Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

CÁC NGUYÊN TỐ DINH DƯỠNG VÀ PHÂN BÓN VI LƯỢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.27 KB, 30 trang )

CHƯƠNG 7
CÁC NGUYÊN TỐ DINH DƯỠNG VÀ PHÂN BÓN VI LƯỢNG
BÀI 1: CÁC NGUYÊN TỐ DINH DƯỠNG VÀ
PHÂN BÓN VI LƯỢNG
I. Các nguyên tố vi lượng trong đất
Cũng như với bất kỳ một chất dinh dưỡng cây trồng khác, khả năng hữu dụng đối với
cây trồng của các nguyên tố vi lượng cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố của đất. Trong
các yếu tố của đất, pH dung dịch đất và hàm lượng chất hữu cơ trong đất có tầm ảnh hưởng
rất quan trọng đến khả năng hữu dụng của các chất dinh dưỡng nói chung và các nguyên tố vi
lượng nói riêng. Các tiến trình có liên quan đến sự phong hóa các tinh khóang trong đất hay
sự phân giải các dư thừa hữu cơ, và sự hấp thu các cation vi lượng của cây trồng được trình
bày tổng qt trong hình sau. Trong đó các phức chất (hay chelate) dạng hòa tan được tiết ra
từ rễ cây hoặc được hình thành từ quá trình phân giải các dư thừa hữu cơ, nên làm gia tăng tốc
độ vận chuyển các nguyên tố vi lượng từ đất đến bề mặt rễ. Sự hiểu biết của chúng ta còn hạn
chế về các tiến trình hấp thu dinh dưỡng của cây trồng, ví dụ như các phức chất bị phá vỡ và
sự giải phóng nguyên tố vi lượng như thế nào ngay thời điểm chúng được rễ cây hấp thu.
Ngoài ra, dòng chảy khối lượng và khuếch tán là động lực chính tạo nên sự di chuyển của các
ion vi lượng từ dung dịch đất đến rễ cây trồng chúng ta cũng chưa thật sự hiểu rõ.
II Các nguyên tố dinh dưỡng vi lượng
2.1 Sắt (Fe)
Fe chiếm khoảng 5 % vỏ quả đất và là nguyên tố có hàm lượng cao thứ 4 trong thạch
quyển. Các khóang Fe nguyên sinh và thứ sinh thường hiện diện trong đất là olivene
[(Mg,Fe)2SiO4], pyrite (FeS), siderite (FeCO3), hematite (Fe2O3), goethite (FeOOH),
magnetite (Fe2O4), và limonite [FeO(OH).nH2O + Fe2O3.nH2O. Hàm lượng Fe trong đất rất
biến thiên, có thể tập trung với hàm lượng rất cao hoặc với một hàm lượng rất thấp trong quá
trình phát triển của đất; nồng độ Fe trong đất biến động từ 0,7 – 55 %. Phần lớn Fe trong đất
hiện diện trong các khóang ngun sinh, khống sét, các khống oxides, và hydroxides.
Sự thiếu Fe trong cây trồng đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Sự thiếu Fe thường xảy
ra đối với các loại cây mẫn cảm với sự thiếu Fe trồng trên đất có pH cao. Sự thiếu Fe cũng
thường xảy ra trên các loại cây ăn quả trồng trên đất kiềm có hàm lượng Ca cao, trên cả đất
cát, hay hữu cơ. Sự thiếu Fe cũng xảy ra trên một số loại đất có hàm lượng Mn hữu dụng cao.


2.1.1 Các dạng Fe trong đất
Fe hiện diện dưới 4 dạng chính trong đất: (1) Fe trong các khống nguyên sinh và thứ
sinh, (2) Fe hấp phụ bề mặt, (3) Fe hữu cơ, và Fe trong dung dịch. Chu trình của Fe trong đất
tương tự với chu kỳ các nguyên tố vi lượng khác trong đất và sẽ được trình bày trong bài này.
Nghiên cứu các mối quan hệ và động thái giữa các dạng này là điều rất cần thiết để có biện
pháp quản lý nhằm hạn chế sự thiếu Fe trong cây trồng trên các loại đất thiếu Fe.
a. Fe trong dung dịch đất
Fe hiện diện trong dung dịch đất chủ yếu là dạng Fe(OH)2+, mặc dù các dạng Fe thủy
phân khác cũng góp phần đáng kể vào tổng lượng Fe trong dung dịch đất. So với các cation
khác trong đất, nồng độ Fe trong dung dịch đất rất thấp. Trên các loại đất oxi hóa (thống khí
1


