Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Giải pháp cho việc dạy học câu ghép tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.49 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>GIẢI PHÁP CHO VIỆC DẠY HỌC CÂU GHÉP TIẾNG VIỆT Ngô Thị Minh∗ 1. Trong bất kỳ giáo trình hoặc các tài liệu viết về cú pháp tiếng Việt ñều ñề cập ñến vấn ñề câu ghép. ðây là một loại câu theo cấu tạo ngữ pháp, có từ hai nòng cốt chủ- vị trở lên; giữa các vế câu có mối quan hệ chính phụ hoặc ñẳng lập với nhau. Từ tiêu chí này chia làm hai loại câu ghép là câu ghép chính phụ và câu ghép ñẳng lập. Khi chia nhỏ các tiểu loại câu ghép, nếu căn cứ trên mối quan hệ ý nghĩa lô gich của các vế câu, người ta chia câu ghép thành những loại khác nhau. Chẳng hạn như câu ghép ñiều kiện (kiểu câu ghép có cấu trúc: Nếu A thì B, Hễ A thì B), câu ghép nguyên nhân- kết quả, (Vì A nên B; Do A nên B), câu ghép nhượng bộ (Tuy A nhưng B), câu ghép tăng tiến (Càng A càng B)… Trong bài viết này chúng tôi khảo sát một số kiểu câu ghép có cấu trúc: Nếu A thì B Cứ A thì B Hễ A thì B đã A thì B Giá A thì B Nếu như A thì B Phải chi A thì B Bao giờ A thì B Thà/ chẳng thà A còn hơn B Không/ Chẳng A thì cũng B Không phải/ Chẳng phải/ Chả phải A mà là B (Chắc chắn) A chứ không phải B Những tưởng/ Tưởng rằng A nào ngờ B … Nhóm câu ghép trên thường có hai vế tồn tại trong mới quan hệ hô ứng với nhau. Sự xuất hiện các cặp tác tử tình thái như Nếu- thì, Giá- thì; Phải chi- thì… thể hiện mối quan hệ hệ chặt chẽ giữa hai vế của loại câu ghép này. 2. Vai trò của các cặp tác tử trong câu ghép tiếng Việt 2.1 Sự tác ñộng của các tác tử tình thái trong việc hình thành ngữ nghĩa của câu ghép tiếng Việt Sự hiện diện của các cặp tác tử tình thái nói trên là một ñặc ñiểm nổi bật trong một số câu ghép tiếng Việt. Nếu xét trên bề mặt cú pháp thì các tác tử chỉ có vai trò tổ chức liên kết các vế câu. Còn nếu xét nghiêm ngặt từ góc ñộ người nói cũng tức là chủ thể tình thái khi sử dụng các cặp tác tử này, thì chúng là phương tiện tác ñộng vào việc hình thành các ñặc ñiểm ngữ nghĩa của câu ghép. Các tác tử không chỉ có vai trò liên kết các bộ phận phát ngôn mà cùng với khung nghĩa mệnh ñề, chúng còn là nhân tố ñể hình thành các nội dung ý nghĩa tình thái khác nhau. Các nội dung ý nghĩa tình thái ñó là: - Người nói ñánh giá về tính chân thực hay không chân thực của phát ngôn. - Người nói ñánh giá về giá trị tiêu cực, tích cực; tốt, xấu; nên hay không nên của người nói ñối với nội dung mệnh ñề.. ∗. TS, Trường Cao ñẳng Sư phạm, Nha Trang. 241.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Người nĩi khẳng định, phủ nhận, bác bỏ, hay cịn nghi ngờ, ước đốn về các sự kiện, sự tình trong phát ngôn. 2.1.1 Các cặp tác tử Chắc chắn A chứ không phải B; Không phải A mà là B; Không A thì cũng B là phương tiện ñể người nói cam kết về tính chân thực, tính ñúng ñắn trong câu ghép tiếng Việt. Chẳng hạn từ tình huống giao tiếp sau: A: Chính anh nói ñiều này có phải không? B: Không phải tôi nói mà là nó (Nam) nói. Và : A: Chính anh nói ñiều này có phải không? B: Nó nói chứ không phải tôi. Các tác tử không phải – mà là/ chứ không phải trong ví dụ trên hiện diện trong phát ngôn như các tiêu ñiểm có tác dụng bác bỏ sự tình mà người nói ñề cập ñến trong câu. Sự có mặt của tác tử mà trong phát ngôn thứ nhất có tác dụng biểu thị sự khẳng ñịnh sự tình của vế câu thứ hai, sau khi người nói ñã bác bỏ sự tình thứ nhất, còn chứ biểu thị ñiều sắp nêu ra phủ ñịnh khả năng ñiều ngược lại với ñiều vừa nói. 2.1.2 Hoặc chúng ta có thể khảo sát cặp tác tử Thà/ chẳng thà - còn hơn trong phát ngôn: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh) Người nói trong phát ngôn trên có sự ñánh giá ngầm ẩn giữa hai sự kiện: - Thà hy sinh tất cả - Hay chịu làm nô lệ, chịu mất nước Người nói chọn “thà hy sinh tất cả” vì xét ñến cùng giải pháp này vẫn mang tính tối ưu hơn B. B còn tệ hại hơn. Xét vai trò của cặp tác tử này, Lê đông cho rằng: ngữ nghĩa của cấu trúc nàu ñược biểu hiện qua sự ñánh giá hai bậc cảu người nói. Ở bậc một, chủ ngôn giả thiết về một tình huống xấu nhất, tiêu cực nhất (A) có thể xảy ra, có thể phải gánh chịu, nếu không (B). Có nghĩa là người nói ñánh chập nhận A trong trường hợp bất ñắc dĩ, không thể khác ñược chứ không chấp nhận B, vì B còn xấu hơn, tiêu cực hơn A. Còn ở bậc hai, sự ñánh giá ñược thể hiện một cách ngầm ẩn từ bậc một. Có nghĩa là người nói nêu lên sự quyết tâm của mình ở mức ñộ cao nhất. mạnh mẽ nhất. 2.1.3 Khi sử dụng một số phát ngôn có cấu trúc câu ghép Giá A thì B, Phải chi A thì B, Nếu A thì B, Bao giờ A thì B, Ước gì A thì B người nói thường bày tỏ sự giả ñịnh hiện thực và sự mong muốn nào ñó ñối với ñiều ñược nói trong phát ngôn Chẳng hạn: Nếu mưa nắng thuận hòa thì lúa năm nay ñược mùa. Phát ngôn trên có hai vế. Vế thứ nhất, người nói ñưa ra ñiều giả ñịnh về thời tiết và ñiều giả ñịnh này có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Từ “Nếu” là dấu hiệu cho ta biết ñiều ñó. Còn vế thứ hai có thể xem như kết quả của ñiều người nói giả ñịnh sẽ xảy ra. Tình thái giả ñịnh này còn có thể tìm thấy trong những phát ngôn có cấu trúc: Bao giờ A thì B “Bao giờ rau diếp làm ñình Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta Bao giờ chạch ñẻ ngọn ña Sáo ñẻ dưới nước thì ta lấy mình” (Ca dao) Hoặc trong cấu trúc Giá A thì B: (1) Giá nó học chăm thì không ñến nỗi thi hỏng. (ðâu phải ân hạn như bây giờ!) (2) Giá mẹ nó còn sống thì nó ñâu phải khổ. (Tôi trông nó thật tội nghiệp!). 242.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> (3) Giá có ñủ tiền tôi ñã ñổi ñược nhà. (Có ñâu phải ở ẩm thấp như thế này!) Mỗi phát ngôn ñều có sự ñánh giá của người nói. Xuất phát từ một ý ñồ giao tiếp người nói lựa chọn cấu trúc của phát ngôn ñể chuyển tải ý ñịnh thể hiện, làm sao ñạt hiệu quả cao nhất trong giao tiếp. Sự tiếc rẻ, ước muốn, ân hận của người nói không thể hiện tường minh trong phát ngôn nhưng người nghe sẽ nhận diện ñược ý nghĩa tình thái này qua tầng nghĩa ngầm ẩn. Tác tử Giá là tâm ñiểm ngữ nghĩa ñể các ñối tác nhận hiểu và có cách ứng phó trong những ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. 2.2 Vai trò của các cặp tác tử ñối với việc hình thành các ñặc ñiểm ngữ dụng của câu ghép tiếng Việt Ngữ nghĩa của phát ngôn có liên quan ñến các nhân tố ngữ cảnh, vai trò của các ñối tác tham gia giao tiếp. Mỗi phát ngôn là một chiến lược hành ngôn của người nói, xuất phát từ một ý ñồ giao tiếp có trước. Trong cấu trúc câu ghép, sự hiện diện của các tác tử tình thái có vai trò ñịnh hướng, phân bố, ñiều tiết sự chú ý của người ñối thoại. 