn nào cũng nói về sóng, miêu tả nhiều về sóng.
* Giàu biến thái (dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ…). Đó là


* Sóng có tính cách phức tạp nhưng mang vẻ thống nhất của tự nhiên.


Đó là sinh ra từ biển. Sóng là nỗi khát khao của biển, là sự hoà hợp giữa biển và bờ.
“Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vời cách trở”.


+ Âm điệu bài thơ cũng là âm điệu của sóng
* Thể thơ năm chữ tạo ra giai điệu sóng vỗ


* hồ trộn âm thanh của sóng vỗ với tâm trạng người con gái đang yêu. Đó là khao
khát, nhớ thương, hờn giận. Sóng cũng là em vì lẽ đó.


<b>2. Nhận thức về bản thân qua mỗi khám phá về sóng</b>
<b>- hai khổ đầu: </b>


Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
...


Bồi hồi trong ngực trẻ


Hai câu đầu: “Dữ dội... lặng lẽ” tác giả tạo ra tiểu đổi để diễn tả biến thái phức tạp
của sóng cũng là tâm trạng của em. Khi tình yêu đến với người con gái, họ có thể sơi
nổi, cười, nói, hát suốt ngày. Nhưng cũng có lúc lặng lẽ trong suy tư. Điều đáng nhớ


là khát vọng tình yêu, nhất là tình u đơi lứa bao giờ cũng thường trực trong trái
tim tuổi trẻ:


Ơi con sóng ngày xưa
...


Bồi hồi trong ngực trẻ


Điều đáng nói nhất ở hai khổ thơ này là sự chủ động của người con gái khi u:
Sóng khơng hiểu nổi mình


Sóng tìm ra tận bể


Chủ động không phải là ngỏ lời mà vươn tới cái cao cả, cái lớn lao.
<b>- Khổ 3 và 4</b>


Trước muôn trùng sóng bể
...


Khi nào ta yêu nhau


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Anh u em vì sao khơng biểt rõ
Chỉ biết u em, anh thấy yêu đời
Như chim bay tỏa hút khí trời


Như ruộng lúa uống dịng nước ngọt
Và cũng có người:


Anh u em như yêu đất nước
Vất vả gian lao tươi thắm vơ ngần



Họ u nhau. Nhưng hỏi tình u bắt đầu từ đâu và tình u là gì thì có bao nhiêu
cách trả lời.


Nhân vật em trong bài thơ của Xuân Quỳnh cũng cảm nhận thấy điều ấy. Nguồn gốc
tình u rất lạ lùng. Nó lạ lùng bí ẩn nhưng cũng rất tự nhiên. Khơng ai có thể tìm
thấy câu trả lời tình yêu bắt đầu từ đâu? Tình u hấp dẫn là ở chỗ đó. Thơ Xn
Quỳnh sâu sắc và tế nhị vì khát vọng về tình yêu thực sự là nhu cầu tự nhận thức và
khám phá.


<b>- Ba khổ thơ (5, 6, 7)</b>
Con sóng dưới lịng sâu
....


Dù mn vời cách trở


- Khổ năm đọng lại một chữ “nhớ”
Nhớ:


+ Gắn với không gian dưới lịng sâu, trên mặt nước
+ Gắn với bờ


+ Khơng ngủ được
+ Đến anh


Một tiếng “nhớ” mà nói được nhiều điều. Em đã hố thân vào sóng. Sóng đã hồ
nhập vào tâm hồn em để trở nên có linh hồn thao thức. Hai câu thơ đọng lại điều sâu
sắc nhất: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”.Nhớ cả lúc tỉnh, cả trong vơ
thức.



Khổ 6, 7 mượn hình ảnh sóng vỗ vào bờ “Con nào chẳng tới bờ” để khẳng định tấm
lòng son sắt thuỷ chung. Dù đi đâu vào Nam ra Bắc, em đều nghĩ tới anh, hướng về
anh.


<b>- Hai khổ 8, 9:</b>
Cuộc đời tuy dài thế
...


Để ngàn năm còn vỗ


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

- Biển vẫn rộng, gió thổi, mây vẫn bay. Những hình ảnh này là biểu hiện sự nhạy
cảm với cái vô hạn của vũ trụ. So với cái vô cùng, vô tận ấy, cuộc sống con người
thật ngắn ngủi. Một tiếng thở dài nuối tiếc. Nhịp thơ lúc này như lắng xuống, hình
ảnh thơ mở ra qua các từ (đi qua, biển dẫu rộng, bay về xa). Nhận thức, khám phá,
thơ Xuân Quỳnh mang đến những dự cảm. Đó là nỗi lo âu, sự trăn trở bởi hạnh phúc
hữu hạn của đời người giữa cái vô cùng, vô tận của thời gian.


- Suy nghĩ như thể, thơ Xuân Quỳnh không dẫn người ta đến bế tắc, buồn chán mà
thành khát vọng:


“Làm sao được tan ra
...còn vỗ”


Khao khát tình u của mình hồ trong tình u của mọi người. “Tan ra” khơng phải
mất đi mà hồ giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như thế khơng bao giờ cơ đơn.


<b>Đọc hiểu đoạn trích Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm) </b>


<b>1.Về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và xuất xứ đoạn trích « Đất Nước ».</b>



-Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943. Nhà thơ xứ Huế. Tốt nghiệp Đại học Văn Sư phạm Hà
Nội. Thời chống Mĩ sống và chiến đấu tại chiến trường Trị-Thiên. Nay là Bộ trưởng Bộ
Văn hố – Thơng tin.


- Tác phẩm thơ: “Đất ngoại ơ”, “Mặt đường khát vọng”,…


- Thơ của Nguyễn Khoa Điềm đậm đà, bình dị, hồn nhiên, giàu chất suy tư, cảm xúc
dồn nén, thể hiện tâm tư của người thanh niên trí thức tham gia tích cực vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.


- Xuất xứ : Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm viết tại chiến
khu Trị-Thiên hoàn thành vào cuối năm 1971. Được xuất bản vào năm 1974.


- Đoạn trích “Đất nước” gồm 110 câu thơ tự do, là chương 5 của trường ca “Mặt
đường khát vọng” (Sách Văn 12 trích 89 câu thơ phần đầu chương 5 ).


<b>2.Chủ đề đoạn trích « Đất Nước »</b>


Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm nói về cội nguồn đất nước theo chiều dài lịch sử đằng
đẵng và không gian địa lý mênh mơng. Hình tượng Núi Sơng gắn liền với tâm hồn và
chí khí của Nhân dân, những con người làm ra Đất nước. Đất nước trường tồn hứa
hẹn một ngày mai đẹp tươi và hát ca.


<b>3.Nội dung cơ bản </b>


<b>3.1. Cảm nhận chung về đất nước.</b>


- Cảm nhận về đất nước bằng những gì gần gũi thân thiết, bình dị trong cuộc sống
của con người.



+ : “Đất nước có...” qua sự tích:


Trầu cau: nói lên tình nghĩa vợ chồng gắn bó, thủy chung, ý thức dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

+ Đất nước được hình thành từ những thuần phong mĩ tục: tóc mẹ thì bới sau đầu,
đó là nét đẹp văn hố cội nguồn của dân tộc dù trải qua 1000 năm Bắc thuộc.


+ Đất nước được hình thành từ những lối sống giàu tình nặng nghĩa: Cha mẹ thương
nhau...từ câu ca dao: Tay bưng chén muối đĩa gừng.


+ Đất nước được hình thành từ những vẻ đẹp văn hoá vật chất của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước: cái cột, cái kèo... và cuộc sống lao động nông nghiệp vất vả:
Hạt gạo một nắng hai sương xay ,giã ,dần ,sàng.


Đất nước có từ ngày đó


- Đất nước được cảm nhận từ phương diện địa lí, lịch sử.


+ Đất nước là khơng gian rừng biển, sông núi, giang sơn, yêu qúy qua các làn điệu
dân ca trữ tình:


Đất là nơi chim về...
Nước là nơi rồng ở


+ ĐN là không gian gần gũi gắn bó với mỗi chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường


Nước là nơi em tắm


Và cũng là nơi gắn bó với những kỉ niệm thơ mộng tuyệt đẹp “ĐN là nơi ta hò


hẹn....thầm”


+ ĐN gắn với truyền thuyết con rồng cháu tiên:
“Đất là nơi Chim về


Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ


Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”


+ ĐN là nơi k/gian sinh tồn của cả dân tộc qua bao thế hệ, từ quá khứ đến hiện tại,
tương lai. không quên cội nguồn


“Những ai đã khuất...con cháu”


- ĐN hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người.


+ Mỗi chúng ta đều có một phần ĐN từ thể xác đến tâm hồn. Ý thơ gợi chúng ta về
trách nhiệm về ĐN về sự đoàn kết giữa các dân tộc tạo nên sự vẹn toàn cho đất
nước. Cho nên, cần đem xương máu của mình để xây dựng đất nước:


“Em ơi Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ.


Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời”


=>ĐN được tác giả cảm nhận từ chiều dài của thời gian và lịch sử, từ chiều rộng
khơng gian và địa lí, bề dày văn hố và phong tục lối sống.



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<b>3.2.Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.</b>
-Tất cả mọi hình ảnh tồn tại trên đất nước đều gắn liền với nhân dân.
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái


Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm


Người học trị nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh


Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”


Những cảnh quan: hòn Vọng Phu, Trống Mái chỉ trở thành thắng cảnh khi gắn liền với
con người vì khơng có sự chờ đợi của người vợ thì khơng có núi Vọng Phu, khơng có
truyền thuyết Hùng Vương thì khơng có sự cảm nhận hùng vĩ quanh đền hùng:
“ Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi


Chẳng mang một dáng hình ,một ao ước,một lối sống ơng cha
Ơi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy


Những tâm hồn đã hố núi sơng ta”
- Nhân dân gìn giữ và bảo vệ đất nước:


+Nhà thơ không điểm lại những triều đại anh hùng mà nhấn mạnh đến những con
người vô danh, bình dị nhưng chính họ là người đã “giữ và truyền” hạt lúa, đã


“truyền lửa”, “truyền giọng điệu”, “gánh tên làng tên xã”…, “đắp đập be bờ cho người
sau trồng cây hái trái”. Chính Nhân dân đã làm nên Đất nước, để Đất nước là của


Nhân dân


+ Họ là những con người anh hùng :
.“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng


Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng”


. “Trong bốn nghìn năm lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết


Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”.
- Đất nước này là của nhân dân.


+ Vần thơ hàm chứa ý tưởng đẹp, một lối diễn đạt ý vị ngọt ngào:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm


Có nội thù thì vùng lên đánh bại


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”


+ Đất nước mang sức sống mãnh liệt, tiềm tàng vì Nhân dân đã biết yêu và biết
ghét, bền chí và dẻo dai, biết “q cơng cầm vàng”, “biết trồng tre đợi ngày thành
gậy”, biết trả thù cho nước, rửa hận cho giống nịi mà “khơng sợ dài lâu”.



+Hình ảnh người chèo đị, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng
nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất
nước đi tới một ngày mai vơ cùng tươi sáng:


“Ơi những dịng sơng bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”


(Sưu tầm)


<b>Những vấn đề cơ bản trong bài thơ "Việt Bắc" ( Tố Hữu)</b>



<b>1.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ :</b>


-Việt Bắc là quê hương CM, trước CM T8 có khởi nghĩa Bắc Sơn (1941), nơi thành
lập MTVM; trong kháng chiến chống Pháp là nơi ở và làm việc của TW Đảng và chính
phủ


-Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10/ 1954. Đây là thời điểm các cơ quan
TW của Đảng và chính phủ rời chiến khu VB về Hà nội, sau khi cuộc kháng chiến
chống pháp đã kết thúc vẻ vang với chiến thắng ĐBP và hoà bình được lập lại ở miền
Bắc.


Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ để ôn lại một thời kháng chiến gian
khổ mà hào hùng thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những người con kháng chiến đối
với nhân dân Việt Bắc, với quê hương CM.


<b>2.Chủ đề của đoạn trích “Việt Bắc”</b>



Đoạn trích ca ngợi con người và cuộc sống ở chiến khu VB trong thời kì kháng chiến
chống Pháp gian khổ, hào hùng, đồng thời thể hiện tình nghĩa thủy chung giữa người
Cách mạng và nhân dân Việt Bắc.


<b>3. Nghệ thuật đậm đà tính dân tộc trong đoạn trích “Việt Bắc”</b>
- Thể lục bát tài tình, thuần thục.


- Sử dụng một số cách nói dân gian: thi liệu, xưng hô, đối đáp,...
- Giọng điệu quen thuộc, gần gũi, ấm áp.


- Sở trường sử dụng từ láy.
- Cổ điển+hiện đại


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

cịn hơ ứng.


- Cặp đại từ nhân xưng mình ta.
<b>4. Nội dung đoạn trích:</b>


<b>4.1 - Sắc thái tâm trạng ,lối đối đáp của nhân vật trữ tình trong đoạn trích:</b>
-Hồn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng
khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay....Đó là cuộc chia tay của những người
từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia
mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa
tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được
Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình u lứa đơi.


-Diễn biến tâm trạng như trong tình u lứa đơi được tổ chức theo lối đối đáp quen
thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng,
đồng vọng.



+ Bốn câu đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của ngưịi ở lại,đồng thời cũng khảng
định tấm lịng thuỷ chung của mình:


Đại từ Mình-Ta:Mối quan hệ gần gũi thân thiết -> gợi bao lưu luyến, bâng khuâng,
bồn chồn, bịn rịn.


Điệp từ “nhớ.”(láy lại)


Lời nhắn nhủ của VB “Mình có nhớ ta, mình có nhớ khơng” vang lên ray rứt,gợi nỗi
nhớ triền miên


15 năm gợi thời gian.


Cây, núi, sông, gợi không gian thời gian hoạt động kháng chiến tại không gian Việt
Bắc + 4 câu sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi.


Nghe câu hỏi nên người về bâng khuâng , bồn chồn => Tình cảm thắm thiết của
người cán bộ với cảnh và ngưòi Việt Bắc


Đại từ phiếm chỉ “ai”nhưng lại rất cụ thể gợi sự gần gũi thân thương
Áo chàm: H/ảnh bình dị, chân tình, chỉ người Việt Bắc.


“Cầm tay ....”.-> Câu thơ bỏ lửng ngập ngừng nhưng đã diễn đạt chính xác thái độ
xúc động nghẹn ngào khơng thể nói nên lời của người cán bộ từ dã Việt Bắc về xuôi..
.->Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến
gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngồi là
đối đáp, cịn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà
thơ, của những người tham gia kháng chiến.



</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vi, gợi rõ những nét riêng biệt,
độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. .


+ Hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, ấm áp tình người: Trăng lên đầu núi, nắng chiều
lưng nương., bản khói... sớm khuya...


+ Bức tranh tứ bình, mỗi mùa một hình ảnh đẹp làm say lịng người.
Mùa đơng: rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi


Mùa xuân: hoa mơ nở trắng rừng
Mùa hè: ve kêu, rừng phách đổ vàng


Mùa thu: ánh trăng soi sáng khắp núi rừng...


= > Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong
phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa,đầy màu sắc lãng mạn, ấm áp
lòng người.


Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết
của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về
cảnh Việt Bắc như vậy.


-Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa
cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù
trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình :


+ Người VB cần lao gian khổ và đầy tình thương yêu chia ngọt sẻ bùi (câu 31->câu
36)


+Hình ảnh sinh hoạt của cán bộ CM trong chiến khu hoà lẫn với sinh hoạt của nhân


dân VB: Tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, lớp học i tờ, giờ liên hoan


= >Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng
chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,...
tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ.


<b>4.2-Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu và vai trò của Việt </b>
<b>bắc trong cách mạng và kháng chiến .</b>


+ Khí thế hào hùng lên đường hành quân của quân và dân ta với những hình ảnh
tuyệt đẹp mang dáng dấp sử thi (câu 53-> câu 70)


Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi
dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc.


+ Chiến công Việt Bắc là bản tổng kết những nét lớn của sự phát triển ngày càng cao
những chiến dịch, những thắng lợi trong niềm vui phơi phới.


-Vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh Việt bắc đã làm nên những kì tích, những
chiến cơng gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lơ, phố Ràng, Hồ
Bình, Tây Bắc, Điện Biên,...


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự
hồ quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạo thành hình ảnh đất
nước đứng lên


Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………


Đất trời ta cả chiến khu một lòng.



- Đặc biệt, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng,
là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm,
suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước:


+Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ
mờ xa (mưa nguồn suốt lũ, những mây cùng mù) đến xác định như một chiến khu
kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ
mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc (dẫn đoạn thơ từ câu Mình về,-cịn nhờ núi non đến
câu Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa).


+ Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc cơng.


( Sưu tầm)


<b>Những nét độc đáo trong "Thuốc" của Lỗ Tấn </b>


<b>Những nét độc đáo trong "Thuốc" của Lỗ Tấn</b>



Trong di sản văn học của Lỗ Tấn, Thuốc là truyện ngắn đặc biệt và ln giữ một vị trí
quan trọng, độc đáo trong cách thức kết cấu, tổ chức không gian, bố trí nhân vật và
tái hiện nhân vật.