cao), tiêu nước tốt, nồng độ Fe2+ thấp hơn so với Fe3+ trong dung dịch đất. Phương trình sau
đây diễn tả mối quan hệ phụ thuộc vào pH đối với Fe3+:
Fe(OH)3(đất) + 3H+  Fe3+ + 3H2O
Khi pH tăng 1 đơn vị, nồng độ Fe 3+ giảm 1.000 lần. Nhưng nồng độ Fe 2+ chỉ giảm 100
lần khi tăng 1 đơn vị pH, tương tự tính chất của các cation kim loại hóa trị 2 khác.
Khả năng hịa tan của các khóang Fe trong đất rất chậm, khoảng 10 -6 đến 10-24 Mole
Fe3+ trong dung dịch, khả năng hòa tan phụ thuộc rất lớn vào pH. Khoáng được gọi là “Fe
trong đất” tiêu biểu là một kết tủa Fe(OH) 3 vơ định hình, có thể đây là hợp chất chính kiểm
soát nồng độ Fe trong dung dịch của hầu hết các loại đất.
Sự hấp thu dinh dưỡng
của cây trồng
2

1
Chất hữu cơ và vi
sinh vật


8
7

Dung
dịch đất
6

3
4

Trao đổi và hấp thụ
bề mặt

5

Các khoáng và kết
tủa

Các quan hệ giữa các dạng khác nhau của các nguyên tố vi lượng Fe, Zn, Cu, và Mn trong
đất. Phản ứng 1 và 2: sự hấp thu và thải ra của thực vật; phản ứng 3 và 4: sự hấp phụ và giải
phóng bề mặt; phản ứng 5 và 6: sự kết tủa và hòa tan; và phản ứng 7 và 8: sự khóang hóa và
hấp thu sinh học. Tất cả các quá trình này tương tác với nhau để kiểm soát nồng độ Fe, Zn,
Cu, và Mn trong dung dịch đất.
Các phản ứng oxi hóa khử, thường dẫn đến sự thay đổi hàm lượng O 2 trong đất, và ảnh
hưởng rất lớn đến hàm lượng Fe hịa tan trong dung dịch đất. Dạng Fe 3+ khơng hịa tan chiếm
ưu thế trong đất thóat thủy tốt, ngược lại hàm lượng Fe 2+ hòa tan tăng khi đất bị ngập nước.
Thông thường khi trị số redox giảm, khả năng hòa tan của Fe 2+ sẽ tăng (tăng 10 lần khi giảm
1 đơn vị pe + pH), pe + pH là 1 thuật ngữ dùng để định lượng hóa tình trạng oxi hóa khử của
đất.
Trong phạm vi pH bình thường của đất, tổng hàm lượng Fe trong dung dịch thường

không đáp ứng đủ nhu cầu Fe của cây trồng, ngay cả trên đất chua là loại đất ít xảy ra sự
thiếu Fe hơn so với đất có pH cao và đất đá vôi. Nhưng cần nhớ là trong đất ln có các cơ
chế khác làm tăng sự hữu dụng của Fe đối với cây trồng; nếu khơng có các cơ chế này cây
trồng sẽ bị thiếu Fe trên hầu hết các loại đất.
b. Các chelates
Động thái của chelate
Nhiều hợp chất hữu cơ tự nhiên hiện diện trong đất, hay các hợp chất tổng hợp nhân
tạo được bón vào đất có khả năng tạo phức hay tạo chelate với Fe và các nguyên tố vi lượng
2