2.2.1 Vai trò ñịnh hướng ngữ dụng của các cặp tác tử trong câu ghép tiếng Việt Các tác tử hiện diện trong câu ghép không chỉ có vai trò tác ñộng ñến việc hình thành ngữ nghĩa tình thái mà còn có vai trò tổ chức các hành vi ngôn ngữ trong phát ngôn. Chẳng hạn: Không phải mẹ cấm con ñá banh mà là bố cấm. Tác tử không phải trong phát ngôn trên có vai trò bác bỏ lại ñiều người nhận có thể nói hoặc nghĩ không ñúng. Nó có chức năng siêu ngôn ngữ ñể ñiều chỉnh quá trình giao tiếp thực hiện ñúng ý ñồ của người nói. Khái niệm siêu ngôn ngữ ở ñây ñược hiểu là “một loại ngôn ngữ mà người ta lấy làm phương tiện ựể nói về một thứ ngôn ngữ khác ựóng vai trò là ựối tượngỢ (Lê đông). Theo Jakobson, siêu ngôn ngữ là một trong những chức năng của ngôn ngữ. Và bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có những phương tiện siêu ngôn ngữ ñể tạo lập ngữ nghĩa của phát ngôn. Một trong những phương tiện ñó là hệ thống hư từ, có thể ñóng vai trò là tác tử (operators), tồn tại trong phát ngôn. Theo hướng này các cặp tác tử trong cấu trúc câu ghép: Nếu A thì B; Không những A mà còn B; Chẳng phải A mà là B có thể ñược gọi là siêu ngôn ngữ, có vai trò hướng dẫn người ñối thoại nhận hiểu ñược ý nghĩa của phát ngôn và có thể ngăn những phản hồi không cần thiết. 2.2.2 Vai trò của các cặp tác tử tạo nên lập luận trong câu ghép tiếng Việt Tổ chức hình thức phát ngôn như hình thức của lập luận là một trong những ñặc ñiểm của một số loại câu ghép tiếng Việt. Trong ñó, có bộ phận phát ngôn ñóng vai trò là tiền ñề; có bộ phận là luận cứ và có bộ phận giữ vai trò kết luận. Các tác tử tình thái tham gia vào tổ chức của câu ñể ñịnh hướng lập luận cho những người tham gia hoạt ñộng giao tiếp. Cặp tác tử Nếu- thì có vai trò tổ chức lập luận của phát ngôn: “Chúa giúp tôi, nếu không thì chẳng có chúa” Thực tế thì chẳng có chúa. Người nói ñưa ra ñiều kiện này ñể biểu hiện một sự ao ước, mong muốn nào ñó. Do vậy. lý lẽ người nói mang tính chủ quan, không có tính chuẩn mực. Và hình thức suy luận ngôn ngữ cũng không phải là hình thức suy luận mang tính lô gich hình thức. Nó là suy luận siêu ngôn ngữ, biểu hiện các ý ñồ giao tiếp của người nói. Nếu căn cứ vào sự suy luận thông thường, thì hai phát ngôn sau có thể mâu thuẫn nhau:. 243.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> (1) “Thà rằng ăn nửa quả hồng Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè.” (Ca dao) (2) “Thà rằng ăn một quả sung Còn hơn ăn nửa trái hồng dở dang” (Ca dao) Cả hai phát ngôn ñều có thể chấp nhận ñược. Một bên, người nói dựa trên sự ñánh giá chất lượng ñể ñề cao chất lượng (quả hồng). Dù số lượng ít, chỉ có nửa quả nhưng hồng là một loại trái cây ngon. Người nói thà chọn nửa quả hồng hơn là chọn cả chùm sung chát lè. Ngược lại ở câu ca dao thứ hai, người nói không dựa trên sự ñánh giá số lượng (“một quả sung”) mà lại ñề cao tính trọn vẹn và sở hữu ñộc lập (“còn hơn nửa quả hồng dở dang”) trong hàm ý so sánh hoàn cảnh với những vấn ñề tế nhị khác của hiện thực. Chẳng hạn, người phụ nữ phải cảnh làm lẽ trong thơ Hồ Xuân Hương: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” sẽ chọn phát ngôn (2) ñể thể hiện ao ước của mình. Như vậy, mức ñộ chân thực của phát ngôn không phụ thuộc vào chân lý khách quan mà phụ thuộc vào trạng thái ñánh giá chân thực hay không chân thực của người nói. 3. Giải pháp cho việc dạy