Với kết cấu bốn phần, mạch lạc tạo ra cảm giác kết cấu khai - thừa - luận - kết hay
khai - thừa - chuyển - hợp tương tự như kết cấu của một bài thơ cổ điển, được đánh
số thứ tự từ I đến IV, câu chuyện mang tiêu đề vừa thực vừa biểu trưng – Thuốc -
được chia thành hai không gian rất đặc trưng gắn với nhan đề tác phẩm: không gian
quán trà nhà lão Hoa với ba phần và không gian nghĩa địa với phần cịn lại mà độ dài
khơng kém ba phần kia là bao.



</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

phương thuốc diệu kì chữa bệnh cho con lão, phương thuốc được truyền khẩu trong
dân gian song không phải ai cũng biết, kể cả lão Hoa.


Sự dịch chuyển thời gian được đánh dấu bằng: “Trời cũng sáng dần và đường cũng
càng lâu càng rõ” và lão cũng đến được nơi lão cần đến: một ngã ba đường nơi có
“một cửa hiệu cịn đóng kín mít”. Tại đó, như một người lạc đường vào một xứ sở
mới, lão “ngước đầu nhìn xung quanh” và “thấy bao nhiêu người kì dị hết sức, cứ hai
ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma. Nhưng nhìn kĩ thì lại chẳng lấy gì làm
quái lạ nữa”. Đúng là lão đang rơi vào trạng thái trơng gà hóa cuốc, thần hồn nát
thần tính mà tất cả cũng chỉ vì phương thuốc mà nhà lão đang rất cần để chữa bệnh
cho con. Thứ ánh sáng ở đây tạo cho lão cái nhìn ảo giác, vừa thực vừa hư mà cho
dù không viết một lời bình nào nhưng tác giả cũng hé lộ cho ta thấy trạng thái tâm lí
lưỡng phân của lão Hoa. Nếu có ai đó nhìn lão thì cũng nhìn bằng “ánh mắt cú vọ
ngời lên, như người đói lâu ngày thấy cơm” hoặc nhìn lão với đơi mắt “sắc như hai
lưỡi dao chọc thẳng vào lão”. Những cặp mắt ấy cùng với những cái nhìn kia gia tăng
sức nặng cho phương thuốc “đặc biệt lắm”, đó là “một chiếc bánh bao nhuốm máu”
mà lão nhìn rõ là “đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt từng giọt”. Tác giả kể một cách
tuần tự, không vội vã, như thể đang theo nhịp của từng giọt máu đang nhỏ xuống.
Màu đỏ của máu tương phản với sắc phục màu đen của người bán bánh tạo ra ấn
tượng hãi hùng, vừa huyền bí vừa mang sắc thái mỉa mai và đây là hai màu sắc đặc
trưng mà lão Hoa nhận ra cũng như tác giả nhấn mạnh cho độc giả biết.


Việc mua bán đã xong và lão đã có trong tay “cái gói bánh”, lão nâng niu nó như
“nâng niu đứa con của gia đình mười đời độc đinh”. Có “gói bánh ấy” lão hoàn thành
trách nhiệm làm cha, và lại cũng báo hiếu được cho tổ tiên, cứu cho dòng dõi nhà
mình khơng dứt dịng tuyệt giống theo triết lí của đạo Khổng. Hình ảnh mặt trời lại
xuất hiện: “Mặt trời đã mọc, chiếu sáng con đường lớn đi về nhà lão, và cũng chiếu
sáng cái biển mục nát trên cái nhà bia ở ngã ba đường sau lưng lão, có đề bốn chữ
thếp vàng đã nhạt màu Cổ… Đình Khẩu”. Tác giả dường như cố tình bỏ mất một chữ,


song thực ra chỉ nhằm để chứng minh thêm rằng vầng dương đang chiếu sáng kia
cũng chỉ là vầng dương yếu ớt, không đủ để soi rọi cả bốn chữ mà chỉ đủ chiếu sáng
có ba.


Số lượng nhân vật trong truyện có thể nói là nhiều, song hiện hình rõ rệt chỉ có bốn.
Trước hết là vợ chồng lão Hoa chủ quán hiện ra chỉ với những động tác mà khơng có
nét ngoại hình nào. Hai vợ chồng rất kiệm lời, thể hiện sự nhất trí nhưng đầy băn
khoăn nghi ngại mà cả vợ lẫn chồng đều khơng dám nói ra. Vì thế khi cầm gói bạc để
đi mua thuốc, tay lão Hoa cứ “run run”, và cả khi đưa tiền để lấy chiếc bánh bao đẫm
máu người tay lão cũng “run run”, khi gặp người lạ thì lão “trố mắt lên”. Nhân vật
Thuyên được giới thiệu bằng “một cơn ho” và lời dặn dị của lão Hoa mà khơng hiện
ra cụ thể, song qua cách giới thiệu như vậy độc giả đã nắm bắt được lí do ra đi vào
buổi tờ mờ sáng, khi còn chưa rõ mặt người, của lão Hoa với gói bạc dành dụm được
từ lâu. Cơn ho còn là động lực thúc đẩy lão Hoa phải đi, vừa tạo ra sự thấp thỏm đợi
chờ của bà Hoa. Một nhân vật khác được miêu tả qua bộ “áo quần đen ngịm”, song
có khác hơn một chút là hắn có cặp “mắt sắc như hai lưỡi dao” với cử chỉ và cách nói
dứt khoát: “Này! Tiền trao cháo múc, đưa đây!”. Nhân vật này hiện ra với cách thức
của một kẻ đao phủ chuyên nghiệp, lọc lõi chuyên buôn máu người chết. Hắn cũng
chẳng nói nhiều và cũng biết chẳng cần nói nhiều nhưng đã nói thì lời của hắn phải là
mệnh lệnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

trắng ở vạt áo trước và vạt áo sau”. Đây là loại nhân vật được định danh bằng kí hiệu
qui ước, song cũng thuộc loại nhân vật đám đông. Tất cả họp thành một cái chợ đặc
biệt. Kẻ bán, bán loại thuốc “đặc biệt”, cịn người mua tuy ngại ngùng song khơng
thể khơng mua. Cái vô giá của mặt hàng ấy không phải ở chất liệu bánh mì làm nên
chiếc bánh bao mà ở chỗ nó được tẩm máu phạm nhân chết chém. Người phải chết
đã chết rồi nhưng phần cơ thể của họ, hiện hình qua những giọt máu đỏ tươi còn rỏ
dài theo bước chân của kẻ bán, tạo nên một nghịch cảnh trớ trêu, đầy nước mắt. Số
lượng người đến mua không đếm được song không phải là ít ỏi dưới mức bình



thường, càng cho thấy rõ hơn nỗi đau của đám dân chúng cuồng tín mê muội mà tác
giả ngầm gửi gắm trong câu chuyện.


Con đường mà lão Hoa đi bắt đầu từ nhà lão và kết thúc tại ngã ba đường, nơi có
“ngơi nhà cịn đóng cửa kín mít” mà lão đã đứng chờ để mua phương thuốc thần
diệu, nơi những người “tụm năm tụm ba lúc nãy” “dồn lại một chỗ”, “xô nhào tới như
nước thủy triều”, “quây lại thành một nửa vòng tròn”. Con đường đưa lão trở về hiển
nhiên cũng chính là con đường ấy, song điều khác biệt là đám người “tụm năm tụm
ba” kia, đám người “quây thành nửa vòng tròn” kia đã biến mất từ lúc nào và thay
vào đó chỉ là tấm bia có “cái biển mục nát”, bốn chữ chỉ còn ba. Sức gợi của mạch
văn ở đây là rất lớn mà nếu chỉ đọc bàng bạc lướt qua thì chắc hẳn sẽ bỏ rơi những
giá trị nhận thức cần thiết không chỉ để hiểu câu chuyện mà còn để hiểu thời đại mà
câu chuyện đề cập tới nữa. Đám người biến mất tăm mất dạng ở ngã ba đường, lão
Hoa cũng chỉ đến ngã ba đường rồi quay lại. Ngã ba đường nơi người ta bán bánh
bao tẩm máu người, nơi người ta tận dụng cái chết để tạo thành thuốc “đặc biệt”, nơi
ni dưỡng niềm tin mù qng và cuồng tín. Ngã ba đường là nơi người ta phải chọn
lựa, song sự chọn lựa của lão Hoa chỉ là quay về nhà với niềm tin vào chiếc bánh tẩm
máu người mang sức mạnh thần bí. Ngã ba đường này vừa thực lại vừa hư, một ngã
ba đường với cái nhà bia tưởng niệm với cái biển đề mục nát. Ngã ba đường kiểu này
thường gắn với hình tượng con đường vốn tiêu biểu cho tài năng và trí tuệ của Lỗ
Tấn.


Phần thừa đề diễn ra ngay trong ngôi nhà - quán trà ấy mà ta có thể tóm gọn nội
dung bằng cụm từ dùng thuốc. Ánh sáng cũng khơng sáng hơn cho dù có “ngọn lửa
đỏ sẫm bốc lên” từ trong gian bếp, tuy nhiên với ánh sáng ấy cũng đủ để nhận ra
“trên đĩa có vật gì trịn trịn, đen thui” qua màu đen của vỏ chiếc bánh bao bị “cháy
sém” và “làn hơi trắng” bốc ra từ chiếc bánh bị bẻ làm đôi, tiếp đó là ruột bánh bằng
“bột mì trắng”. Hành động diễn ra ở đây không nhiều nhưng đều được thể hiện một
cách rất cẩn trọng, đầy xác tín. Hình ảnh “thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm ở cái bàn
dãy phía trong, mồ hơi trán nhỏ từng giọt to tướng, chiếc áo kép dính vào sống lưng,


hai xương vai gồ lên thành chữ “bát” in nổi” trong mở đầu đoạn II với cách thức
“Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực” khi kết
thúc phần II, gợi ra cảm giác mong manh, vô nghĩa của phương thuốc “đặc biệt lắm”
mà lão Hoa mua về. Ngoài màu đen của vỏ chiếc bánh bị cháy sém và màu trắng của
làn hơi bốc lên từ chiếc bánh bị bẻ đơi mà làn hơi đó cũng mang lại cảm giác rợn
người là màu chủ đạo, ở đây còn xuất hiện mùi vị qua sự cảm nhận của nhân vật
Năm Gù: “Thơm ghê quá”, song đó là “mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà”, mùi
thơm tỏa ra từ chiếc bánh bao tẩm máu người được bọc lá sen để nướng. Cái “mùi
thơm quái lạ” này càng tăng thêm ấn tượng cho phương thuốc đặc biệt, vừa tạo ra
niềm tin cho vợ chồng lão Hoa vừa đe dọa cảm thức tâm linh của họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

dáng với “hai xương vai gồ lên thành chữ “bát” in nổi” cho thấy căn bệnh của nó đã
vơ phương cứu chữa và vì thế sự tuyệt vọng của gia đình càng tăng hơn.


Rồi các động tác ăn bánh của nó, ngoan ngỗn hiền lành, bảo ăn thì ăn, bảo uống thì
uống, bảo nằm thì nằm, khơng hề hé răng nửa lời bởi nó chẳng cịn đủ sức mà nói
mà phơ nữa, tới mức mới vừa nuốt khỏi cổ nó cũng qn tuốt ln “mùi vị” của cái
bánh mà nó vừa nhai nuốt, bởi lẽ nó cũng đã mất đi cảm giác ngon miệng, bởi bệnh
đã trầm trọng lắm rồi. Cách hành động của Thuyên được thể hiện rõ nhất lúc hắn
cầm chiếc bánh: “Thuyên cầm lấy vật đen thui, nhìn một lúc, có cảm giác rất lạ
khơng biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay”. Cái
“lạ” trở thành cảm giác chung được mọi nhân vật nhận biết nhưng cả cha mẹ lẫn đứa
con đều khơng nói cho nhau nửa lời về chuyện đó. Cái “lạ” dường như chứa đựng
một điều gì đó bí ẩn, khác thường, mà tuy nhận ra cái khác thường ấy, khác thường
bởi đó là chiếc bánh bao tẩm máu người, song cả lão Hoa lẫn bà Hoa đều có cảm
giác như là vật thiêng cứu mạng. Cách trả lời duy nhất của thằng Thuyên là “ho”, là
những “cơn ho”. Cho nên khi thấy đứa con ăn có vẻ ngon lành thì hai ơng bà cứ “trố
mắt lên” như thể đang đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác hoặc giả cũng có
thể q đỗi lo sợ vì đứa con đang ăn nhanh để mà chết chứ không phải để kéo dài
cuộc sống thì cả hai đều khơng thể nói ra lời nên đành phải “trố mắt” mà nhìn vậy.


Hình ảnh “lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên”, còn ở giữa là đứa con tạo
ra cảm giác như thể hai người đó đang đứng hai bên chiếc quan tài trong một đám
tang. Cảnh tượng đó thật hãi hùng song có tính biểu tượng rất lớn và kèm theo đó là
nỗi đau tuyệt vọng, vừa của người đang sống mòn mỏi vô vọng lẫn của cả người
đang chết dần một cách tuyệt vọng. Tác giả khi miêu tả hai ông bà này cũng chỉ đặc
tả trạng thái bất bình thường của họ qua đôi mắt mà cụm từ được sử dụng nhiều
nhất là “trố mắt lên”, còn khi phải hành động thì ln “run run”. Bà Hoa “run run” sợ
chồng không mua được thuốc, lão Hoa “run run” khi đón nhận chiếc bánh bao tẩm
máu người từ tên đao phủ. Hoàn cảnh mà cả hai bị đặt vào thật hết sức thương tâm.
Nhân vật thứ tư xuất hiện trong phần này là nhân vật có tên: “cậu Năm Gù”- cái tên
này trước hết là một số thứ tự tạo ra ấn tượng về kiểu nhân vật vơ danh, kiểu nhân
vật mang kí hiệu qui ước, kèm theo đặc điểm nhân dạng qua biểu hiện tật nguyền
của con người đó: nhân vật bị “gù”. Xét về bản chất, đây là loại nhân vật vô công rồi
nghề, thể hiện ở chỗ: “cậu ta ngày nào cũng lê la ở cái quán này, thường đến sớm
nhất mà cũng về muộn hơn ai hết”. Cái mà cậu ta cảm nhận được là mùi vị bốc ra từ
gian bếp. Cái mùi đối với vợ chồng lão Hoa là “quái lạ” thì lại được nhân vật cảm
nhận thành mùi cơm rang: “Thơm ghê nhỉ !”. Sự tật nguyền của cơ thể chưa đủ, tác
giả cho nhân vật này tật nguyền luôn cả khứu giác. Con người này, bao giờ cũng đến
sớm nhất và ra về muộn nhất, tại nơi mà một con bệnh đang hấp hối khiến cho
không gian ngôi nhà - quán trà trở thành khơng gian đầy tử khí, nơi đó sự sống đang
dần bị mất đi, cái chết đang lấn tới, bởi cái chết không chỉ hiện diện trong ngôi nhà -
qn trà đó mà cịn cả cái chết được mua, mang từ ngồi về. Nhưng những con
người đó khơng chỉ chết dần về mặt thể xác mà điều quan trọng hơn là họ đang chết
cả về tâm hồn lẫn trí tuệ.


Khơng gian ngơi nhà - qn trà ấy tiếp tục được mở ra trong phần III - phần luận đề
hay chuyển đề của câu chuyện, với số lượng người có vẻ tấp nập hơn, ồn ào hơn
nhưng cũng buồn bã hơn. Nội dung câu chuyện được bàn ở đây là công dụng của thứ
thuốc “đặc biệt” và nguồn gốc của thứ thuốc ấy. Ánh sáng cũng không sáng hơn, chỉ
đủ để phân biệt màu huyền trên chiếc áo và chiếc thắt lưng của nhân vật Cả Khang.