kim loại khác. Nồng độ Fe trong dung dịch và hàm lượng Fe được vận chuyển đến rễ bằng
dòng chảy khối lượng và khuếch tán có thể gia tăng đáng kể thông qua sự tạo phức của Fe với
các hợp chất tạo chelate hữu cơ tự nhiên trong đất. Tốc độ khuếch tán của Fe đến rễ cây cao
lương gia tăng do nồng độ Fe hòa tan cao.
Chelate là từ có nguồn gốc tiếng Hy lạp, có nghĩa là bám vào. Chelate là các hợp chất
hữu cơ hòa tan tạo nối hóa học với các kim loại như Fe, Zn, Cu, và Mn, làm tăng khả năng
hòa tan và di chuyển nên làm tăng khả năng cung cấp các nguyên tố kim loại cho rễ cây trồng.
Các chelate hữu cơ tự nhiên là sản phẩm của các hoạt động vi sinh vật và sự phân giải chất
hữu cơ và các dư thừa thực vật trong đất . Các chất được tiết ra từ rễ thực vật cũng có khả
năng tạo phức với các nguyên tố vi lượng.
Có một hàm lượng đáng kể các phức Fe hữu cơ có thể được luân chuyển thông qua
dư thừa thực vật, Fe trong dư thừa này sẽ kéo dài sự hữu dụng cho cây trồng về sau. Rất nhiều
chelate hữu cơ tự nhiên chưa được xác định, tuy nhiên các hợp chất như citric và oxalic acids
được xác định là có tính chất của 1 chelate.
Động thái của chelate làm tăng khả năng hòa tan và vận chuyển của các nguyên tố vi
lượng được giải thích như sau: trong thời điểm rễ đang hấp thu, nồng độ của chelate Fe hay
của các nguyên tố vi lượng khác trong dung dịch luôn cao hơn nồng độ của chúng tại bề mặt
rễ; vì vậy chelate Fe sẽ được khuếch tán đến bề mặt rễ do chênh lệch nồng độ. Ở bề mặt rễ,
nối hóa học của chelate được phá vỡ hay Fe3+ sẽ phân ly từ các chelate do một cơ chế nào đó

chúng ta chưa hiểu rõ. Sau khi Fe phân ly từ chelate, thành phần hữu cơ sẽ trở nên “tự do”
(chúng ta sẽ gọi là chelate tự do) và sẽ khuếch tán trở lại vào dung dịch đất cũng do sự chênh
lệch về nồng độ (nồng độ chelate tự do gần rễ > chelate tự do trong dung dịch đất). Các
chelate tự do sau đó sẽ lại tạo phức với các ion Fe khác trong dung dịch. Khi nồng độ Fe 3+
không tạo chelate trong dung dịch giảm do sự tạo chelate, Fe sẽ được giải phóng từ các bề
mặt khống ngun sinh, thứ sinh hay do khoáng sét phân ly để tái cung cấp Fe cho dung
dịch. Chu trình chelate-vi lượng là một cơ chế cực kỳ quan trọng trong đất góp phần rất lớn
tạo nên sự hữu dụng của Fe và các nguyên tố vi lượng khác đối với cây trồng.
Tính ổn định của chelate tổng hợp
Trong đất, các chelate tổng hợp khi được bón vào sẽ có tính chất tương tự như các
chelate hữu cơ tự nhiên, và các chelate tổng hợp được dùng sản xuất phân bón vi lượng và
phân tích các ngun tố vi lượng trong đất. Vì vậy, việc nghiên cứu tính chất hóa học của
chelate là việc rất quan trọng để quản lý tốt các nguyên tố vi lượng trong đất. Các chelate
quan trọng dùng trong nông nghiệp được liệt kê trong bảng sau. Sự lựa chọn chelate nào để
làm phân bón hay phân tích đất phụ thuộc vào (1) loại nguyên tố vi lượng và (2) tính bền của
các chelate trong đất.
Khi một chelate tổng hợp hay tự nhiên được bón vào đất, chúng nhanh chóng tạo phức
với các cation hiện diện trong dung dịch đất. Ví dụ, 2 acid hữu cơ tự nhiên là citric và oxalic
acid, sẽ tạo phức với Al3+ ở pH thấp, nhưng khi pH tăng lên > 5 - 6, Ca 2+ và/hay Mg2+ sẽ được
tạo phức dễ dàng hơn so với Al3+. Chú ý là citric acid khơng có hiệu quả trong sự tạo phức với
Fe trong dung dịch. DTPA và EDTA dễ dàng tạo chelate với Fe ở pH<7 và pH<6,5 tương ứng,
ngược lại khi pH lớn hơn các giá trị này, Ca sẽ thay thế Fe trong cả hai chelate trên. Vì vậy,
trên đất đá vơi và đất trung tính, Ca sẽ chiếm ưu thế trong các chelate tổng hợp ngoại trừ đối
với EDDHA. Chelate EDDHA có cường độ tạo phức rất mạnh với Fe và bền vững trong một
phạm vi pH rộng. Từ kết quả này, nên Fe-EDDHA được dùng tạo chelate với Fe và làm phân
bón Fe phổ biến do ái lực của EDDHA đối với Fe rất mạnh. Ví dụ, khi bón Fe-EDTA, FeDTPA, và Fe-EDDHA vào đất, chelate EDDHA cung cấp Fe cho cây nhiều hơn các chelate
khác.