học câu ghép trong tiếng Việt Dạy học về câu trong quá trình tiếp nhận và tạo lập văn bản cho người học là vấn ñề rất quan trọng. Trong tiếng Việt, câu ghép có cương vị riêng, nó tham gia vào hoạt ñộng ngôn ngữ ñể thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp khác nhau, ñể ñáp ứng nhu cầu giao tiếp nào ñó của con người. Như ở phần trên chúng ta ñã khảo sát, một trong những ñặc ñiểm hết sức quan trọng của câu ghép là sự hiện diện của một số cặp tác tử tình thái. Chúng vừa là phương tiện tổ chức kiên kết các hành vi ngôn ngữ trong phát ngôn vừa là phương tiện ñể biểu thị ý nghĩa tình thái. Sự có mặt của chúng trong câu tạo nên một giá trị ngữ nghĩa- ngữ dụng cho câu ghép. Chính vì vậy khi nghiên cứu, khảo sát câu ghép tiếng Việt nhất thiết chúng ta cần chú ý ñến vai trò của của các cặp tác tử này. Cách tiếp cận về câu theo xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ trong cơ chế mở hiện nay, cần ñặt câu trong mối quan hệ của ba bình diện: Kết học, nghĩa học và dụng học. Có thể chia sẻ ý kiến với ðỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán về mối quan hệ của ba bình diện của câu như sau: “Khi nghiên cứu một câu (một diễn ngôn), người nghiên cứu trước hết nghiên cứu nó về mặt kết học, thành tựu ở mặt kết học sẽ ñược ñưa vào nghiên cứu ở mặt nghĩa học, thành tựu ở mặt nghĩa học sẽ ñược ñưa vào nghiên cứu mặt dụng học”. Trong thực tế ba mặt này có mối quan hệ tích hợp nhau, chi phối lẫn nhau, ñiều chỉnh nhau ñể cho ta một câu (phát ngôn, diễn ngôn) tự nhiên nằm trong cuộc sống giao tiếp của ngôn ngữ.” [3, 229] Tính tích hợp giữa ba bình diện của câu nói trên là cơ sở ñể chúng ta chú ý tính ña chiều khi phân tích câu: “Một chiều là sự phân tích thường thấy trong phân tích thành phần câu. Còn những chiều khác (ñúng ra là những mặt phẳng khác) nghiên cứu sự vận ñộng của tình thái tính với các khái niệm phân tích câu theo mục ñích chức năng hay các khái niệm hồi cổ, tiền giả ñịnh, hàm ngôn, thái ñộ của người nói với phát ngôn và…, kể cả các tác nhân tạo câu trong nằm trong khung cấu trúc luận ñơn thuần” [4,122] Theo hướng phân tích câu này, nếu ở chiều thông thường, cần chú ý các phương tiện ngữ pháp như trật tự từ, hư từ ñể tổ chức các thành phần của phát ngôn, thì ở chiều kia lại. 244.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> chú ý ñến nội dung tình thái do những tác tử tham gia vào cấu trúc biểu hiện, tạo nên nghĩa thực của câu nói. Chẳng hạn như cách phân tích câu ghép sau: “Không ñược dùng tôi cũng làm, hất hủi tôi, tôi vẫn làm, nếu không chỉ còn một nước là chờ chết” (Nguyễn Khải. “Thời gian của người” trang 73) Trước tiên cần phân tích phát ngôn với các phương tiện ngữ pháp thể hiện trên bề mặt câu như phương tiện hự từ, trật tự từ…; thực tế là những phương tiện ngữ pháp tổ chức các thành phần phát ngôn. Ta nhận thấy phát ngôn trên có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất: “Không ñược dùng tôi cũng làm, hất hủi tôi, tôi vẫn làm” Bộ phận thứ hai: “nếu không chỉ còn một nước là chờ chết” Hai bộ phận này ñược phối hợp chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa. Bộ phận trước là kết quả, bộ phận thứ hai là tiền ñề, là ñiều kiện. Trật tự sắp xếp bộ phận thứ nhất của câu trong câu ghép trên không tuân thủ theo trật tự thông thường : Nếu A thì B. Ở ñây có