Ngoài cậu Năm Gù vốn đã ngồi sẵn từ lâu ở đấy, xuất hiện thêm một người có “râu
hoa râm”- nhân vật khơng có tên mà chỉ được định danh bằng đặc điểm cơ thể - sẽ
đóng vai người khơi mở ra câu chuyện được bàn ở đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

tôn ti thứ bậc của văn hóa Trung Hoa, được mọi người trong quán “cung kính”, được
miêu tả qua trang phục áo “khơng cài khuy”, “xộc xệch”, vào quán chẳng thèm chào
hỏi đã nói “oang oang” như thể trấn áp những người khác, với lối nói dồn dập chứa
nhiều câu hỏi, với giọng điệu kể cơng, ban ơn. Nhân vật này cịn được miêu tả bằng
một đặc điểm nhân dạng đặc biệt “người mặt thịt ngang phè”, khi nói thì “những thớ
thịt trên mặt nổi từng cục”và cách nói cũng khác thường, kẻ cả: “cứ giương cổ nói
oang oang”. Nhân vật này bốn lần “cam đoan thế nào cũng khỏi” và một lần khẳng
định như đinh đóng cột “nhất định sẽ khỏi thơi mà”. Bởi theo lão thì sự hiệu nghiệm
của phương thuốc nằm ở chỗ nó cịn “nóng hơi hổi”, “lấy về cịn nóng hơi hổi” và “ăn
cũng cịn nóng hơi hổi”, kèm theo đó là một sự so sánh thẳng thừng, không úp mở
“bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà ăn chẳng khỏi”. Bí mật của phương
thuốc “đặc biệt lắm” đã xuất đầu lộ diện. Thằng Thuyên, người trực tiếp sử dụng thứ
thuốc ấy, khơng nói khơng rằng, chỉ lấy tiếng ho để minh họa. Nó phải “ho lên” để
“phụ họa”, nó phải “hai tay ơm lấy ngực, ho lấy ho để”, nó phải “thừa dịp ho cố
mạng”. Cịn động tác của nó thì “bước chậm rãi”, người thì “mồ hơi ướt đầm, trên
đầu hơi bốc phừng phừng”. Đặt hai nhân vật này trong quan hệ đối sánh thì cơng
dụng của thứ thuốc “đặc biệt” nổi bật lên mà tác giả cũng chẳng cần thêm lời bình
luận. Đồng thời cũng khu biệt được kiểu người Cả Khang. Điều này càng được khắc
họa rõ hơn bằng chính lời của hắn, khi trả lời câu hỏi của người “râu hoa râm”.
Nhân vật người có “râu hoa râm”, là đại diện cho một tầng lớp xã hội đông đảo hiện
diện trong Thuốc và được đặt đối sánh với “anh chàng trạc hai mươi tuổi” để từ đó
làm nổi bật khả năng nhận thức cũng như để minh chứng cho sự u mê lầm lạc của
lớp người như thế. Cùng loại với nhân vật “râu hoa râm” này trước hết là ông bà
Hoa, là lão Nghĩa “đề lao” “mắt đỏ như mắt cá chép” và hiển nhiên là cả lão Cả
Khang. Nhân vật “râu hoa râm” tuy có nhận ra vẻ bất thường trên nét mặt lão Hoa,
nhưng cũng khơng phân định được là ơng ta có ốm thật hay khơng, lại cịn đưa ra


câu bình tán có vẻ thức thời nhưng lại không đúng đối tượng: “đánh cái đồ ấy,
thương hại cái gì?” cho dù có biết “người bị chém hôm nay là người họ Hạ”. Đây là
kiểu nhân vật u u mê mê, muốn hiểu không được hiểu, muốn biết không được biết,
kiểu người tự mình mị mẫm tìm đường đi. Bởi thế dù nhân vật có đi tới khẳng định:
“Lão Nghĩa mà đáng thương hại à?” thì vế tiếp theo của lời phát ngôn ấy: “Điên! Hắn
điên thật rồi!” lại càng nhấn mạnh thêm tính chất thức tỉnh qua việc “vỡ nhẽ” của
con người này.


Cho dù được gọi kèm theo đại từ “bác” qua cửa miệng của bà Hoa song Cả Khang là
kiểu người cơ hội, vụ lợi, chun rình mị kiếm chác từ cái chết của người khác, coi
thường mạng sống của người khác: “Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa,
thế thôi. Lần này tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra , cũng lão Nghĩa, cái lão
đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất”. Cái chết của Hạ Du dưới con mắt của
lão Cả Khang thì đấy là một dịp may hiếm có mà “may nhất có thể nói là ơng Hoa
nhà này, thứ đến cụ Ba. Cụ ta được thưởng hai mươi lạng bạc trắng xóa, một mình
bỏ túi tất, chẳng mất cho ai một đồng kẽm!”. Ba lần Cả Khang nhấn mạnh với ông
Hoa và với những người đang có mặt ở đấy: “may phúc cho nhà ơng”, “phúc nhà
ông”, “thằng Thuyên nhà ông may phúc thật” mà tất cả đều dồn tụ vào chỗ “đấy là
nhờ tôi biết tin sớm”. Quả là một tay săn lùng xác chết để kiếm lời điển hình của xã
hội u mê và phần thưởng mà hắn được hai ông bà chủ quán ngoài sự “cảm ơn hết
lời” của bà Hoa, thì bà cịn bỏ thêm vào chén trà của hắn “một quả trám” như là một
cách báo đáp ơn nghĩa theo cách của những người nghèo khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

quỉ sứ”, “thằng nhãi con”, là “giặc”, coi những người dưới tuổi hắn “chẳng ra cái thá
gì hết”. Một mình Cả Khang “nói oang oang” độc chiếm diễn đàn của cử tọa nơi quán
trà ấy. Hắn vừa là người phân giải, vừa là kẻ phán quyết phải trái theo cách của hắn
hiểu và suy nghĩ hành động theo đúng cách nghĩ, cách hiểu ấy, nghĩa là phải đem
những người có quan điểm: “thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”, những
người bênh vực cho lẽ phải, nộp cho chính quyền để lấy về, để được thưởng, chí ít là
“hai mươi lạng bạc trắng xóa”. Hắn thu lời bằng cách bán cả lương tâm và tình nghĩa


và chính là hậu duệ đích thực của cụ Ba mà hắn thường nhắc đi nhắc lại với một vẻ
vừa đề cao vừa ganh tị bởi hắn cũng chẳng hề thua kém. Hai lần hắn nói “thật đáng
thương hại” và hai lần “đáng thương hại” tương hợp với bốn lần “cam đoan thế nào
cũng khỏi” của hắn, cho thấy kiểu người lầm lạc đang càng ngày càng chìm sâu vào
trong mê muội cuồng tín, song càng ngày càng gây ra tác hại lớn cho xã hội bởi lẽ
hắn là “kẻ cả trong làng”. Câu nói “Lần này tớ chẳng nước mẹ gì” và “Nay thì được
bao nhiêu là bạc!”cho thấy bản chất đích thực của hắn.


Nhân vật cậu Năm Gù xuất hiện ra ở đây như là kiểu người vừa có vẻ a dua vừa có
nhận thức nhất định. Đây là kiểu người ngoại lệ vì tật nguyền, trở thành vô công rồi
nghề, bất lực trước mọi việc ở đời nhưng cũng đủ khả năng để nhận biết mọi thứ mà
trước hết là sự ốm yếu của ông Hoa là bởi đứa con bệnh tật, nhận biết “lão Nghĩa là
tay võ nghệ rất cừ”, và khi nghe xong câu chuyện Cả Khang kể thì gật gù: “Điên thật
rồi”. Cách xưng hơ của tác giả ở đây cũng thể hiện một sự trân trọng đối với con
người tật nguyền nhưng có óc suy nghĩ và hiểu biết này. Ông gọi nhân vật này bằng
“cậu”.


Nhân vật “trạc hai mươi tuổi” khơng có danh tính, cũng khơng có đặc điểm ngoại
hình nhưng lại là biểu tượng cho một cách nghĩ khác, cho một thế hệ khác. Anh ta
không đơn giản chỉ nghe câu chuyện về cái chết của Hạ Du một chiều. Anh ta chỉ tán
thưởng con người mà Cả Khang coi là “nhãi con”, là “giặc” ấy khi được biết người tử
tù ấy “nằm trong tù rồi mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc”. Anh ta cũng “vỡ nhẽ”
khi được biết kẻ “đáng thương hại” chính là lão Nghĩa và cũng đi tới khẳng định điều
đó là:“Điên thật”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

về tâm tư, về nhận thức. Câu chuyện được trao đổi ở phần III này do đó, đóng vai
trị phần luận đề, bàn bạc, mở rộng các ý nghĩa khác nhau, tạo ra sự chuyển hóa
trong tiếp nhận như trong kết cấu của một bài thơ cổ điển.


Vợ chồng lão Hoa, và thằng Thuyên, đứa con bệnh tật, niềm mong mỏi cuối cùng của


gia đình “mười đời độc đinh”, đóng vai trị làm nền cho câu chuyện diễn ra trong ngôi
nhà - quán trà của họ. Đây là các nhân vật tĩnh, nếu khơng nói là bất động trong bức
tranh ấy, cho dù họ có “đi đi lại lại”, “xách chiếc ấm đồng lớn” để “pha trà”. Âm
thanh phát ra từ họ là tiếng ho của thằng Thuyên. Ho, được hiểu, ngoài việc là biểu
hiện của trạng thái bệnh tật, cịn là một kiểu phát ngơn khơng thành lời, thành câu
thành chữ song có âm thanh mà ta có thể liên hệ với tiếng ho của bà Elmire trong vở
kịch Tartuffe của Molière, nhưng lại có sức mạnh đặc biệt, một mặt vừa mỉa mai
những lời “cam đoan nhất định khỏi” của lão Cả Khang, mặt khác vừa phủ nhận cơng
năng của loại thuốc “đặc biệt” đó. Tiếng ho của thằng Thuyên và giọng nói “oang
oang” của Cả Khang cứ đan xen lẫn nhau, tạo thành một hịa âm đau đớn, vang lên
từ khơng gian ngột ngạt đầy tử khí đó. Câu chuyện chỉ diễn ra trong chưa đầy một
ngày, bắt đầu từ thời điểm tờ mờ sáng và kết thúc sau đó vài giờ, song lại hàm chứa
những tầng ý nghĩa sâu xa, buộc người đọc phải nghiền ngẫm nghĩ suy về thuốc ở
đây là gì? Có phải chỉ là thuốc chữa bệnh thể xác đơn thuần hay là thuốc cần để
chữa trị căn bệnh tinh thần, chữa trị vấn đề nhận thức mà khơng chỉ có những người
có “râu hoa râm” cậu Năm Gù hay anh chàng “trạc hai mươi tuổi” kể cả Hạ Du nữa
cũng đang cần đến ?


Phần IV đóng vai trị phần kết hay phần hợp của câu chuyện và được thay bằng một
không gian khác: khơng gian nghĩa địa. Nhân vật chính của bức tranh này là hai bà
mẹ. Họ đều có điểm chung là có con bị chết trẻ, họ cùng đến nghĩa địa để viếng con.
Những người con của họ đều được chơn tại “miếng đất dọc chân thành phía Tây vốn
là đất công”. Điều khác biệt là những đứa con ấy được chơn ở hai phía của nghĩa địa
được ngăn cách bằng “con đường mòn, nhỏ hẹp, cong queo” do “những người hay đi
tắt giẫm mãi mà thành”. Con đường tạo ra bởi thói quen, bởi thành kiến ngự trị lâu
ngày, thói quen ăn sâu thành nếp nghĩ trong đầu óc mọi người, bởi thế con đường
này không chỉ để đi mà con đường này còn là con đường của thành kiến, được tạo ra
bằng sự u mê, dẫn tới sự đối xử khơng bình thường, thành sự ngăn cách tự nhiên,
bất khả kháng của những con người trong xã hội ấy. Đứa con của bà Hoa được chơn
ở “phía tay phải” nơi dành cho “những người nghèo”, còn đứa con của bà Hạ thì chơn


ở phía tay trái, nơi dành cho “những người chết chém hoặc chết tù”. Con đường trở
thành ranh giới ước định giữa “dân” và “giặc”. Điểm nổi bật lên từ nghĩa địa này là
“cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”
mà từ đó toát lên ý nghĩa biểu trưng là các nhà giàu, tức tầng lớp thống trị trong xã
hội Trung Hoa thời đó, tồn tại trên sự hi sinh xương máu của “dân” và của “giặc”,
“dân” bị bóc lột, bị bần cùng hóa mà chết dần chết mịn trong đói khổ, cịn nếu
chống đối thì bị qui là “giặc” và tất yếu là phải chết. Cả hai loại chết đều cùng vì khổ
đau, vì bị áp bức nhưng lại bị phân biệt đối xử rõ ràng qua hai nửa của nghĩa địa
được ngăn cách bằng con đường của thành kiến mê muội ấy. Điều đó thể hiện qua
hình ảnh “bà kia ngập ngừng khơng dám bước tới nữa, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên
vì xấu hổ”, bởi lẽ phần mộ của con bà nằm bên phía dành cho người “chết tù hoặc
chết chém” tuy “nấm mộ” của con bà “với nấm mộ của thằng Thuyên nằm cùng một
hàng, chỉ cách con đường mòn ở giữa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

bước, mắt trợn trừng ngơ ngác” mà nhìn thấy sự việc đó bà Hoa “cầm lịng khơng
đậu” đã “bước sang bên kia đường mịn”. Như vậy động lực thúc đẩy bà Hoa vượt
qua con đường ranh giới giữa những ngôi mộ của người chết nghèo với những ngơi
mộ của người chết chém chính là tình thương. Có thể bà Hoa khơng biết chiếc bánh
bao mà con bà đã ăn với hi vọng khỏi bệnh song điều đó khơng thành, đã được tẩm
bằng máu của chính Hạ Du, nhưng nếu bà có biết sự thật đó thì, trước hết, bà đau
nỗi đau đồng cảm, nỗi đau của những bà mẹ mất con, cho nên bà “sợ bà kia thương
con quá” mà “phát điên”. Và rồi cũng như bà Hạ, bà Hoa ngạc nhiên: “Cả hai bà, mắt
mờ từ lâu rồi, nhưng nhìn những cánh hoa trắng hoa hồng kia thì cịn thấy rõ”. Để so
sánh, “bà Hoa vội nhìn về phía mộ con mình và những nấm mộ khác xung quanh, chỉ
thấy vài nụ hoa khơng sợ lạnh, bé tí, trắng trắng, xanh xanh”. Sự so sánh đó đã
khiến bà ngạc nhiên và sự ngạc nhiên đó lại càng được tăng lên qua phát ngôn của
bà Hạ: “Hoa khơng có gốc, khơng phải dưới đất mọc lên! Ai đã đến đây? Trẻ con
không thể đến chơi. Bà con họ hàng nhất định là không ai đến rồi!... Thế này là thế
nào? Rõ ràng vòng hoa ấy khơng phải ngẫu nhiên mà là vịng hoa có chủ và được đặt
vào mộ Hạ Du một cách có chủ ý. Song ai là chủ nhân của vòng hoa ấy thì cả hai bà


đều khơng biết được và bà Hạ chỉ luôn nghĩ đến nỗi oan khuất của con mình. Nỗi oan
mà chính bà con họ hàng của bà đã gây ra và càng khơng ai dám đến đó nữa để khỏi
phải liên lụy. Bà cũng chưa nghĩ được xa hơn đến những đồng đội, đồng chí của Hạ
Du, tới những người cùng chí hướng với Hạ Du. “Hoa khơng nhiều lắm, xếp thành
vịng trịn trịn, khơng lấy gì làm đẹp, nhưng cũng chỉnh tề”, trở thành biểu tượng
của sự thống nhất ý chí, của sự đoàn kết, của một niềm tin mới được khơi dậy. Khác
với đám người “tụm năm tụm ba” tại ngã ba đường trên kia mà cũng chỉ xếp được
nửa vịng trịn thì ở đây vịng trịn đã rõ nét, đã liền khối, và cho dù chưa tròn lắm
song cũng đã định hình. Tất cả khơi gợi trong tâm trí bà Hạ một điều gì đó, một cảm
thức nào đó khó tả. Câu hỏi: “Thế là thế nào nhỉ?” cứ trăn đi trở lại trong lòng bà Hạ,
song nó đã có định hướng bằng một hình tượng đầy biểu trưng khác, đó là hình ảnh
con quạ. Có thể bà Hoa cũng không biết tên bà Hạ cũng như bà Hạ không biết tên bà
Hoa. Sự gặp gỡ của họ chỉ là ngẫu nhiên vì tiết thanh minh, theo truyền thống văn
hóa Trung Hoa, ai cũng đi tảo mộ, thăm mộ. Nhưng tác giả đã cố ý xếp đặt để cho
họ gặp nhau vào thời điểm hợp lí đó và vào tiết thanh minh mùa xn, cho dù lúc ấy
“trời vừa rạng” thì hơi ấm tình người của họ kết hợp với vịng hoa bất ngờ trên mộ
Hạ Du cũng sưởi ấm cho họ, khơi dậy cho họ một niềm tin vào một cái gì đó mới mẻ
mà họ cũng chưa biết được. Không gian ở đây cũng rộng lớn hơn và tuy vẫn phảng
phất màu sắc ảm đạm vì là nghĩa trang nhưng điều khác biệt là không gian này đã có
thêm chiều cao vươn tới, nó khơng cịn bị giới hạn và ngột ngạt như không gian ngôi
nhà - qn trọ. Tính chất ảm đạm, thê lương của khơng gian nghĩa trang cũng được
giảm bớt khi sự sống mới bắt đầu trở lại, khi con người đã nhận ra được con đường
tất yếu mà họ phải đi, khi tình người được nối lại, khi khối đồn kết dân tộc thống
nhất được tạo ra.