3



Bảng 7.1 Cơng thức hóa học của 1 số chelate tự nhiên và tổng hợp phổ biến
Các chelate phổ biến
Ethylenediaminetetraacetic acid
Diethylenetriaminepentaacetic acid
Cyclohexanediaminetetraacetic acid
Ethylenediaminedi-o-hydroxyphenlyacetic acid
Hydroxyethylenediaminetriacetic acid
Nitrilotriacetic acid
Ethylene glycol bis(2-aminoethyl ether)tetraacetic
acid
Citric acid
Oxalic acid
Pyrophosphoric acid

Công thức
C10H16O8N2
C14H23O10N3
C14H22O8N2
C18H20O6N2
C10H18O7N2
C6H9O6N
C14H24O10N2

Viết tắt
EDTA
DTPA
CDTA
EDDHA
HEDTA

NTA
EGTA

C6H8O7
C2H2O4
H4P2O7

CIT
OX
P2O7

Triphosphoric acid

H5P3O10

P3O10

2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng của Fe
Nguyên nhân gây ra sự thiếu Fe của cây trồng trước tiên có liên quan đến Fe tổng số
trong đất thấp. Như đã thảo luận, do khả năng hịa tan các khống Fe trong đất thấp dẫn đến
nồng độ Fe trong dung dịch rất thấp.
pH đất, Bicarbonate và Carbonate trong đất
Sự thiếu Fe thường gặp trên đất đá vơi và đất có pH cao trong vùng khơ hạn, nhưng
cũng có thể xảy ra trên đất chua có hàm lượng Fe tổng số thấp. Nước tưới có chứa
bicarbonate HCO3- cũng có thể làm gia tăng sự thiếu Fe, có thể là do có sự tích lũy HCO3- làm
pH cao. pH của hầu hết các loại đất có chứa CaCO3 thường nằm trong khoảng 7,3 - 8,5, trùng
hợp với tỉ lệ thiếu Fe lớn nhất và khả năng hòa tan của Fe trong đất thấp nhất. Ion bicarbonate
cũng có thể được hình thành trên đất đá vôi do phản ứng sau:
CaCO3 + CO2 + H2O  Ca2+ + 2HCO3Mặc dù chỉ có sự hiện diện của vôi không đủ yếu tố để gây ra sự thiếu Fe, nhưng sự
tương tác của chúng với một số điều kiện mơi trường lại có quan hệ với sự thiếu Fe.

Ảnh hưởng của nước và độ thống khí
Phản ứng nêu trên sẽ gia tăng do sự tích lũy CO2 trong các loại đất ngập nước hay
thoát thủy kém. Nên đất đá vơi, có cấu trúc nặng, và bị nén chặt sẽ có tiềm năng thiếu Fe cao.
Bệnh vàng lá do thiếu Fe thường đi đôi với thời tiết lạnh, mưa, ẩm độ đất cao và độ thống
khí của đất kém.
Trong trường hợp đất ngập nước nhưng khơng có sự hình thành HCO3-, khả năng hữu
dụng của Fe có thể được cải thiện do sự gia tăng nồng độ Fe2+ khi đất bị ngập nước. Trong
thực tế đất phát triển trên đá basalt có thể hình thành nồng độ Fe2+ rất cao, đến mức độ gây
độc trong dung dịch đất.
Mặc dù sự thiếu Fe do bón vơi với liều lượng cao thường xảy ra trên đất ẩm ướt,
nhưng đất đá vôi vùng bán khơ hạn có hàm lượng chất hữu cơ thấp cũng thường có lượng Fe
hữu dụng cho cây thấp. Đặc biệt điều này thường xảy ra trên các phần đất bị xói mịn nơi lớp
đất giàu hữu cơ đã bị mất đi, phơi bày tầng đất đá vôi ra ngồi. Xây dựng bờ, kênh trên đồng
ruộng cũng có thể phơi bày lên trên mặt tầng đất đá vôi bên dưới có hàm lượng Fe thấp.