thể xuất phát từ ý ñồ của người nói. Họ muốn bộc lộ sự quyết tâm thực hiện việc gì ñó qua trật tự sắp xếp, qua cách sử dụng các tác tử “cũng”, “vẫn”, “ nếu không”. Ngược lại trong quá trình tạo lập câu, cần lưu ý: các thao tác phân tích câu luôn luôn ñi ngược với quá trình tạo câu của người nói. Thông thường khi phát ngôn, người nói xuất phát từ mục tiêu giao tiếp, sau mới chọn hình thức thể hiện. còn người phân tích thường ñi từ hình thức thể hiện, rồi từ hình thức thể hiện ñó vận dụng vào phân tích nội dung ngữ nghĩa của câu. ðiều này ñã ñược Cao Xuân Hạo khẳng ñịnh: “Công việc của nhà ngôn ngữ học dừng lại ở cái gì biểu hiện bằng những phương tiện ngôn ngữ hoặc những gì có thể suy ra từ những cái ñó (có thể kể cả những tình huống, những văn cảnh, những cảm xúc hay ẩn ý của người nói)” [7,39] 4. Kết luận Dạy học về câu không tách khỏi quá trình dạy tiếng. Nó có mối quan hệ qua lại, tương tác với các nội dung khác như dạy học về ngữ âm, về từ ngữ hay dạy cách tạo lập, tiếp nhận văn bản. Cũng như các nội dung dạy tiếng khác nhau, dạy học về câu với mục ñích cuối cùng là ñể người học biết nói, viết, nghe, ñọc ñúng câu với tư cách là diễn ngôn trong giao tiếp. Có nghĩa là tạo lập và rèn luyện cho người học những kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong những môi trường giao tiếp khá ña dạng trong cuộc sống. ðiều này ñòi hỏi các nhà ngôn ngữ học, Việt ngữ học và hơn ai hết là các nhà giáo luôn xuất phát từ mục tiêu ñó, ñưa các vấn ñề lý thuyết gần hơn với thực tế, gắn với nhu cầu của người học. Từ ñó, sẽ ñạt ñược mục tiêu dạy học, cũng là ñóng góp công sức vào quá trình giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tài liệu tham khảo 1. Diệp Quang Ban (1989) Ngữ pháp tiếng Việt. Tập 1, tập II. ðại học và THCN. HN 2. Diệp Quang Ban (2005) Ngữ pháp tiếng Việt. Giáo dục. HN 3. ðỗ Hữu Châu- Bùi Minh Toán (1993) ðại cương ngôn ngữ học. Giáo dục. Hà Nội 4. Hoàng Cao Cương (1998) ðề nghị một giải pháp phân tích câu tiếng Việt theo ña chiều. Trích trong “Tiếng Việt & ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”. Viện Ngôn ngữ học. Hà Nội 5. Nguyễn ðức Dân (1998) Lô gich và Tiếng Việt. Giáo dục. TP Hồ Chí Minh 6. Lê đông (1992) Ngữ nghĩa- ngữ dụng của hư từ tiếng Việt: Siêu ngôn ngữ và hư từ tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ (2) 7. Cao Xuân Hạo (1991) Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Quyển I. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. TPHCM. 245.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 8. Nguyễn Lai (1994) Về mối quan hệ giữa phạm trù ngữ nghĩa và ngữ pháp trong tiếng Việt. In trong “Một số vấn ñề ngôn ngữ học hiện ñại” Khoa học xã hội. HN 9. Hoàng Huy Lập (1995) Sự tham gia của hư từ cú pháp vào việc hình thành ngữ nghĩa của câu tiếng Việt. Luận án PTS. HN 10. Ngô Thị Minh (2001) Một số phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong câu ghép tiếng Việt. Luận án TS. HN 11. Hoàng Trọng Phiến (1983) Ngữ pháp tiếng Việt- Câu. ðH. HN 12. Nguyễn Anh Quế (1986) Hư từ trong tiếng Việt hiện ñại. KHXH. HN 13. Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp (1998) Thành phần câu tiếng Việt. ðHQGHN 14. Lê Quang Thiêm (1994) Nhận xét về ngữ nghĩa của một kiểu câu tiếng Việt. TCNN (4). 246.

<span class='text_page_counter'>(7)</span>

×