Con quạ là một hình ảnh đặc biệt và có ý nghĩa biểu trưng trong phần kết truyện. Khi
đang cố nhìn ngó xung quanh để xem ai đã đến đặt vòng hoa lên mộ con bà thì bà
Hạ chỉ nhìn thấy “một con quạ đen đậu trên cành khơ trụi lá”. Tiếng khóc của bà Hạ
cất lên sau đó là lời kết án, theo luật nhân quả báo ứng trong tâm thức của những
người dân bình thường: “chúng nó giết con thì rồi chúng nó sẽ bị báo ứng thơi”. Con


quạ trong văn hóa Trung Hoa có một ý nghĩa khác với quan niệm dân gian của Việt
Nam. Ở Việt Nam, con quạ là kẻ tham ăn, vì thế nó đã phải mang bộ lơng màu đen
suốt đời, là biểu tượng của điềm dữ, thường gắn liền với những bất hạnh của con
người. Con quạ vốn là loài chim phổ biến ở các nước xứ lạnh. Trong văn hóa Trung
Hoa cũng như trong văn hóa Nhật Bản, con quạ là biểu tượng của “đức hiếu


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

cũng cho thấy quan niệm văn hóa đặc biệt đó. Cho dù “con quạ vẫn đậu trên cành
khơ trụi lá, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt” thì trong cảm thức bà Hạ vẫn sống
dậy một niềm tin. Ngoài ra, người Hán xem quạ như một dấu hiệu thần kì để tái lập
trật tự xã hội, người Nhật xem quạ là biểu tượng của tình cảm gia đình. Đối với người
Trung Hoa, quạ là con chim của mặt trời, là hiện thân của mặt trời, là “kim ô” mà
câu chuyện Hậu Nghệ bắn mặt trời luôn được truyền tụng đã cho thấy điều đó. Số là
thượng đế phái mười con quạ mang ánh sáng từ cây dâu của mặt trời đi khắp bốn
phương tám hướng, nhưng chúng thường tụ tập với nhau một chỗ khiến cho mặt đất
nứt nẻ, bốc cháy. Hậu Nghệ đã bắn chết chín con, chỉ còn một con sợ quá trốn biệt
sau phải nhờ con gà cất tiếng gáy để gọi về.


Hình ảnh hai bà già cùng đi về, bên nhau, có thể sóng đôi hoặc kẻ sau người trước,
song đều cùng về, tạo ra sự tiếp nối mà ghép tên của hai bà, Hoa và Hạ, thì sẽ có
ngay tên gọi của Trung Hoa hùng mạnh, thống nhất và thái bình cổ xưa: đất nước
Hoa Hạ. Họ cùng bước trên một con đường chung, con đường đó khơng có ngã ba
nào. Kết hợp hình ảnh hai người cùng đi ấy với hình ảnh con quạ cất lên một tiếng
kêu “rất to”, rồi “xịe đơi cánh, nhún mình” và “vút bay thẳng về phía chân trời xa”,
“như một mũi tên” và gắn với kiểu thức tư duy của Trung Hoa coi quạ là mặt trời thì
con quạ bay lên đồng nghĩa với mặt trời đã mọc, là dấu hiệu của một trật tự xã hội
mới đã xuất hiện, thì ta sẽ thấy rõ hơn niềm tin của Lỗ Tấn vào tương lai, vào sự
thức tỉnh của những người dân vốn trước đây mê muội, đã từng sử dụng bánh bao
tẩm máu người để làm thuốc. Họ đã thức tỉnh, họ đã biết cùng sát cánh bên nhau.
Con đường ngăn cách hai loại người chết trong cùng một nghĩa địa khơng cịn là ranh
giới ngăn cách hai bà mẹ nữa. Ranh giới ấy đã bị xóa nhịa. Vịng hoa trên mộ Hạ Du


trở thành vòng hoa biểu trưng cho sự chiến thắng, của tình người vốn bị cuồng tín,
mê muội chia cắt nay đã lại nối liền thành một khối thống nhất. Một sức mạnh mới
đã hình thành. Phần IV mang lại cho độc giả những kết luận quan trọng mà tác giả
gửi gắm và gợi mở một tương lai, thắp sáng và thức tỉnh mọi người, bằng sự hợp
nhất những con người vốn bị chia rẽ.


Câu chuyện nhẹ nhàng, khơng có xung đột gay cấn, song với cách thức tổ chức theo
hệ thống khai - thừa - luận – kết, khai – thừa – chuyển - hợp, đã tạo thành một cốt
truyện hoàn chỉnh, chặt chẽ, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa đẹp về mặt kết cấu,
tổ chức nghệ thuật, vừa chuyển tải được một nội dung mang tính cách mạng cao.
Câu chuyện được tái hiện trong hai không gian khác nhau, mỗi khơng gian đều có
những nét riêng, độc đáo, đều nhằm nhấn mạnh một khía cạnh riêng của chủ đề.
Câu chuyện diễn ra trong hai khơng gian đều có khung thời gian được kể là một buổi
sáng, tạo ra một kiểu trùng lặp nhằm nhấn mạnh sự thay đổi về nhận thức của con
người. Điều khác biệt là buổi sáng của không gian thứ nhất thuộc về mùa thu, mùa
của sự tàn tạ, héo hon, của sự buồn bã chia li, cịn buổi sáng của khơng gian thứ hai
gắn với mùa xuân, mùa của sự sống trỗi dậy, mùa của sự sinh sôi nảy nở, cho dù
trong khơng gian thứ hai có hình ảnh cành cây khô trụi lá, nhưng “những cây dương
liễu” đã “đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Sự chuyển đổi các không
gian theo mùa, do đó, cũng tạo ra ý tưởng về sự phát triển đi lên, tạo ra niềm tin và
khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng, tạo ra ấn tượng về sự thay đổi cuộc đời mang tính
chất chu kì “bĩ cực thái lai” của truyền thống tâm thức Trung Hoa. Vì thế Thuốc vẫn
ln là một trong những sáng tạo nghệ thuật tài ba của nhà văn Lỗ Tấn. Thứ thuốc
mà quần chúng nghèo khổ Trung Hoa cần có đã được chỉ ra. Đấy cũng là thứ thuốc
mà độc giả thu nhận được qua thông điệp nghệ thuật của nhà văn


____________


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i><b>(Theo PGS.TS. Lê Nguyên Cẩn-Khoa Ngữ Văn - Đại học Sư phạm Hà Nội) </b></i>



<b>Đọc hiểu truyện Thuốc ( Lỗ Tấn ) </b>



<b>I/Tìm hiểu chung</b>
<b>1.Tóm tắt</b>


Một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi. Lão Hoa Thuyên ngồi dậy, đánh diêm thắp
đèn. Một cơn ho nổi lên. Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy ta một gói bạc đồng đưa
chồng. Lão tắt đèn con, cầm đèn lồng ra đi. Lại một cơn ho nữa. Trời lạnh, tối om,
hết sức vắng. Chỉ gặp vài con chó. Lão Hoa Thuyên cảm thấy sảng khối, như bỗng
dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thơng cải từ hồn sinh. Lão Hoa Thun đi
những bước thật dài. Trời sáng dần. Phía trước là ngã ba, Lão Hoa Thuyên tìm một
cửa hiện, đứng dưới mái hiên, tựa lưng vào cửa. Lão giật mình khi có người hỏi. Lão
đưa tay lên ngực sờ gói bạc. Bọn lính đi đi lại lại, xơ nhào tới như nước thủy triều.
Đám người lại xô đẩy nhau ào ào… Một người mặc áo đen, mắt sắc như hai lưỡi dao
chọc thủng vào lão làm lão co rúm lại,… Hắn đưa cho lão một chiếc bánh bao nhuốm
máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Hắn giật lấy gói bạc, nắn nắn rồi
quay đi… Lão Hoa Thuyên sẽ mang cái bánh ấy về nhà, đem sinh mệnh lại cho con
lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!


Lão Hoa Thuyên về đến nhà thấy quán hàng đã bày biện sạch sẽ. Thằng Thuyên
đang ngồi ăn cơm. Bà Hoa từ bếp chạy ra, mơi run run hỏi chồng: “Có được khơng?”
Vào bếp, hai vợ chồng bàn bạc một hồi, bà Hoa đi ra một lát, đem về một lá sen già,
bọc bánh lại nướng. Một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà. Cậu Năm Gù đi vào
quán rồi nói: “Thơm ghê nhỉ!... Rang cơm đấy à?”. Thằng Thuyên cầm lấy vật đem
thui, bẻ đôi ra ăn. Hai vợ chồng bà Hoa đứng bên con. Ăn hết chiếc bánh thằng
Thuyên lại ho, nằm xuống ngủ, bà Hoa lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con.
Quán trà đã đông khách. Cậu Năm Gù người râu hoa râm, bác cả Khang… Bác cất
tiếng nói oang oang: “Đã ăn chưa? Đỡ rồi chứ?... Cam đoan thế nào cũng khỏi. Ăn
cịn nóng hơi hổi thế kia mà! Bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì ăn mà chẳng
khỏi!”. Đám khách hỏi nhau về tên người bị chết chém, là người họ Hạ, con bà Tứ.


Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống. Bác cả Khang cao hứng nói, “tớ chẳng nước
mẹ gì”, cái áo nó cởi ra thì lão Nghĩa đề lao lấy mất. May nhất là ông Thuyên nhà
này, thứ đến là cụ Ba đem thằng cháu ra thứ, được thưởng 25 đồng bạc trắng, chẳng
mất cho ai một đồng kẽm! Cái thằng nhãi con ấy nằm trong tù rồi còn dám rủ lão đề
lao làm giặc. Hắn dám vuốt râu cọp nên bị lão ta đánh cho hai bạt tai. Cái thằng
khốn nạn! Thật đáng thương hại! Hắn điên thật rồi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum. Bước lại
gần mộ con, bà kia nói: “Hoa khơng có gốc, không phải dưới đất mọc lên! Ai đã đến
đây?... Thế này là thế nào?”


Bà ta khóc to: “Du ơi! Oan con lắm Du ơi!... Trời cịn có mắt, chúng nó giết con thì
rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi! Hồn con… ứng vào con quạ kia đến đậu vào
nấm mộ con cho mẹ xem, con ơi!”


Người đến thăm viếng mộ càng đông. Hai người đàn bà uể oải thu dọn bát đĩa ra về.
Một tiếng “Coa… ạ” rất to, hai bà giật mình quay lại, thì thấy con quạ xịe đơi cánh,
bay thẳng về phía chân trời.


<b>2.Xuất xứ</b>


Truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tân Thanh niên.
Nhân vật Hạ Du trong truyện, ám chỉ nữ thi sĩ Thu Cận (Du và Cận đều cùng nghĩa là
Ngọc). Chỗ Thu Cận bị hành hình gần nhà bia Cổ Hiên Đình Khấu, tại nội thành Thiệu
Hưng, quê hương Lỗ Tấn. Cuối phần I truyện “Thuốc”, tác giả nhắc tại tên cái nhà bia
ấy, nhưng đã cắt đi một chữ: “Cổ… Đình Khấu”.


Lịch sử hiện đại Trung Quốc được mở đầu bằng phong trào Ngũ Tứ, nổ ra vào ngày
4/5/1919 mang tính chất phản đế và phản phong triệt để. Truyện “Thuốc” ra đời vào
thang 5/1919, giữa cơn xốy lịch sử của phong trào Ngũ Tứ, nên nó mang một hàm


nghĩa sâu sắc.


<b>3.Chủ đề</b>


Truyện “Thuốc” thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người
cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỷ 20.


<b>II/Đọc hiểu văn bản </b>


<b>1.Văn hào Lỗ Tấn (1881 - 1936) được ngợi ca là vị chủ tướng trên mặt trận văn </b>
hóa - tư tưởng, đạt được thành tựu lớn nhất trong nền văn học hiện đại Trung Quốc.
Ông đã sống và viết với một tâm thế chiến đấu ngoan cường, bất khuất, coi khinh
mọi kẻ thù của nhân dân. Hai vần thơ nổi tiếng của ông được truyền tụng như một
châm ngơn sáng ngời:


“Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ,
Cúi đầu làm ngựa chú nhi đồng”.


Nhà văn Fađêép (Nga) từng ca ngợi: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn thế giới…
Ông đã cống hiến cho nhân loại những hình thức dân tộc khơng thể bắt chước
được…”.


“Thuốc” là một truyện ngắn đa nghĩa như nhiều truyện ngắn khác của Lỗ Tấn. Ông
sáng tác truyện “Thuốc” vào ngày 25/4/1919, đúng một năm sau “Nhật ký người
điên” ra đời. Nó được đăng trên báo “Tân Thanh niên” số thang 5/1919 giữa cơn bão
táp phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) do học sinh, sinh viên Bắc Kinh phát động, mở
đầu cuộc vận động “cứu vong” - cứu đất nước Trung Hoa khỏi diệt vong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

đó tác giả thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách
mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc những năm đầu của thế kỷ 20.



Lỗ Tấn chia truyện làm bốn phần: 1) Lão Hoa Thuyên đi mua thuốc - bánh bao tẩm
máu tử tù - đem về chữa bệnh lao cho con; 2) Vợ chồng lão Hoa nướng “thuốc” và
thằng Thuyên - con trai ăn “thuốc”; 3) Bọn khách trong quán trà và bác Cả Khang
(đao phủ) nói về “thuốc” và bàn về tử tù; 4) Bà Hoa và bà Tứ (mẹ tử tù) cùng đi
thăm mộ con và gặp nhau trong nghĩa địa nhân ngày thanh minh.


<b>2. Lão Hoa Thuyên đi mua “Thuốc” cho con vào một đêm mùa thu gần sáng, trăng </b>
lặn rồi. Mùa thu cũng là mùa ở Trung Quốc dưới thời Mãn Thanh, người ta đem chém
tử tù. Trời tối và lạnh, vắng vẻ. Tiếng ho của người bệnh lao (thằng con trai) nổi lên.
Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy một gói bạc đồng đưa cho chồng. Lão Hoa Thuyên cầm
đèn lồng đi ra, thằng con lại nổi một cơn ho. Lão Thuyên khẽ nói với con, biết bao
thương yêu: “Thuyên à! Con cứ nằm đấy!...”


Trời tối và vắng, lạnh, nhưng lão Hoa Thuyên “cảm thấy sảng khối, như bỗng dưng
mình trẻ lại, và ai cho thép thần thơng cải từ hồn sinh”. Đã mấy đời độc đinh, thằng
Thuyên bị ho lao, một mối lo buồn đè nặng đã bấy nay, vì thế đêm nay, lão cầm đèn
đi mua thuốc cho con, lão chứa chan hy vọng mới cảm thấy “sảng khoái” và như “trẻ
lại”.


Cảnh pháp trường qua cái “trố mắt nhìn” của lão Thuyên. Có biết bao nhiêu người
“kỳ dị hết sức”, cứ hai ba người “đi đi lại lại như những bóng ma!” Bọn lính với sắc
phục có “miếng vải trịn màu trắng” ở vạt áo trước, vạt áo sau, có “đường viền đỏ
thẫm” trên chiếc áo dấu. Cảnh pháp trường, lúc thì “tiếng chân bước ào ào”, bọn
người “xơ nhào tới như nước thủy triều”, lúc thì cả đám “xơ đẩy nhau ào ào”. Hình
như họ tranh nhau “lấy thuốc” để đem bán?


Người bán thuốc cho lão Thuyên mặc “áo quần đen ngòm” “mắt sắc như hai lưỡi dao”
chọc thẳng vào lão, làm lão “co rúm” lại. Thuốc là “một chiếc bánh bao nhuốm máu,
đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt”. Sau khi “tiền trao cháo múc”, người bán


thuộc giật lấy gói bạc, “nắn nắn” rồi quay đi, miệng càu nhàu. Lão Thuyên “run run
-ngại khơng cầm chiếc bánh”, nhưng sau đó, tất cả tinh thần lão để hết vào cái bánh
bao tẩm máu ấy, “lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và
lão sẽ sung sướng biết bao!”


Cảnh vợ chồng lão Hoa Thuyên gặp nhau “bàn bạc một hồi”, cảnh lấy lá sen già gói
bánh bao tẩm máu tử tù để nướng, cảnh ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên “một mùi thơm
quái lạ” tràn ngập cả quán trà rồi cậu Năm Gù đi vào quán trà hỏi: “Thơm ghê nhỉ?...
Rang cơm đấy à?”, cảnh thằng Thuyên ăn “thuốc” hai bố mẹ đứng hai bên, và bà
Hoa nói khẽ, an ủi con: “Ăn đi con, sẽ khỏi ngay” - tất cả đều phản ánh tình trạng
mê muội của quần chúng. Họ tin tưởng một cách chắc chắn và thiêng liêng rằng,
bánh bao tẩm máu tử tù ăn vào sẽ chữa khỏi bệnh lao. Với một cách viết dung dị,
trầm lắng, sâu xa, hàng loạt chi tiết đưa ra đều xoay quanh chuyện mua, bán thuốc,
chuyện ăn thuốc và niềm tin “thuốc thành” sẽ chữa khỏi bệnh lao, tác giả đã làm nổi
bật chủ đề thứ nhất của truyện là phê phán tư tưởng mê tín, tập quán chữa bênh
phản khoa học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

ngoài, xộc xệch…”. Sắc phục ấy là dấu hiệu của những đao phủ trên pháp trường. Đó
là bác Cả Khang, kẻ đã bán “thuốc” cho lão Hoa Thuyên. Bác Cả Khang sau khi tán
tụng thức thuốc đặc biệt “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà chẳng khỏi”
đã nói về tử tù là “con nhà bà Tứ chứ còn ai? Thằng quỷ sứ!” Tử tù đã mang lại cái
lợi, món hời cho bao người! May nhất là lão Thuyên đã mua được “thuốc”, ăn vào
“cam đoan thế nào cũng khỏi”, thứ đến là cụ Ba đưa cháu ra đầu thú, vừa “tránh cho
cả nhà mất đầu”, vừa “được thưởng 25 lạng bạc trắng xố, một mình bỏ túi tất
chẳng mất cho ai một đồng kẽm!” Lão Nghĩa đề lao “mắt đỏ như mắt cá chép” thì
được cái áo của tử tù cởi ra trước lúc lên đoạn đầu đài. Cịn và Cả Khang, ngồi mấy
đồng bạc bán thuốc cho lão Thuyên “chẳng nước mẹ gì!”