4


Chất hữu cơ
Đất thốt thủy tốt khi bón chất hữu cơ có thể cải thiện khả năng hữu dụng của Fe. Các
chất hữu cơ như phân chuồng có thể cung cấp các chất tạo chelate giúp duy trì khả năng hịa
tan của các ngun tố vi lượng. Bón phân hữu cơ cho đất có sa cấu mịn sẽ được cải thiện cấu
trúc đồng thời làm gia tăng khả năng hữu dụng của Fe do độ thống khí của đất được cải thiện
tốt hơn. Tuy nhiên, khi bón phân hữu cơ có thể trở nên bất lợi do nồng độ CO2 cao và kết hợp
với HCO3- được hình thành do sự hoạt động mạnh của vi sinh vật.
Sự hiện diện của chất hữu cơ có thể làm tăng khả năng hịa tan của Fe 2+ trong đất ngập
nước. Tốc độ khử Fe tăng rất nhanh do bón các chất hữu cơ, thời gian ngập nước càng kéo dài
hàm lượng Fe hòa tan và trao đổi càng tăng.
Sự tương tác với các chất dinh dưỡng khác
Các cation kim loại có thể đối kháng với Fe, gây ra sự thiếu Fe trên cây trồng. Sự

thiếu Fe có thể xảy ra do sự tích lũy Cu sau khi bón nhiều phân có chứa Cu. Dứa ở Hawaii có
biểu hiện vàng lá do thiếu Fe khi trồng trên đất có hàm lượng Mn cao, và các cây khác trồng
trên đất hình thành từ đá serpentine cũng có biểu hiện thiếu Fe do thừa Ni. Sự thiếu Fe trên
đậu nành cũng xảy ra do tỉ lệ Fe/(Cu+Mn) trong cây thấp. Ngoài sự thiếu Fe do thừa Cu, Mn,
Zn, và Mo, sự thiếu Fe cũng có thể do P cao trong 1 số cây trồng, hiện tượng này có thể có
quan hệ đến sự kết tủa của các khống Fe-P, vì vậy cây trồng cũng có thể chịu được đất có
hàm lượng Fe thấp khi hàm lượng P cũng thấp.
Cây trồng được cung cấp với NO3- có thể dễ xảy ra thiếu Fe so với cây dinh dưỡng
bằng NH4+. Vì một anion có tính chua mạnh như NO 3- được hấp thu và được thay thế bằng 1
acid yếu (HCO3-), nên pH vùng rễ tăng, đặc biệt là đối với đất có tính đệm thấp, và làm giảm
sự hữu dụng của Fe. Vì vậy, khả năng hịa tan và hữu dụng của Fe được sẽ gia tăng do độ
chua hình thành khi cây trồng hấp thu NH4+.
Sự thiếu K hay Zn có thể ảnh hưởng đến sự vận chuyển Fe bên trong cây. Khi thiếu 1
trong 2 yếu tố dinh dưỡng này sẽ gây ra sự tích lũy Fe trong thân bắp.
Các yếu tố cây trồng
Mặc dù có sự khuếch tán của cả hai dạng Fe2+ và Fe3+ từ đất đến rễ cây, nhưng Fe3+
thường bị khử thành Fe2+ trước khi được rễ cây hấp thu. Khả năng hấp thu Fe khác nhau tùy
thuộc vào giống cây trồng. Một số cây có thể nằm trong nhiều cấp phân loại do sự khác nhau
của đất, điều kiện sinh trưởng, và khả năng đáp ứng khác nhau của các giống. Vì vậy nên
chọn các giống sử dụng Fe hữu hiệu để trồng trên các loại đất thường xảy ra hiện tượng thiếu
Fe.
2.1.3 Phân tích Fe trong đất
Ứng dụng các quan hệ giữa chelate-nguyên tố vi lượng và tính bền vững của chelate
để phân tích các nguyên tố vi lượng trong đất. Khi EDDHA được bón vào đất, 100% EDDHA
sẽ tạo phức với Fe phạm vi pH khá rộng của đất. Vì vậy, EDDHA là một chất dùng để trích Fe
tốt; tuy nhiên, do Fe-EDDHA có tính rất bền nên rất ít các ngun tố vi lượng khác có cơ hội
tạo phức được với EDDHA. Mặc dù Fe-DTPA không bền như Fe-EDDHA, nhưng các nguyên
tố vi lượng khác (như Zn và Cu) lại khá bền với DTPA, đặc biệt ở pH>7
Nghiên cứu về tính bền của chelate trong đất sẽ cung cấp 1 cơ sở để phát triển việc
phân tích Fe, Zn, Cu, và Mn với DTPA, đây là phương pháp dùng phổ biến trong hầu hết các