Người ta thường nói: “Máu người khơng phải nước lã!” Ở đây, máu của Hạ Du, một
người cách mạng tiên phong chỉ có giá trị đem lại một ít quyền lợi vật chất cho một


số người! Chua xót và cay đắng hơn nữa, dưới mắt họ thì Hạ Du chỉ là “thẳng quỷ
sứ!, “thằng nhãi ranh con”, “thằng nhãi con”, “thằng khốn nạn”! Với bác Cả Khang
thì Hạ Du là “đáng thương hại”, với lão râu hoa râm thì “hắn điên thật rồi!”, với cậu
Năm Gù thì Hạ Du đúng là một kẻ “điên thật rồi!”


Hạ Du là người cách mạng có lý tưởng chống phong kiến (triều đình Mãn Thanh), như
một tín đồ tử vì đạo, anh ta đã chiến đấu vì lý tưởng “Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính
là của chúng ta”. Đó là khẩu hiệu của những nhà cách mạng Trung Quốc năm 1907
hô hào quần chúng nổi dậy chống Mãn Thanh. Các nhà nghiên cứu văn học cho biết:
“Thuốc” nói chuyện trước cách mạng Tân Hợi (1911) Hạ Du nằm trong ngục, trước
lúc ra pháp trường còn dám cả gan “vuốt râu cọp” tuyên truyền cách mạng cho lão
Nghĩa “mắt cá chép” - dám rủ lão đề lao làm giắc nên đã bị lão ta “đánh cho hai bạt
tai”. Những người như Hạ Du, Thu Cận… là những nhà cách mạng tiên phong, dũng
cảm xả thân vì đại nghĩa, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Giữa
đơng đảo quần chúng u mê, họ chiến đấu một cách đơn độc. Chẳng ai hiểu họ, ủng
hộ họ. Ngay bà mẹ Hạ Du cũng chỉ biết kêu than: “Oan con lắm Du ơi!” và nguyền
rủa: “Trời cịn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thơi! Du ơi!...”.
Ơng chứ thì táng tận lương tâm tố cáo cháu là giặc để được thưởng 25 lạng bạc
trắng, lão Cả Khang thì lấy máu tử tù Hạ Du tẩm bánh bao để bán “Thuốc”, lão Hoa
Thuyên và bao người khác đã lấy máu Hạ Du để chữa bệnh… Quần chúng u mê tăm
tối, bị tê liệt… Người cách mạng thì xa rời quần chúng, chiến đấu một cách đơn độc.
“Thuốc” đã phê phán tình trạng ấy, thể hiện sâu sắc bi kịch của người cách mạng
tiên phong. Đó chính là chủ đề thứ hai của truyện ngắn này. Ngầm một ý nhà văn
muốn nêu ra: Trước thực trạng cay đắng ấy phải tìm một “vị thuốc” cơng hiệu nào để
chữa trị, và chỉ khi nào tìm ra được vị thuốc ấy mới thay đổi được “quốc dân tình”,
mới cứu được nước Trung Hoa. Phong trào Ngũ Tứ tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921. Và lịch sử đã xác nhận, chỉ có Đảng
Cộng sản Trung Quốc mới tìn ra được “vị thuốc” để phục hưng đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Một bà già nữa, tóc bạc, áo quần rách rưới cũng mang bát cơm, bốn đĩa thức ăn… cứ


đi ba bước lại dừng lại, ngập ngừng không dám bước, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên
vì xấu hổ… Đốt vàng lên… bỗng chân tay “run lên” lùi lại “loạng choạng” mắt “trợn
trừng trừng ngơ ngác”.


Bà Hoa bước sang bên kia con đường mòn - nơi mộ tử tù - khẽ nói với bà kia, an ủi:
“Bà ơi thơi mà, thương xót làm chi nữa! Ta về đi thơi!” Cử chỉ ấy, câu nói ấy trước
hết là sự đồng cảm xót thương, là sự san sẻ của hai bà mẹ già bất hạnh, một người
có đứa con ho lao ăn “thuốc” bánh bao tẩm máu tử tù mà chết, một bà mẹ có đứa
con “đi làm giặc” mà bị chém đầu! Tiết thanh minh này, hai bà mẹ già đã bước qua
con đường mòn ngăn cách giữa hai thế giới mộ - mộ người nghèo và mộ tử tù - họ
đến với nhau trong nỗi đau đớn tột cùng của lòng mẹ mất con. Phải chăng điều ấy
báo hiệu một đổi thay gì mới giữa mùa xuân này? Nỗi đau của bà Tứ (mẹ Hạ Du) đã
có người đồng cảm. Sự thức tỉnh đã hé lộ như những mầm non bằng nửa hạt gạo
trên cây dương liễu?


Vòng hoa - hoa trắng hoa hồng - xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum
khum, với bà mẹ Hạ Du là “Cái gì thế này?”, tại sao “Hoa khơng có gốc, khơng phải
dưới đất mọc lên? Ai đã đến đây?”… Vòng hoa đã làm cho nỗi đau của bà Tứ khơng
thể nào kể xiết, cất tiếng khóc thê thảm: “Du ơi! Oan con lắm Du ơi! Chắc con khơng
qn được và con đau lịng lắm, phải khơng con? Con hiển hiện lên cho mẹ biết con
ơi!”… Rõ ràng vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân lý lịch
sử và cách mạng: Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần chúng thuở ấy, vẫn có
người nhớ đến, tiếc thương ngưỡng mộ và quyết tâm noi gương người cách mạng
tiên phong đã ngã xuống vì đại nghĩa. Vịng hoa thể hiện cho xu thế cách mạng, cho
niềm lạc quan đối với tiền đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện “Thuốc” là một dự
cảm về con đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu một đám cháy ngày
mai!


Câu hỏi của bà Tứ: “Cái gì thế này?”, “thế này là thế nào?” đã tạo ra một ám ảnh
khôn nguôi, khiến người đọc “không trả lời không yên” (Nguyễn Tuân). Và tiếng quạ


kêu cất lên sau tiếng khóc, sau lời nguyền của bà Hoa, bà Tứ làm cho âm điệu chủ
đạo của thiên truyện “Thuốc” này thêm não nũng ai ốn! Phải tìm được “vị thuốc” để
giảm bớt nỗi đau cho quần chúng, cho đồng loại. Muốn “cứu vong” đất nước phải
đồng thời chữa bệnh cho “quốc dân tình” là như vậy!


<b>III/Tổng kết.</b>
<b>1.Nghệ thuật</b>


Truyện “Thuốc” chỉ có vài nhân vật. Câu chuyện thương tâm dồn tụ lại ở hai người
mẹ già, hai đứa con xấu số. Không gian hẹp: một quán trà, một pháp trường, một
bãi tha ma. Cảnh chém người một đêm thu tàn canh. Nghĩa địa “mộ dày khít, lớp
này, lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Tiếng mẹ khóc con thê thiết.
Tiếng quạ kêu não nùng. Không gian nghệ thuật ấy tiêu biểu cho một nước Trung
Hoa trì trệ, bế tắc đầu thế kỷ 20.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

“Dẫu vầng dương cịn ở phương xa,


Trong nước biển đã nghe vang chng sớm…”
(Kiếp tái sinh của nữ thần)


<b>2.Tư tưởng</b>


Trong bài “Vì sao tơi viết tiểu thuyết” Lỗ Tấn nói: “Mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn
những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích lơi hết bệnh tật của họ ra,
làm cho mọi người chú ý mà tìm cách chạy chữa…”. Có lẽ vì thế mà áng văn này đã
trở thành một “vị thuốc” rất cơng hiệu để chạy chữa tình trạng u mê tăm tối và tê
liệt tinh thần của quần chúng, phê phán sự xa rời quần chúng của những nhà cách
mạng. Cuộc đời tuy còn nhiều nước mắt, nhiều bi kịch “vầng dương còn ở phương
xa” nhưng “Thuốc” gợi lên nhiều hy vọng. Hình ảnh vịng hoa và hai bà mẹ cùng đi
thăm mộ con đã đến với nhau qua tiếng khóc và sự an ủi, điều đó khẳng định giá trị


nhân đạo của truyện ngắn này.


<i><b>(Sưu tầm)</b></i>
<b>Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Thi </b>


<b>NGUYỄN THI </b>
<b>(1928 - 1968) </b>


<i>--- </i>
<i>Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người lính, nếu gặp lúc gay go tơi có thể cho</i>
<i>cây bút vào túi áo, tay cầm lấy súng và bóp cị. Tơi cần cái khơng khí của chiến dịch,</i>
<i>những cái mà mắt tơi nhìn được, tai tơi nghe được.Trước sự kiện lịch sử trọng đại</i>
<i>như thế này, nhà văn khơng thể đứng ngồi mà ngó... </i>


<b>I- TIỂU SỬ VÀ CON NGƯỜI: </b>
<b>1. Tiểu sử</b>


Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, sinh ngày 15-5-1928 tại xã Quần Phương
Thượng, Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cha: hương sư Nguyễn Bội Quỳnh, sau bị thải hồi vì
những hoạt động yêu nước và Cách mạng. Mẹ: bà Thành Thị Du (vợ hai). Khi cảnh
gia đình sa sút, phải sống trong hoàn cảnh thật éo le, nơm nớp lo sợ những trận đòn
ghen từ người vợ cả. Tuổi thơ cậu bé Nguyễn Hồng Ca, từ đó, bắt đầu những ngày
tháng bất hạnh; có lúc phải tự kiếm sống như một đứa trẻ lang thang.


Nguyễn Hoàng Ca theo một người bà con vào Nam từ trước Cách mạng tháng Tám.
Bắt đầu tham gia Cách mạng năm 17 tuổi; làm thơ, viết văn với bút danh Nguyễn
Ngọc Tấn; là đội viên đội Cảm tử quân trong những ngày tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn;
được kết nạp Ðảng năm 1947 (19 tuổi).


Năm 1953, Nguyễn Ngọc Tấn cưới vợ. Sau đó, tập kết ra Bắc, cơng tác tại Tạp chí


Văn nghệ Quân đội, (để lại miền Nam người vợ trẻ đang mang thai).


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Trong 06 năm ở miền Nam, Nguyễn Thi có mặt tại hầu hết những điểm nóng của
chiến sự: Ấp Bắc, Củ Chi, Bến Tre,...


<b>2. Con người</b>


Nguyễn Thi tính tình nóng nảy, sinh ra mang sẵn trong mình nhiều lạnh lùng kín đáo
hơn cởi mở hân hoan; thường khi tỏ ra cực đoan (Bản thân nhà văn cũng nhận ra và
rất buồn vì sự khó tính của mình). Ðây chính là dấu vết khó lịng gột rửa, do trong
những năm tháng lang thang kiếm sống cậu bé Ca đã phải gai góc, ngang ngạnh để
tự vệ, để tồn tại.


Nguyễn Thi có một năng khiếu nghệ thuật thật đa dạng. Ở Tạp chí Văn nghệ Qn
Giải phóng, ơng viết diễn ca, vẽ bìa, vẽ minh họa rồi dạy múa, dạy hát; tự mình có
thể diễn kịch, múa lân,...


*** Nguyễn Thi là một nhà văn có ý thức trách nhiệm rất cao đối với ngòi bút. Chỉ
mới học hết bậc tiểu học, do đó, ơng phải tập viết rất cơng phu, khổ luyện. Cuộc đời
riêng tuy gặp nhiều éo le, trắc trở nhưng khơng bao giờ khuất phục trước hồn cảnh,
ơng như con trai, biết nén nước mắt vào bên trong phong kín nỗi đau, làm nên hạt
ngọc cho đời !


<b>II- SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TẤN - NGUYỄN THI: </b>
Có thể tìm hiểu theo hai thời kỳ chính:


-Từ 1950 đến 1962: sáng tác trên miền Bắc, với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Các tác
phẩm tiêu biểu: tập thơ Hương đồng nội, hai tập truyện ngắn: Trăng sáng, Ðôi bạn.
-Từ 1963 đến 1968: sáng tác ở miền Nam, với bút danh Nguyễn Thi. Những tác
phẩm tiêu biểu ở các thể loại: ký, truyện ngắn, truyện ký, tiểu thuyết được tập hợp


trong Truyện và ký Nguyễn Thi".


<b>1. Ở chặng đầu sáng tác, Nguyễn Ngọc Tấn vừa làm thơ vừa viết truyện.</b>
Ở chặng đầu sáng tác, Nguyễn Ngọc Tấn vừa làm thơ vừa viết truyện. Ðầu 1950, tập
thơ Hương đồng nội ra đời, gồm 20 bài. Ðây là tiếng lòng của một người đang chập
chững trên bước đường văn chương, tập quan sát, miêu tả và tự thể hiện - như một
cậu học trò tập làm luận- nên giá trị nghệ thuật chưa cao.


Hai tập truyện ngắn Trăng sáng, Ðôi bạn tập trung vào ba mảng đề tài khá quen
thuộc bấy giờ: tấm lịng Nam-Bắc trong chia cắt, tình nghĩa qn dân (giữa đồng bào
miền Bắc với bộ đội miền Nam đi tập kết), tội ác của Mỹ Ngụy. Mỗi tập gồm 07
truyện.


Thời kỳ này, truyện của Nguyễn Ngọc Tấn khơng có gì đặc biệt về đề tài. Sự kiện
được phản ánh cũng chưa mang tầm vóc lớn lao của lịch sử. Nhà văn chưa có ý định,
chưa đủ sức vẽ những bức hoành tráng về dân tộc và kháng chiến. Tuy nhiên, những
trang viết ban đầu ấy vẫn mang sức hấp dẫn, thuyết phục riêng có được từ những
đặc sắc nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Văn phong giàu chất trữ tình, chất thơ; ít hành động, sự việc, giàu tâm tình. Kết hợp
với những hình ảnh so sánh thông minh, độc đáo tạo nên những hứng thú thẩm mỹ
bất ngờ: Sự nóng ruột giấu ở trong đôi mắt đảo lia đảo lịa của cô tưởng có thể tóm
ra mà đặt xuống bàn được (Một chuyến về phép); Tin ấy như con rắn luồn từ ngõ
này sang ngách khác (Về Nam).


*** Tuy chưa phản ánh được thật đầy đủ những phương diện chủ yếu của hiện thực
đời sống với tầm khái quát cao, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn đã là những dấu
hiệu tốt đẹp của một tài năng đầy triển vọng, là những nét cơ bản đã định hình về
một phong cách nghệ thuật lớn. Phong cách ấy sẽ được hoàn thiện và khẳng định
trong thực tế sáng tác, thực tế chiến đấu ác liệt ở miền Nam những năm về sau.


<b>2. Truyện và ký Nguyễn Thi:</b>


Ðây là một trong những thành tựu xuất sắc của nền văn học Cách mạng miền Nam,
gồm 11 tác phẩm (4 truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 2 ký, 1 ghi chép và 3 tùy bút).
<b>a. Nguyễn Thi viết truyện ngắn khơng nhiều nhưng truyện nào cũng có giá trị, </b>
đặc biệt: truyện về những nhân vật thanh thiếu niên và người phụ nữ. Bối cảnh là
nông thôn Nam Bộ những năm tháng ngột ngạt trước xuân Mậu Thân 1968. Ở đó,
một khi tội ác giặc càng chồng chất thì lịng căm thù và quyết tâm trả thù càng ngùn
ngụt bốc cao.


- Chuyện xóm tơi (1964): Sáng tác đầu tiên với bút danh Nguyễn Thi. Nhân vật
chính là hai đứa trẻ tên Ðực và Bỉnh, sống chung trong một xóm nhỏ vùng Mỏ Cày,
Bến Tre. Cả hai có chung mối thâm thù: hai người cha đều bị tên ác ơn Tổng Phịng
giết cùng một ngày. Qua câu chuyện giữa hai đứa trẻ, tác giả muốn đi tìm căn
nguyên sâu xa sức mạnh quật khởi của người Việt Nam; tất cả bắt đầu từ lòng căm
thù và quyết tâm trả thù nhà, đền nợ nước.


- Mùa xuân (1964): Như viết tiếp Chuyện xóm tơi, vẫn những nhân vật và bối cảnh
cũ nhưng khơng khí khởi nghĩa đã khẩn trương hơn nhiều với cảnh bộ đội về làng,
thanh niên nô nức lên đường tịng qn,... Truyện có cái nhìn bao qt hơn về tình
thế Cách mạng, về vai trị và khả năng của quần chúng.


- Những đứa con trong gia đình (1966): Chuyện về hai chị em Chiến và Việt - tiêu
biểu cho thế hệ trẻ miền Nam - trong cuộc đối đầu tưởng chừng không cân sức với
giặc Mỹ và bọn tay sai ác ôn. Nặng thù nhà nợ nước, cả hai tranh nhau lên đường
tòng quân và đã trở thành những anh hùng trẻ tuổi. Truyện có nhiều trang chân
thực, cảm động (đêm trước ngày hai chị em lên đường; lúc Việt bị trọng thương, một
mình trên chiến trường; cảnh chị em khiêng bàn thờ Ba Má qua gửi nhà chú Năm...).
Kết cấu, ngôn ngữ khá tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thi.



- Mẹ vắng nhà : Viết sau khi Người mẹ cầm súng ra đời, vẫn dựa trên những tính
cách của đám con chị Út Tịch. Nguyễn Thi muốn bổ sung thêm việc miêu tả tính
cách, sinh hoạt của chúng để cắt nghĩa những băn khoăn của độc giảí: vì sao một
người mẹ đơng con như vậy lại có thể rảnh rang, bình tỉnh theo du kích đánh giặc
suốt ngày đêm ? Truyện cho thấy: những đứa trẻ đã sống thật ấm áp trong sự đùm
bọc, cưu mang đầy tình nghĩa và trách nhiệm của bà con lối xóm, dù Ba Má chúng
ln vắng nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

- Tùy bút: thường ngắn gọn, súc tích chứ khơng tài hoa un bác như Nguyễn Tuân,
cũng không rắn rỏi hào hùng như Nguyễn Trung Thành. Câu văn bình dị, thân mật,
khiêm tốn; giọng điệu thiết tha; có sức vang vọng sâu xa trong tâm hồn người đọc:
Chúng phải chết trên những hố bom do chúng gây ra, trên những căn hầm chúng lùa
hơi độc, trên những vòm cây chúng làm trụi lá, trên những bờ kinh xanh biếc này.
Tùy bút Nguyễn Thi đề cập và giải quyết hàng loạt mối quan hệ thuộc về thế giới
quan, nhân sinh quan thời chiến: sống - chết; riêng - chung; sướng - khổ; thể hiện
tấm lòng yêu nước và thủy chung của đồng bào Nam bộ; khẳng định sức sống mãnh
liệt của dân tộc Việt Nam. Sức sống ấy bắt nguồn từ truyền thống nhân nghĩa, vì:
Khi nhân nghĩa bị xúc phạm thì nhân nghĩa lại mang sức quật khởi ghê gớm...Một sự
đổ nát trỗi dậy trăm vạn niềm tin.


Những tùy bút tiêu biểu: Ðại hội anh hùng, Những câu nói trong đại hội, Dịng kinh
q hương.


- Bút ký tiêu biểu: Những sự tích ở đất thép, tập trung thể hiện sự bình tỉnh, gan dạ
của chúng ta giữa sự lồng lộn tuyệt vọng của kẻ thù ở đất thép Củ Chi. Nhà văn hình
như khơng bằng lịng với thuyết lý chung chung về chủ nghĩa anh hùng Cách mạng,
nên đã xông xáo đi tìm hiểu và thể hiện thật cụ thể, sinh động nhận thức của chính
mình bằng hình tượng nghệ thuật.


- Truyện ký tiêu biểu: Người mẹ cầm súng, Uớc mơ của đất.



Người mẹ cầm súng: tác phẩm được Hội đồng Văn học nghệ thuật của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam tặng giải chính thức giải thưởng văn học Nguyễn Ðình
Chiểu năm 1960-1965. Nguyễn Thi viết tác phẩm này nhằm hai mục đích. Thứ nhất,
tập trung lý giải mối quan hệ giữa tư cách công dân (phải đảm bảo chức năng xã hội)
với tư cách người mẹ, người vợ (phải đảm bảo chức năng gia đình). Ngay tiêu đề
Người mẹ cầm súng cũng đã toát lên ý đồ nghệ thuật của tác giả. Thứ hai, lý giải
nguồn gốc tạo nên người anh hùng và q trình phát triển hợp lý những tính cách
anh hùng: từ tự phát đến tự giác. Ðặc sắc nghệ thuật của tác phẩm là điển hình hóa
với chất t Tịch - điển hình tính cách Nam bộ, tức là sức mãnh liệt đến hồn nhiên
của cá tính, thể hiện ở những hồn cảnh, việc làm, câu nói khơng lẫn với ai khác
(ném ớt bột vào mặt con gái địa chủ, trèo lên ngọn dừa cao đái xuống; những câu
nói nổi tiếng như: cịn cái lai quần cũng đánh, đánh Tây sướng bằng tiên chứ cực
gì,...)


Ước mơ của đất: những trang viết cuối cùng của nhà văn, kể lại cuộc đời người nữ
anh hùng Nguyễn Thị Hạnh. Tác phẩm còn ở dạng bản thảo.


- Tiểu thuyết: Nguyễn Thi thường viết nhiều tác phẩm cùng một lúc nên hầu hết đều
dở dang khi nhà văn hy sinh. Tuy nhiên, với dung lượng hiện thực ngồn ngộn phong
phú, tươi rói sức sống cộng với tài năng đang độ sung sức của tác giả- những tác
phẩm dở dang ấy vẫn mang giá trị văn học to lớn. Các tác phẩm tiêu biểu: Ở xã
Trung Nghĩa, Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Ở xã Trung Nghĩa thể hiện tính hồnh tráng của cả một giai đoạn lịch sử. Khơng khí
truyện được tập trung xây dựng ngay từ đầu, đó là sự căng thẳng trong cái thế tức
nước, báo hiệu cơn giông tố lịch sử tất yếu phải đến. Nhân vật truyện gồm nhiều
tuyến tương phản nhau, rất đa dạng. Những nhân vật chính được chạm khắc thành
hình tượng khó qn (ơng Tư Trầm, chị Hai Khê, những tên quỷ sứ như đại diện
Hiếm, cảnh sát Âu). Nhà nghiên cứu Vũ Ðức Phúc có nhận xét: Cuốn tiểu thuyết viết


dở Ở xã Trung Nghĩa có thể so sánh với Tắt đèn. Lời văn của anh nhẹ nhàng, giàu
chất thơ mà rất sâu sắc, mỗi trang đều lôi cuốn người đọc.


Sen trong đồng cũng là một truyện dài dở dang. Nhân vật chính: cơ Sáu giao liên. Từ
trong mất mát, tù đày và những khắc nghiệt của hoàn cảnh, trên con đường gian
khổ tìm đến với Cách mạng- phẩm chất anh hùng, bất khuất của người phụ nữ Nam
bộ được khẳng định: Mười tám tuổi, xa nhà đi tìm đến với Cách mạng. Mang theo
trong hành trang một trái thơm, một buồng chuối chín, một bộ đồ phèn trên ngươiì
và một bộ nữa rách te tua bỏ trong một cái tụng bàng.


Cô gái đất Ba Dừa tập trung khắc họa phẩm chất trung hậu, đảm đang của người
phụ nữ Việt Nam. Nhân vật chính: cơ Ba. Bằng tính cách mạnh mẽ và tinh thần của
người Ðảng viên, cô đã vượt qua những khó khăn lớn trong cuộc sống gia đình để
hồn thành xuất sắc nhiệm vụ.


*** Nhận xét: Truyện và ký của Nguyễn Thi là bản án đanh thép tố cáo chế độ Mỹ
Ngụy dã man, một dự báo của cuộc Cách mạng tất yếu xảy đến. Hình ảnh người
nông dân Nam bộ, đặc biệt là phụ nữ, được khắc họa bằng những nét điển hình đẹp
đẽ; dân tộc mà rất hiện đại, phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Trang viết
Nguyễn Thi góp vào văn học Cách mạng miền Nam một hương sắc riêng, độc đáo.
<b>III- ÐẶC ÐIỂM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT: </b>


<b>1. Ở Nguyễn Thi, có sự hài hịa tuyệt vời giữa sống - chiến đấu - sáng tác. </b>
Khuynh hướng sử thi ảnh hưởng quyết định, tạo nên nét gần gũi giữa phong cách
Nguyễn Thi với phong cách thời đại. Suốt đời, nhà văn tự nguyện sáng tác bằng mồ
hôi, nước mắt và cả máu từ trái tim mình để ngợi ca chủ nghĩa anh hùng Cách mạng
miền Nam. Trang viết Nguyễn Thi thể hiện thái độ dứt khoát, lập trường tư tưởng
vững vàng: tất cả vì nhân dân, vì tổ quốc. Nguyễn Thi thành cơng nổi bật khi xây
dựng những điển hình nơng dân Nam bộ, đặc biệt là nhân vật trẻ con và phụ nữ.
Hình như ở đó ln gửi gắm thật nhiều tâm sự, tâm huyết của nhà văn.



<b>2. Sắc thái đặc biệt trong phong cách Nguyễn Thi còn là sự hài hòa giữa nhiều </b>
mặt đối lập về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Ln có sự cân đối, phù hợp
giữa chất thơ trong sáng trữ tình với một hiện thực đồ sộ, có tính sử thi, giữa hình
thức bên ngồi ngắn gọn với nội dung bên trong phong phú, dồi dào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

mắt hứ một cái cóc rồi đi thẳng. Vậy mà nên vợ nên chồng. Bởi vì chiều hơm đó, Má
gánh cơm đi tặng bộ đội tầm vơng thì lại gặp Ba trong hàng ngũ đó).


<b>IV- KẾT LUẬN CHUNG: </b>


Nguyễn Thi sống không lâu, viết không nhiều nhưng cuộc đời với sức vươn lên bằng
khổ luyện và những di sản của ơng đã khẳng định đóng góp q báu vào thời đại,
vào cơng cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.


Bằng lao động nghệ thuật quên mình, trang viết Nguyễn Thi đã thể hiện được sức
sống mãnh liệt, sức quật khởi phi thường của con người Việt Nam trước những thử
thách sống còn của lịch sử; làm dấy lên niềm tin và lòng tự hào dân tộc, củng cố
nhận thức, khẳng định tư thế chính nghĩa trong chiến đấu.


Sáng tác của Nguyễn Thi góp phần làm phong phú, rạng rỡ diện mạo văn học Việt
Nam thời chống Mỹ.


<i><b>(Sưu tầm) </b></i>
<b>Đất nước (Nguyễn Đình Thi) </b>


<b>I.GIỚI THIỆU :</b>
<b>1.Tác giả : </b>


- Nguyễn Đình Thi (Sinh năm 1924 tại Lng Phabăng-Lào )


- Quê quán : Hà Nội


- Tham tham gia Hội Văn hố cứu quốc khá sớm .Nguyễn đình Thi quê quán Hà Nội,
nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về
nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên Cứu Quốc, 1943
tham gia Văn Hóa Cứu Quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân
Đại Hội Tân Trào, vào Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc Hội
trẻ nhất, làm Ủy viên Thường Trực Quốc Hội, khóa I.


- Từng giữ chức Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam ..


- Là một nghệ sỹ đa tài . Khơng những là nhà thơ, nhà văn, ơng cịn là một nhà biên
soạn kịch, là nhạc sỹ với nhiều ca khúc nổi tiến . Nhận giải thưởng HCM đợt đầu
(1991 )


<b>2. Hoàn cảnh sáng tác : </b>


Tác phẩm viết trong khoảng thời gian từ 1948 -> 1955 . Bài thơ là sự tổng hợp của
những sáng tác Sáng mát trong như sáng năm xưa (48 ), Đêm mít tinh (49 ) và Đất
nước (55) . Đây là thời gian ông trải nghiệm , trưởng thành cùng Đất Nước trong
kháng chiến chống Pháp lần 2 …


<b>II. BỐ CỤC :Bài chia làm hai phần :</b>


Đoạn 1 ( 5 khổ thơ đầu ) : Cảm nhận của tác giả về Quê hương Đất Nước


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Tuy gồm nhiều khổ thơ nhưng toàn bài thơ thống nhất với nhau, chung một cảm
hứng chủ đạo về Đất Nước ( Tên bài )


<b>III. PHÂN TÍCH :</b>



<b>1. Đoạn 1: Cảm hứng cùa tác giả về mùa thu quê hương đất nước .</b>
<b>a) 3 khổ đầu : Cảm xúc về mùa thu đất nước </b>


* Khổ 1: - Nhịp thơ nhẹ nhàng, êm dịu
- Hình ảnh thơ chọn lọc, gợi cảm :
“Sáng mát trong”


“gió thổi ……….hương cốm mới”


-> Cảm xúc dạt dào trước mùa thu đẹp của ĐN -> Mùa thu gợi nhớ HN đã xa
* Khổ 2 : Hoài niệm về mùa thu HN :


- Cảnh “Sáng chớm lanh ” (đầu thu)
“những phố dài xao xàc hơi may”
“thềm nắng lá rơi đầy"


=> Diễn tả trạng thái giao mùa dưới cái nhìn của nhà thơ (khơng gian, thời gian ,
cảnh vật, con người : mùa thu đẹp nhưng buồn (Vì đất nước có chiến tranh
- Hình ảnh người ra đi : “đầu không ngoảnh lại”


“sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"


=> Người ra đi có vẻ cương quyết nhưng lòng còn quyến luyến. Đây là tâm trạng
chung của TN bấy giờ : lý trí và tình cảm chưa hịa quyện với nhau


=> Mùa thu rong hồi niệm của nhà thơ : có cái gì buồn trong thời khắc chuyển mùa
và thời khắc chia xa.


* Khổ 3 : Cảm xúc về mùa thu kháng chiến



- Cảnh thu VB : “núi đồi” , “rừng tre phấp phới” “áo mới ” -> cảnh thu mới mẻ, tươi
đẹp, không gian rộng rãi tươi sáng


- Tâm trạng : “vui, nghe”…”nói cươì thiết tha” -> phấn khởi , tin yêu


-> Tâm trạng của nhà thơ hòa nhập vào niềm vui của cuộc đời và đất nước đổi thay
* Khổ 4 :


- Điệp từ : “đây” “những ” + liệt kê hình ảnh


-> Gợi lên một đất nước giàu đẹp, mênh mông, rộng lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

=> Đoạn thơ mang cảm hứng sử thi tác giả nhân danh dân tộc, cộng đồng khẳng
định quyền độc lập tự chủ của ĐN


* Khổ 5 : - Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm lắng, suy tưởng.


- “Nước những người chưa bao giờ khuất” -> truyền thống buất khuất của dân tộc.
- “Đêm rì rầm ……


……..ngày xưa vọng nói về ”


-> Khơng khí thiêng liêng, trang trọng


-> Tiếng nói của lịch sử, của cha ơng nhắc nhở con cháu mai sau.


-> Mang cảm xúc của tác giả trở về quá khứ xa xăm đầy tự hào, có sự gặp gở giữa
truyền thống và hiện tại.



Sơ kết : Đoạn thơ thể hiện cảm xúc của tác giả về mùa thu ĐN và niềm tự hào về
TQVN giàu đẹp, có truyền thống anh hùng buất khuất.


<b>2. Đoạn 2 : Phần còn lại : ĐN trong kháng chiến </b>
<b>a) Đất nước đau thương :</b>


“Những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều ”


-> Ngôn ngữ tạo hình từ một ấn tượng có thật tác giả nâng thành biểu tượng ĐN đau
thương, quằn quại trong chiến tranh


- “Những đêm dài hành quân …..
Bỗng …….nhớ mắt người u ”


-> Tình u đơi lứa và tình u ĐN, cái riêng và cái chung hòa nhập vào nhau trong
tâm hồn người chiến sĩ .


- “Bát cơm chan đầy nước mắt
Đứa đè cổ đứa lột da ”


-> Bạo lực hung tàn của kẻ thù.


<b>b) Đất nước anh hùng trong kháng chiến :</b>
* 3 khổ : “Từ……. Thương nhà ”


- Đau thương trong chiến đấu > < ngời lên nét mặt quê hương
- Gốc lúa bờ tre h.h > < bật lên ….căm hờn


-> Hình ảnh có tính biểu tượng của một ĐN quật khởi khái quátsự chuyển biếntrong


nhận thức của ND


- Xiềng xích > < trời đầy chim


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

-> Bạo lực kẻ thù khơng thể hủy diệt được tình u cuộc sống hịa bình, lịng u
nước thương nịi của ND


* 2 khổ thơ : “Khói …..bình minh ”
- Nhịp thơ càng lúc càng dồn dập sơi nổi
- “Khói nhà máy cuộn lên …….”


- “Kèn gọi quân văng vẳng……”


-> Khí thế lớn mạnh của cuộc kháng chiến


- Hình ảnh người chiến sĩ : “Ôm đất nước …..người áo vải….. thành những anh hùng ”
-> người dân bình thường mà vĩ đại -> con người mới trong kháng chiến


- “Ngày …… đêm ………… hy sinh ” > < ….. nghĩ trời đất mới – lịng bát ngát bình minh
-> Sự chịu đựng gian khổ, hy sinh nhưng đầy lạc quan tin tưởng .


-> Tác giả khắc họa hình ảnh con người VN kiên cường, dũng cảm trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp.