phịng phân tích. Sự tương quan giữa kết quả phân tích đất được trích bằng DTPA với sự sinh
trưởng của cây trồng đã được thiết lập, và việc đánh giá tổng quát của các nguyên tố vi lượng
được trích bằng DTPA cũng được thiết lập. Trước khi phát hiện các chelate, phần lớn việc
phân tích vi lượng trong đất dùng 1 dịch trích acid, thường là HCl. Mặc dù một số phịng thí
nghiệm vẫn cịn sử dụng dịch trích là acid, nhưng DTPA vẫn được ưa chuộng và phổ biến
hơn.
5


Bảng 7.2 Tính mẫn cảm của cây trồng đối với đất có hàm lượng Fe thấp
Mẫn cảm
Dây tây
Cam qt
Các loại đậu
Lanh
Cao lương lấy lá
Các cây ăn quả
Nho
Cao lương hạt
Bạc hà
Hoa kiểng
Đậu phộng
Đậu nành
Rau cải

Chống chịu trung bình
Alfalfa
Lúa mạch
Bắp
Bơng vải

Các loại đậu
Các loại peas
Rau ăn lá
Lanh
Cây ăn quả
Cao lương hạt
Họ hòa thảo
Yến mạch
Hoa kiểng
Lúa gạo
Đậu nành
Rau cải
Lúa mì

Chống chịu
Alfalfa
L mạch
Bắp
Bơng vải
Lanh
Họ hịa thảo
Yến mạch

Khoai tây
Lúa gạo
Đậu nành
Củ cải đường
Lúa mì

Khả năng hấp thu và vận chuyển Fe do đặc tính di truyền của cây. Rễ của những cây

hấp thu Fe hữu hiệu có thể tiết ra 1 số chất làm thay đổi môi trường để cải thiện khả năng hữu
dụng và sự hấp thu Fe. Một số phản ứng sinh hóa và trao đổi làm tăng sự hấp thu hữu hiệu Fe
của cây trồng để chống chịu được và thích ứng với sự thiếu Fe như sau:
Tiết các ion H+ từ rễ.
Tiết các hợp chất khử hay chất tạo chelate từ rễ.
Tăng tốc độ khử Fe3+ thành Fe2+ ở rễ .
Tăng các acid hữu cơ, đặc biệt là citrate trong nhựa rễ.
Vận chuyển nhanh Fe từ rễ lên các bộ phận bên trên.
P tích lũy trong rễ và thân thấp, ngay cả khi có sự hiện diện của P với nồng độ cao
trong môi trường sinh trưởng.
2.1.4 Các loại phân Fe và sử dụng
Bệnh vàng lá do thiếu Fe là một trong những bệnh thiếu dinh dưỡng vi lượng khó trị
nhất trên đồng ruộng. Một số chất có chứa Fe được dùng phổ biến để xử lý trong trường hợp
thiếu Fe. Bón trực tiếp phân Fe vào đất thường khơng hiệu quả do sự kết tủa quá nhanh của
phân bón thành Fe(OH)3 khơng hịa tan. Ví dụ, khi FeSO4.7H2O và Fe-EDDHA được bón vào
đất, chỉ có 20 % FeSO4.7H2O được trích ra được với DTPA sau một tuần, so với 70 %
FeEDDHA sau 7 tuần và 26 % sau 14 tuần.
Bảng 7.3 Fe, Zn, Cu, và Mn trích bằng DTPA
Mức độ
Thấp (thiếu)
Ngưỡng thiếu
Cao (đủ)

Fe(ppm)
0 - 2,5
2,6 - 4,5
>4,5

Zn(ppm)
0 - 0,5

0,6 - 1,0
> 1,0

Mn(ppm)
< 1,0
> 1,0

Cu(ppm)
< 0,2
> 0,2

6


Chữa trị sự thiếu Fe chủ yếu được thực hiện bằng cách phun dung dịch có chứa Fe lên
lá. Phun dung dịch 2 % FeSO 4 thường đủ cho trường hợp thiếu Fe nhẹ. Tuy nhiên, cần phun
nhiều lần cách nhau 7-14 ngày trong trường hợp cây bị thiếu Fe nghiêm trọng. Tiêm trực tiếp
các muối Fe vào thân các cây ăn quả rất có hiệu quả để chữa trị bệnh vàng lá do thiếu Fe. Có
thể tiêm ở 200psi (1 psi = 0,069 bar) từ 0,5-2 lít cho một cây ăn quả với 1-2 % dung dịch
FeSO4.
Ngoại trừ FeSO4, phần lớn phân bón có chứa Fe là các chelate. Các chất này đều hịa
tan trong nước và có thể bón vào đất hay phun lên lá. Các chelate Fe được sản xuất dưới dạng
có tác dụng bảo vệ hạn chế các phản ứng tạo Fe(OH)3 khơng hịa tan trong đất.
Bảng 7.4 Các nguồn phân Fe
Nguồn
Ferrous sulfate
Ferric sulfate
Ferrous oxide
Ferric oxide
Ferrous

ammonium
phosphate
Ferrous ammonium sulfate
Iron
ammonium
polyphosphate
Các chelate Fe

Chất hữu cơ tự nhiên

Công thức
FeSO4.7H2O
Fe2(SO)4.4H2O
FeO
Fe2O3
Fe(NH4)PO4.H2
O
(NH4)2SO4.FeS
O4.6H2O
Fe(NH4)HP2O7
NaFeEDTA
NaFeHEDTA
NaFeEDDHA
NaFeDTPA

% Fe (gần đúng)
19
23
77
69

29
14
22
5-14
5-9
6
10
5-10

Vì Fe-EDDHA là hợp chất bền nhất trong số các chelate Fe, nên rất được ưa chuộng
để dùng làm phân bón, nhưng Fe-DTPA cũng được sử dụng, đặc biệt là trên đất chua. Nhưng
các chelate Fe rất đắt tiền nếu dùng bón vào đất, do đó chỉ nên dùng bón cho các cây trồng có
giá trị kinh tế cao.
Sự hóa chua cục bộ của một phần vùng rễ có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của việc
chữa trị bệnh thiếu Fe. Một số loại phân bón có chứa S, như So, ammonium thiosulfate,
sulfuric acid, ammonium bisulfite, sulfur dioxide, và ammonium polysulfide, khi bón sẽ làm
giảm pH đất và làm tăng nồng độ Fe trong dung dịch.
Sự tạo phức với các loại phân polyphosphate cũng làm tăng khả năng hữu dụng của cả
hai dạng SO42- và chelate Fe, nhưng mức độ hữu hiệu của Fe-EDDHA cao hơn FeSO 4 ở cùng
liều lượng Fe chứa trong phân.
2.2 Kẽm (Zn)
2.2.1 Hàm lượng Zn trong đất
Nồng độ Zn trong thạch quyển trung bình khoảng 80ppm, và trong đất biến thiên từ
10-300ppm, trung bình là 50ppm. Hàm lượng Zn trong đá magma khoảng 70ppm, trong các
đá trầm tích hàm lượng Zn trong đá phiến sét (shale) nhiều hơn (95ppm) so với đá vôi
(limestone)(20ppm). Franklenite (ZnFe2O4), smithsonite (ZnCO3), và willemite (Zn2SiO4) là
các khoáng phổ biến có chứa Zn. Khả năng hịa tan của các khống Zn tương tự khả năng hòa
tan của Zn trong đất.
7