* Khổ cuối : Hình ảnh Đất Nước Việt Nam


- Câu thơ 6 chữ – âm điệu dồn dập sơi nổi hồnh tráng -> khí thế từ chiến thắng
ĐBP


- Hình ảnh : “Nước VN từ máu lửa ”


- “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”


=> Hình ảnh tả thực và biểu tượng ĐNVN đứng lên từ những đau thương. Bức tranh
hoành tráng mang tính sử thi.


SK : Đây là đoạn thơ có tính chính luận thể hiện những cảm xúc của tác giả về ĐNVN
đau thương nhưng buất khuất, anh hùng và chiến thắng vẻ vang trong kháng chiến
chống Pháp.


<b>III. CHỦ ĐỀ :</b>


Bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước, niềm tự hào sâu sắc về truyền thống anh hùng
buất khuất của ĐN.


<b>IV. TỔNG KẾT :</b>


- Nội dung : Bài thơ thể hiên những cảm xúc sâu lắng tinh tế của tác giả vế ĐN trong
kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng, kiên cường và chiến thắng vẻ
vang.


- Nghệ thuật : Bài thơ thể hiện phong cách thơ của NĐT :
+ Hình ảnh, ngơn từ có sức khái quát cao


+ Có sự kết hợp giữa cảm xúc và suy tưởng


+ Nhà thơ chú ý điển tả sâu sắc, tinh tế tiếng nói nội tâm của nhân vật trữ tình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<b>ĐẤT NƯỚC </b>


<b>( Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm )</b>


<b>Bài liên quan: </b>


<b>Tìm hiểu đoạn trích "Đất nước" (Nguyễn Khoa Điềm)</b>
<b>Đất nước-Nguyễn Khoa Điềm</b>


<b>Những sắc màu thi ca trên dịng sơng đất nước</b>


<b>Nét mới trong cảm nhận về bài "Đất nước" (Nguyễn Khoa Điềm)</b>
<b>Mục tiêu bài học </b>


- Thấy thêm một cái nhìn mới mẻ về đất nước qua cảm nhận của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân
dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.- Năm được một số nét đặc sắc về nghệ
thuật: giọng thơ trữ tình- chính luận, sự vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố của văn hoá
và văn học dân gianlàm sáng tỏ thêm tư tưởng “Đất nước của Nhân Dân” .


<b>I. Tìm hiểu chung </b>
<b>1. Tác giả : </b>


- Sinh ra trong một gia đình trí thức, giàu truyền thống yêu nước và tinh thần cách
mạng.


- Học tập và trưởng thành trên miền Bắc, tham gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ
ở miền Nam.


- Phong cách sáng tác :


+ Giàu chất suy tư , xúc cảm dồn nén .
+ Giọng thơ trữ tình chính luận .



<b>2. Đoạn trích : </b>


- Vị trí : Trích chương V của trường ca .


- Hoàn cảnh sáng tác : Hoàn thành ở chiến khu Trị -Thiên 1971 .
-Bố cục văn bản : Hai phần


Phần I : 42 câu đầu : Đất nước được cảm nhận từ nhiều phương diện lịch sử văn hố
dân tộc, chiều sâu của khơng gian, chiều dài của thời gian.


Phần II: 47 câu cuối : Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận về đất nước : Đất nước của Nhân
dân .


<b>II. Đọc hiểu văn bản : </b>


<b>1. Đất nước được cảm nhận trên nhiều bình diện:</b>
<b>* Cảm nhận chung về đất nước: (Đoạn mở đầu) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

- Đó là những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể.


- Là miếng trầu của bà, là hạt gao một nắng hai sương, là ngôi nhà ta ở...


=> Giọng thơ nhẹ nhàng, âm hưởng đầy quyến rũ , sử dụng chất liệu VHDG..., tác
giả đưa ta về với cội nguồn của đất nước : Một đất nước vừa cụ thể vừa huyền ảo và
đã có từ rất lâu đời.


<b>* Cảm nhận về đất nước ở phương diện lịch sử - văn hoá :</b>


- Đất nước được cảm nhận gắn liền với nền văn hoá lâu đời của dân tộc:
+ Câu chuyện cổ tích, ca dao.



+ Phong tục của người Việt: ăn trầu, bới tóc.


- Đất nước lớn lên đau thương vất vả cùng với cuộc trường chinh không nghỉ ngơi của
con người :


+ Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, gắn với hình ảnh cây tre- biểu tượng cho sức
sống bất diệt của dân tộc.


+ Gắn với nền văn minh lúa nước, lao động vất vả.


- Đất nước gắn liền với những con người sống ân tình thuỷ chung.


=> Đất nước khơng trừu tượng mà ở ngay trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
* Cảm nhận đất nước ở phương diện chiều rộng của khơng gian:


- Là khơng gian hị hẹn của tình yêu (Lối chiết tự đầy ý nhị vừa mang tính cá thể vừa
hết sức táo bạo , tác giả đã định nghĩa đất nước thật độc đáo)


- ĐN là nơi chốn sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ( nơi dân mình
đồn tụ )


=>Là sự thống nhất giữa cá nhân với cộng đồng.


- Đất nước cịn là khơng gian rộng lớn tráng lệ hùng vĩ của núi cao, biển cả.


=> ĐN là những gì gần gũi thân quen gắn bó với cuộc sống mỗi người lại vừa mênh
mông rộng lớn.


<b>* Cảm nhận về ĐN ở phương diện chiều dài thời gian : ĐN được cảm nhận từ </b>


quá khứ với huyền thoại “ Lạc Long Quân và Âu Cơ” cho đến hiện tại với những con
người không bao giờ quên nguồn cội dân tộc, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ
Tổ .


* Suy ngẫm của tác giả về trách nhiệm của thế hệ mình với ĐN : phải biết gắn
bó, san sẻ và hi sinh vì đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<b>2.Tư tưởng cốt lõi : ĐN của nhân dân </b>


- Tác giả tiếp tục với những cảm nhận về đất nước trên nhiều bình diện:
Chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu văn hố lịch sử


+ Một Đất nước với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ,gắn với số phận, tính
cách ,phẩm chất, tâm hồn nhân dân ( Hòn Trống Mái, Núi Vọng phu, Núi Bút, Non
Nghiên, Vjịnh Hạ Long...)


=> ĐN hiện lên vừa gần gũi vừa thiêng liêng.
+ Một Đất nước giàu truyền thống :


. Anh hùng bất khuất : Có những anh hùng khơng ai nhớ mặt đặt tên. Họ hi sinh
thầm lặng cho Đất nước


. Đoàn kết trong đấu tranh, lao động sinh tồn...


+ Một Đất nước của ca dao, thần thoại , của những vẻ đẹp tâm hồn nhân hậu thuần
phác


=>Tg chọn 3 dẫn chứng để nói về truyền thống của nhân dân :
+ Say đắm, lạc quan trong tình yêu ( Yêu em từ thuở trong nôi .
+ Biết q trọng tình nghĩa ( Biết q cơng...)



+ Quyết liệt trong căm thù và chiến đấu ( biết trồng tre ...)


=> Sự phát hiện thú vị và độc đáo của tg về ĐN trên các phương diện địa lí, lịch sử,
văn hố với nhiều ý nghĩa mới : Muôn vàn vẻ đẹp của ĐN đều là kết tinh của bao
công sức và khát vọng của nhân dân , của những con người vô danh , bình dị . ĐN từ
nhân dân mà ra, do nhân dân mà có và nhờ nhân dan mà tồn tại


<b>3. Nghệ thuật : </b>


- Thể thơ tự do phóng túng .


- Sử dụng phong phú, đa dạng và đầy sáng tao chất liệu văn hoá dân gian.
- Giọng thơ trữ tình - chính trị .


<b>4. Chủ đề : Văn bản đã thể hiện một cái nhìn mới mẽ về đất nước : ĐN là sự hội tụ </b>
và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân . Nhân dân là người làm ra đất
<b>nước. </b>


<b>Tìm hiểu đoạn trích "Đất nước" (Nguyễn Khoa Điềm) </b>


<b>ĐẤT NƯỚC</b>


<i><b>(Trích Trường ca Mặt đường khát vọng)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

<b>I. Tìm hiểu chung</b>


<b>1.Tác giả Nguyễn Khoa Điềm </b>


- Sinh năm 1943 tại thơn Ưu Điểm, xã Phong Hồ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa


Thiên Huế


- Quê gốc An Cựu, Thuỷ An, thành phố Huế


- Gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Cha ông là Nguyễn Khoa
Văn (Hải Triều), nhà phê bình văn học theo quan điểm Mac xit nổi tiếng giai đoạn
1930 – 1945. Năm 1955 ông được đưa ra Bắc học ở trường học sinh miền Nam. Tốt
nghiệp đại học Sư phạm Hà Nội 1964, Nguyễn Khoa Điềm trở về miền Nam tham gia
chiến đấu, hoạt động bí mật trong thành phố Huế, từng bị địch bắt giam. Tổng tiến
cơng Mậu Thân năm 1968, ơng được giải thốt, tiếp tục lên hoạt động ở chiến khu Trị
Thiên.


- Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu làm thơ từ thời kì này và là một trong những nhà thơ
tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy
tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư người trí thức, tham gia tích cực vào cuộc
chiến đấu của nhân dân.


- Sau năm 1975, tiếp tục hoạt động ở thành phố Huể, là Tổng thư kí Hội nhà văn
Việt Nam khố V, Bộ trưởng Bộ văn hố – thơng tin, Trưởng ban tư tưởng – Văn hố
Trung ương, Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.


* Tác phẩm chính: các tập thơ Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (Trường ca
- 1974), Ngơi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007).


Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2000.
<b>2. Đoạn trích Đất nước</b>


* Đoạn trích Đất nước từ trường ca Mặt đường khát vọng. Bản trường ca nhằm thức
tỉnh tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của
đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, xuống đường đấu tranh, nhập vào cuộc


chiến đấu của toàn dân tộc. Trường ca này hoàn thành năm 1971 và in lần đầu ở
miền Bắc (1974). Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của trường ca về cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ.


* Bố cục: Đoạn trích chia làm 2 phần:


- Phần 1 từ đầu đến: “làm nên Đất nước muôn đời”, ý của phần này: Đất nước của
nhân dân được cảm nhận bằng văn hoá, ca dao thần thoại và tình yêu con người.
Xen vào phần một còn thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa cá thể và cộng đồng,
thành viên với đất nước của mình


- Phần hai cịn lại: Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cách nhìn và sự phát hiện về địa
lí, lịch sử, văn hố. Xen vào đó là đoạn chính luận làm nổi bật vai trị của nhân dân
quyểt định vận mệnh Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

nước


<b>II. Đọc hiểu văn bản</b>


<b>1. Đất nước của nhân dân được cảm nhận ở những góc độ. Từ đó nhà thơ </b>
<b>thức tỉnh tuổi trẻ hướng về nhân dân đất nước.</b>


- Tác giả nhìn nhận đất nước trên phương diện của ca dao thần thoại. Qua đoạn thơ:
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
….



Đất Nước có từ ngày đó


Đất Nước có từ rất xa. Đất Nước có từ trong những chuyện đời xưa, từ phong tục ăn
trầu đến truyền thống “biết trồng tre mà đánh giặc”. Những hình ảnh này gợi cho ta
liên tưởng tới Sự tích trầu cau, Truyện Thánh Gióng gần gũi hơn cả là cuộc sống đời
thường của mỗi con người. Thành ngữ dân gian “gừng cay muối mặn” có từ buổi cha
mẹ thương nhau, đến chuyện đặt tên cho cái kèo, cái cột, “Hạt gạo phải một nắng
hai sương” và cuộc sống bề bộn hằng ngày… Đất Nước hiện lên thật thiêng liêng và
gần gũi, dễ cảm hố và đi vào lịng mỗi người.


Đất Nước cịn có nguồn gốc vừa thiêng liêng, vừa tơn kính:
Đất là nơi chim về


Nước là nơi Rồng về
Lạc Long Quân và Âu Cơ


Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng


Ta nhận ra nguồn gốc. Ở đâu trên Đất Nước này ta phải nhớ mình đều chung một
nguồn gốc và tự hào về truyền thống con Rồng, cháu Tiên.


- Đất Nước không chỉ bắt nguồn từ đời sống lam lũ, lo toan hằng ngày mà còn bắt
nguồn từ đời sống tình cảm:


“Cha mẹ thương nhau”


Và “Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm



Đất Nước là nơi ta hò hẹn


Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”


Tình u lứa đơi cũng làm nên gương mặt tinh thần cảu Đất Nước. Hình ảnh chiếc
khăn làm ta nhớ tới câu ca dao còn đẫm nước mắt của những người yêu nhau từ thuở
xa xưa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

- Tìm đến ca dao, thần thoại là tìm đến đời sống giân dan từ xa xưa. Đời sống tinh
thần cảu dân tộc xưa vừa thơ mộng, vừa trữ tình. Nó mộc mạc tự nhiên, thuần phác,
dễ đi vào lịng người hơm nay để tuổi trẻ dễ nhận ra cái hồn, cái cốt, tư tưởng Đất
Nước này là đất nước của Nhân dân.


- Giang Nam với bài Quê hương, Tố Hữu với Việt Bắc; Vũ Cao với Núi đơi; Dương
Hương Lí với Đất q ta mênh mơng, Hồng Cầm với Bên kia sơng Đuống; Lê Anh
Xuân với Dáng đứng Việt Nam…. Và rất nhiều những nhà thơ khác đều viết về Đất
Nước. Mỗi người một vẻ không ai giống ai. Giang Nam, Vũ Cao cảm nhận về đất nước
gắn liền với hi sinh, mất mát. Tố Hữu viết về đất nước với khúc ca hùng tráng về
cuộc kháng chiến và nghĩa tình son sắt, đạo lí cách mạng. Dương Hương Lí viết về
đất nước gắn liền với chiến cơng của các bà mẹ đào hầm trong tầm đại bác. Lê Anh
Xuân viết về đất nước gắn với hi sinh của chiến sĩ vô danh đã ngã xuống trên đường
băng của sân bay Tân Sơn Nhất. Hoàng Cầm xót xa trước cảnh quê hương bị giày
xéo để rồi có khát vọng vùng lên. Đất Nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm có thể đặt trong cùng bình diện. Cả hai đều là những xúc cảm về
đất nước trong tiến trình lịch sử. Đất Nước của Nguyễn Đình Thi gắn liền với đất nước
trong đau thương và quật khởi vùng lên “Sức sống kì diệu đã biến một nước Việt
Nam hiền hoà thành một nước Việt Nam bất khuất”. Mạch cảm xúc ấy thật giá trị.
Nhưng vẫn khơng có gì mới mẻ. Phản ánh về đất nước, các nhà thơ đều chung một
mạch cảm xúc. Đó là xót xa, uất ức, nghẹn ngào và anh dũng đứng lên. Đến Nguyễn
Khoa Điềm đã thực sự tìm được hướng khác trong cảm nhận. Nhà thơ khai thác đề


tài dân gian, địa lí và lịch sử để làm cho mọi người thấy đấy, rõ ràng mà cũng thật
bất ngờ. Cái mới, nét đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ đó.


- Hai dịng thơ:


Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần Đất Nước


Hai câu thơ làm nên chất chính luận. Nó mang tính triết lí thật sâu sắc. Đó là mối
quan hệ giữa cá thể với cộng đồng giữa mỗi người với Đất Nước của mình. Điều ấy có
nghĩa em, thế hệ trẻ khơng thể tách rời khỏi Đất Nước.


Những câu thơ thực sự rung động:


Em ơi en Đất Nước là máu xương của mình


Làm nên Đất Nước muôn đời


Tiếng gọi thiểt tha “Em ơi em!”, kết hợp với sự khẳng định “Đất Nước là máu xương
của mình” và hàng loạt những từ phải biết, gắn bó, san sẻ, hố thân, làm nên… Tất
cả như lời giục giã, cởi mở chân thành. Tư tưởng Đất Nước này là Đất Nước của nhân
dân còn được thể hiện ở phần 2 của bài thơ.


<b>2. Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cái nhìn, đưa đến những phát hiện mới </b>
<b>mẻ, sâu sắc về địa lí, lịch sử.</b>


- Tư tưởng “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân” đã qui tụ mọi cách nhìn nhận
mới mẻ. Tác giả đã nhìn nhận về Đất Nước trên các bình diện về địa lí, lịch sử, văn
hố.



</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Đất Nước, cũng khơng bằng sự kiện lịch sử mà bằng cách nói cảm xúc:
Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái




Những cuộc đời đã hố núi sơng ta…


Những địa danh dịng sơng (Cửu Long – chín rồng) đến tên núi “Vọng Phu”, những
tên đất gắn liền với tên người (ơng Đốc, ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm) đến gị, đầm,
đồi, bãi, những danh lam thắng cảnh (Hạ Long) đã gắn liền với dân tộc, gắn liền với
cuộc sống con người. Từ đó lời thơ như thăng hoa, đúc kết thành triểt lí sâu sắc:
Ơi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy


Những cuộc đời đã hố núi sơng ta…


Thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà chính luận là ở đó.


Cái bình diện địa lí, lịch sử được nhìn nhận bằng tâm hồn dạt dào cảm xúc, góp phần
làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ, làm nên nét riêng độc đáo của thơ Nguyễn
Khoa Điềm khi viết về Đất Nước.


- Tác giả cất tiếng gọi:
“Em ơi em”


Sau tiếng gọi là sự giãi bày:
Có biết bao người con gái, con trai


Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi




Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


Vai trò của nhân dân toả sáng trong 6 câu thơ đấy triết lí. Nhân dân ta đã chiếm lính
vũ đài lịch sử. Bất giác ta nhớ tới hình ảnh ở thời đại ta. Đó là đội trưởng cẳm cờ trên
nóc hầm Đờ Cát là một chàng trai tình lúa Thái Bình. Những chiến sĩ ngồi trên xác
pháo xe tăng cũng đều là người nông dân mặc áo lính. Thơ là tấm lịng nhưng trước
hểt thơ phải là cuộc sống. Những người chiến sĩ ấy không thể đắn đo giữa sống và
chết. Họ thật giản dị, bình tâm. Tên tuổi họ đã làm nên Đất Nước.


- Nguyễn Khoa Điềm không dùng những từ, những luận điểm, luận cứ có tính chính
luận mà bằng ngôn ngữ của đời thường. Tác giả cũng không hô to gọi giật của lời thơ
tuyên truyền cổ động mà thơ vẫn đi vào lòng người đọc.


- Nhà thơ nhằm mục đích thức tỉnh, lay động về nhận thức của tuổi trẻ miền Nam, cả
nước nói chung, của tuổi trẻ các thành phố, đơ thị trong vùng tạm chiếm nói riêng.
<b>Bốn câu thơ kết đoạn:</b>


Ơi những dịng sơng bắt nước từ đâu


Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát thi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

và vượt qua tất cả thác ghềnh để gieo trồng và giữ gìn sự sống. Lạ thay, họ cất lên
tiểng hát. Tiếng hát để động viên nhau. Tiếng hát thể hiện lòng yêu đời, thiết tha với
đời. Tiếng hát là tinh thần lạc quan. Người dân của Đất Nước mình đấy, dân tộc ta
đấy. Tuổi trẻ ơi! Hãy nối bước cha ơng.



- Nguyễn Đình Thi dựng gương mặt đất nước theo quá trình “Từ những năm đau
thương chiến đấu” để làm nên “Nét mặt quê hương”. Nhà thơ nhấn mạnh “Từ gốc lúa
bờ tre hiền hậu/ Đã bật lên những tiếng căm hờn. Những câu thơ tưởng như như hồn
khí lực để bật lên thành sự cơng phá”. “Một đất nước nung nấu đau thương, tích tụ
căm hờn để cuối cùng quật khởi vùng lên”. Nhà thơ đã phản ánh hình tượng đất nước
theo một quá trình chuyển hố. Đất nước hiện qua mùa thu hiền hoà với hương thu
gợi nhớ để rồi sừng sững với bức chân dung dữ dội hoành tráng:


“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”.


Hai hình tượng để cảm xúc thơ Nguyễn Đình Thi vận động xung quanh Đất và Trời.
Hai hình tượng ấy thể hiện ở hai giai đoạn. Nó gắn vào nhau.


+ Đây là đất nước trong đau thương:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều


+ Đất nước trong sự thay đổi, giành lại cuộc đời:
Gió thổi rừng tre phấp phới


Trời thu thay áo mới


+ Đất nước trong thế vùng lên:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ


- Trong khi đó Nguyễn Khoa Điềm viết về đất nước khơng nói về đau thương, đổi đời,
chuyển hoá vùng lên mà nhấn mạnh “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân”.
Cách khai thác cũng mới mẻ. Nhà thơ tìm đến cội nguồn Đất Nước bằng những chi


tiết chân thực, giản dị ai cũng biết, cũng nhận ra. Sự hình thành đất nước qua ca
dao, tục ngữ, những huyền thoại đẫm màu sắc dân gian. Sản phẩm tinh thần do
nhân dân là người sáng tạo. Họ làm ra Đất Nước cùng với nền văn hoà phi vật thể.
Hai tiếng dân gian nghĩa là trong dân, do dân, ở dân. Người dân đã làm ra Đất Nước.
Những bình diện về địa lí, lịch sử đưa vào thơ khơng phải bằng những đặc trưng của
các ngành khoa học ấy mà bằng cái nhìn dạt dào cảm xúc, đẫm chất trữ tình. Dịng
sơng Đất Nước được nhìn dưới góc độ tưởng tượng: “Những con rồng nằm im góp
dịng sơng xanh thẳm”. Ở đâu có trái núi mang hình một thiểu phụ bồng con, người
ta gọi đó là núi vọng phu ở Lạng Sơn, Bình Định… Tất cả được giải bày bằng cảm
xúc:


“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

- So sánh giữa hai bài thơ để thấy những nét riêng biệt khi viết cùng một đề tài,
càng thấy sự phong phú của thơ ca hiện đại.


- Tác giả sử dụng nhiều chất liệu văn học dân gian, văn hoá dân gian một cách
nhuần nhị trong câu thơ hiện đại có tác dụng vừa tác động vào trí tuệ, tình cảm tạo
ra ý thức thẩm mĩ cho người đọc (Những câu thơ có liên quan đến tục ngữ, ca dao,
truyện cổ dân gian…)


- Tác giả kết hợp giữa cảm xúc và triểt lí, trữ tình và chính luận trong thơ để tạo ra
cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa sâu sắc.


- Câu thơ giàu hình ảnh. Hình ảnh nào cũng gắn với cuộc sống của nhân dân, nhất là
văn hố, văn học dân gian.


<b>Vi hành</b>


<b>( Trích “ Những bức thư gửi cô em họ do tác giả dịch từ tiếng An Nam”) </b>



<b>-Nguyễn ái </b>


Quốc-I<b>. Tìm hiểu chung</b>:


1. Hồn cảnh sáng tác- Mục đích sáng tác:


- 1922 thực dân Pháp đưa vua Khải Định sang Pháp


- 1923 NAQ đã viết một loạt TP để vạch trần âm mưu của chính phủ Pháp và lật tẩy bộ mặt bù
nhìn bán nước của Khải Định


- Đối tượng sáng tác là người dân Pari Bác viết bằng tiếng Pháp theo nghệ thuật Châu Âu hiện
đại


2. Chủ đề: vạch trần bộ mặt thậtbù nhìn lố lăng của Khải Địnhvà âm mưu thâm độc nham hiểm
của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa.


II<b>. Phân tích:</b>
<b>1. Giá trị nội dung:</b>


<b>a, Châm biếm lật tẩybản chất bù nhìn của KĐ</b>


* Chân dung KĐ qua cái nhìn của nhân dân Pháp
- Diện mạo: mũi tẹt, mặt bủng như vỏ chanh


- Trang phục: ngón tay đeo đầy những nhẫn, cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn.
- Cử chỉ thái độ: nhút nhát, lúng túng.


- Hành động: lén lút có mặt tại trường đua, tiệm cầm đồ, ga tàu điện ngầm.



-> KĐ hiện lên như một thứ đồ cổ xa lạ kệch cỡm lố lăng trong XH phương tây hiện đại hắn
khơng có tư cách của một đế vương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

- Họ gọi KĐ là hắn, người khách của chúng ta, anh vua, so sánh với những trị giải trí tầm
thường-> vua KĐ như một thứ đồ chơi, một con rối, một trò giải trí rẻ tiền


=> Hạ bệ KĐ hắn khơng xứng đáng là kẻ đại diện quốc gia chuyến đi của hắn chỉ nhằm mục đích
đàng điếm khơng phải vì lợi ích của đất nước.


* Lời kết tội KĐ qua liên tưởng bình luận của người kể truyện


- Nhờ đến chuyện xưa, vua Thuấn- Pie-> họ vi hành xứng đáng-> phê phán KĐ với những hành
tung mờ ám tầm thường-> kết tội KĐ: tội làm nhục quốc thể.


- Tác giả đặt ra rất nhiều câu hỏi: phải chăng ngài muốn biết…=> chất vấn KĐ từ đó đi đến kết tội
KĐ: hại nước hại dân, bán nước và làm tay sai cho Pháp.


<b>b. Vạch trần bộ mặt giả rối thâm độc của thực dân Pháp:</b>


* Tố cáo chính sách cai trị của Pháp ở thuộc địa


- “ Công bảo hộ” khai thác và làm kiệt quệ kinh tế tài chính Đơng Dương: Nhà băng Đơng Dương
ln cạn ráo=> chính sách bóc lột.


- “Cơng khai hố” bằng rượu cồn và thuốc phiện=> chính sách ngu dân.
* Tố cáo chính sách khủng bố ở chính quốc:


- Vạch trần luận điệu “tự do bình đẳng bác ái”: ngay tại nước Pháp chính phủ Pháp đã thi hành
chính sách khủng bố theo dõi những người yêu nước Việt Nam trên nước Pháp



KL: Tác phẩm đạt được cả hai mục đích phản đế và phản phong.


<b>2. Những sáng tạo nghệ thuật:</b>


<b>a, Những tình huống nhầm lẫn độc đáo</b>


- Đôi trai gái người Pháp nhầm TG là KĐ.


- Dân chúng Pháp nhầm những người VN trên đất Pháp là KĐ


- Chính phủ Pháp nhầm những người An Nam trên đất Pháp đều là KĐ
=> 3 tình huống liên tiếp tăng cấp


* ý nghĩa:


- Thể hiện thái độ khách quan của người kể chuyện


- Tình huống như đùa như bịa làm tăng tính hài hước khiến cho KĐ hiện lên càng trở lên lố bịch
như một câu truyện tiếu lâm.


<b>b, Hình thức viết thư:</b>


- Bác viết thư cho cô em họ ở An Nam


* ý nghĩa: tạo được sự gần gũi và khơng khí như thật
-Khiến cho TP hấp dẫn mang dáng dấp một bức thư tình
- Có thể đưa ra những phán đốn giả định.


- Đổi giọng chuyển cảnh kinh hoạt, liên hệ tạt ngang so sánh thoải mái.



</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

- Nghệ thuật làm bấo


- Ngôn ngữ sinh động hấp dẫn đa giọng điệu
- Thể văn trào phúng thâm thuý sâu cay


- Nghệ thuật dựng chân dung độc đáo, miêu tả KĐ mà không cần KĐ xuất hiện.
III<b>. Tổng kết:</b>


- Vi hành thể hiện sức mạnh trong ngòi bút chiến đấu của HCM
- Vi hành cũng thể hiện tài năng văn chương của Bác


__________________


<b>GIẢI ĐI SỚM</b>
<b>(Tảo giải)</b>


<b>Hồ Chí Minh</b>
<b>I.Giới thiệu chung.</b>


Tảo giải là một bài thơ có thể tách thành hai bài tứ tuyệt độc lập và cũng có thể gộp
lại thành một bài thống nhất, trọng vẹn.


<b>II.Phân tích.</b>


<b>1.Khung cảnh đêm chuyển lao (4 câu đầu)</b>


-Thời gian: gà gáy, đêm chưa tan: quá nửa đêm sắp chuyển sang ngày, cảnh vật có
sự hoang vắng, lạnh lẽo bao quanh người tù.



-Cảnh vật: “quần tinh……” : thiên nhiên xuất hiện trong tình cảm gắn bó nâng đở
nhau.


+Đỉnh núi mùa thu: câu thơ đậm ý vị, sắc màu cổ điển.
+So với câu 1, ý thơ có nhiều bất ngờ.


C1 khung cảnh tối tăm, C2 có ánh sáng huyền ảo của trăng sao


C1 người tù lên đường trong cơ đơn, C2 cùng lúc đó, có trăng sao như người bạn khời
hành, chia sẻ: thiên nhiên tri âm.


=>Trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt nhưng tâm hồn nhà thơ CM luôn hướng
tới ánh sáng, sự hoà hợp giữa thiên nhiên và con người: chất thép trong thơ HCM.
-“Chinh nhân …… trận hàn”


+Điệp từ chinh và trận tạo âm hưởng trầm hùng, rắn rỏi và mạnh mẽ cho câu thơ
+Chinh nhân: người đi xa vì lý tưởng, sứ mệnh lớn lao (khác người tù bình thường)
+Nghênh diện: tư thế chủ động.


+Trận trận hàn: từng cơn gió thu lạnh liên tiếp thổi tới.


=> con ngừơi ra đi vì lí tưởng trong hồn cảnh vơ vùng khắc nghiệt vẫn chủ động
sẵn sàng đón nhận: tư thế của một chiến sĩ ý chí kiên cường của một nhà CM lớn.
*Bốn cấu thơ dựng lại bức tranh chuyển lao khi trời chưa sáng, một tiếng gà, một
chịm sao từng cơn gió lạnh và ngừơi tù nơi đất lạ nhưng con người không cô đơn, rất
ung dung vướn lên làm chủ hồn cảnh.


<b>2.Bình minh ngày mới-Tâm hồn thi sĩ.</b>


-Hai câu đầu của khổ thơ thứ 2 mở ra cảnh đẹp chân trời lúc rạng đông: màu trắng


chuyển sang hồng, bóng tối hết sạch.


+So với khổ 1 có sự vận động.


+Thiên nhiên như có cuộc đấu tranh và ánh sáng đã chiến thắng.
+Câu thơ “Hơi ấm……trụ” tạo ra một khung cảnh mới, sức sống mới.


-Con người: “Người đi……nồng” sức sống của thiên nhiên, hơi ấm của đất trời khơi
hứng tâm hồn thi sĩ


<b>III.Kết luận.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

__________________


<b>NHẬT KÍ TRONG TÙ</b>


<i><b>(Ngục trung nhật ký)</b></i>


<i><b>Hồ Chí Minh</b></i>


I.Hồn cảnh sáng tác.


-8/1942 NAQ- HCM trở lại TQ tranh thủ sự ủng hộ của thế giới với cuộc chiến tranh
chống xâm lược. Ngày 29/8/42 tại Túc Vinh Quảng Tây Người bị chính quyền TGT bắt
giam. 13 tháng tù bị giải đi qua 30 nhà lao của 13 huyện thuộc QT, Người st 133 bài
thơ bằng chữ Hán và lấy tiêu đề là Ngục trung nhật kí.


II.Giá trị của tác phẩm.
<b>1.Nội dung.</b>



a.Phản ánh chân thực bộ mặt đen tối của nhà tù & chính quyền phản động Tưởng
Giới Thạch :


-Bắt giam vơ lí người vơ tội: Cháu bé trong nhà lao TD; Gia quyến người bị bắt lính.
-Xã hội bất công vô nhân đạo đày ải người tù dã man: Cấm hút thuốc lá, Tiền vào
<i>nhà giam, Cờ bạc.</i>


-Hình ảnh những người tù ln đói cơm rách áo, tiều tuỵ khổ ải đến chết: Cơm tù,
<i>một người tù cờ bạc vừa chết, Bốn tháng rồi.</i>


b.Bức chân dung tinh thần tự hoạ của HCM: Đại nhân, Đại trí , Đại dũng.(Viên Ưng)
-Tâm hồn lớn:


+Lịng nhân đạo sâu sắc mang tinh thần của giai cấp vô sản ( thương yêu không
phân biệt với người cùng khổ): -Dành tình yêu thương cho mọi kiếp người , c/đ đau
khổ mà Bác gặp trong tù và trên đ/n TQ


-Thương nhớ đất nước và nd Việt Nam đang sống trong cảnh nơ lệ: Om nặng , khơng
<i>ngủ được, Tức cảnh….</i>


+Tình yêu thiên nhiên nồng nàn, sâu sắc : TN trong thơ sinh động có hồn , gửi gắm
tâm sự & thể hiện tâm hồn Bác.


+Yêu tự do tha thiết đấu tranh suốt đời cho tự do của nd: Bị hạn chế.
-Trí tuệ lớn ; tầm tư tưởng lớn:


+Nhận thức quy luật cuộc sống theo hướng biện chứng tích cực:


+Tầm nhìn khái quát, tổng kết được những bài học quý trong cuộc sống và trong đấu
tranh: Học đánh cờ, Nghe tiếng giã gạo, Đi đường.



-Dũng khí lớn:


+Giữ vững tinh thần ý chí CM,kiên cường trong mọi hồn cảnh gian khổ.


+Tinh thần lạc quan vượt mọi kkhó khăn trước mắt: Ngắm trăng, Trên đường đi, Giải
<i>đi sớm.</i>


=>HCM là một tâm hồn yêu nước, một tấm lòng nhân đạo lớn, một cốt cách nghệ sĩ
lớn.


<b>2.Nghệ thuật:</b>


Tập thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc & phong cách độc đáo của HCM.
a.Thơ bác bình dị mà sâu sắc: Lính gác khiêng lợn đi cùng, Nghe tiếng giã gạo.
b.Cổ điển và hiện đại.


-Cổ điển.


+Đề tài( lên núi , Đi đường..)


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

-Hiện đại:


+HT thơ vận động hướng tới sự sống , ánh sáng & tương lai.
+Con người trong quan hệ TN là c/sĩ.


</div>

<!--links-->

Gián án Mach dien xoay chieu chi co tu dien cuon cam
  • 15
  • 545
  • 3
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×