Sự thiếu Zn xảy ra trên cây trồng rất phổ biến trên nhiều loại đất trên thế giới, đặc biệt
là đối với lúa cạn ở châu Á. Đất thường thiếu Zn là đất cát chua có hàm lượng Zn tổng số
thấp; các loại đất trung tính, kiềm hay đất đá vơi; đất có sa cấu mịn; đất có P hữu dụng cao;
một số đất hữu cơ; và các tầng bên dưới của đất bị phơi bày lên trên mặt do xói mịn hay do
đào đấp.
2.2.2 Các dạng Zn trong đất
Các dạng Zn trong đất bao gồm: Zn 2+ trong dung dịch; Zn2+ hấp phụ trên bề mặt các
khoáng sét; chất hữu cơ, carbonate, và các khoáng oxides; các phức Zn 2+ nguyên sinh; và Zn2+
thay thế Mg trong các mạng lưới tinh thể của các khoáng sét. Sự định danh các thành phần
này rất khó, do hàm lượng Zn trong đất quá thấp; tuy nhiên, các mối quan hệ và chu kỳ của
các dạng Zn này trong đất tương tự với các mối quan hệ và chu kỳ của Fe.
Zn trong dung dịch đất
Hàm lượng Zn trong dung dịch đất rất thấp, khoảng 2-70 ppb, trong đó có hơn ½ lượng
2+
Zn trong dung dịch được tạo phức với chất hữu cơ. Một số dạng thủy phân của Zn hiện diện
trong dung dịch với dạng ion Zn 2+ chiếm ưu thế ở pH < 7,7. Nếu pH > 7.7, ZnOH + trở nên
dạng chiếm ưu thế, cộng với một hàm lượng nhỏ Zn(OH) 2o khi pH > 9,1. Khả năng hòa tan
của Zn phụ thuộc rất lớn vào pH và khả năng hòa tan giảm 100 lần khi tăng 1 đơn vị pH. Mối
quan hệ này được trình bày theo cơng thức sau:
ĐấtZn + 2H+  Zn2+.
Trong phạm vi pH từ 5 - 7, khi tăng 1 đơn vị pH nồng độ Zn trong dung dịch giảm 30
lần.
Khuếch tán là cơ chế chủ yếu vận chuyển Zn đến rễ cây trồng. Các chất tạo phức hay
chelate do rễ tiết ra/ hay do sự phân giải chất hữu cơ sẽ làm tăng khả năng khuếch tán Zn đến
rễ. Khả năng khuếch tán của Zn được chelate hóa thường lớn hơn so với các dạng Zn khác.
2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng của Zn
Khả năng hữu dụng của Zn2+ đối với cây trồng được quyết định bởi các yếu tố như pH,
sự hấp phụ trên bề mặt khoáng sét, chất hữu cơ, carbonate, và các khoáng oxides; sự tạo phức
bởi chất hữu cơ; sự tương tác với các chất dinh dưỡng khác, và các điều kiện khí hậu.

pH đất
Khả năng hữu dụng của Zn 2+ giảm khi pH tăng. Hầu hết sự thiếu Zn 2+ do pH thường
xảy ra trên đất trung tính và đất đá vơi, nhưng không phải tất cả đất này đều biểu hiện sự thiếu
Zn do có sự gia tăng khả năng hữu dụng từ sự chelate Zn2+.
Ở pH cao, Zn kết tủa thành các dạng Zn trong đất, ZnFe 2O4, và/hay ZnSiO4 vô định
hình, khơng hịa tan làm giảm hàm lượng Zn 2+ trong đất. Bón vơi trên đất chua, đặc biệt là đất
có hàm lượng Zn thấp, sẽ làm giảm sự hấp thu Zn của cây trồng, do pH cao làm giảm khả
năng hòa tan của Zn2+. Sự hấp phụ Zn trên bề mặt của CaCO3 cũng có thể làm giảm Zn 2+ trong
dung dịch. Sự hấp phụ Zn 2+ bởi các khoáng sét, các oxide Al, Fe, chất hữu cơ và CaCO 3 gia
tăng khi pH tăng.
Sự hấp phụ Zn
Cơ chế hấp phụ Zn2+ trên bề mặt oxide được giải thích như sau:
Sự hấp phụ được xem như là một sự giãn rộng bề mặt oxide dẫn đến sự giữ chặt Zn 2+
riêng biệt hay không thuận nghịch. Sự hấp phụ khơng chun biệt của Zn 2+ cũng có thể xảy ra
ở những vị trí Zn2+ được giữ với một lực yếu hơn và có thể được thay thế bởi các cations khác
như Ca2+ và Mg2+.

8


Sự hấp phụ Zn2+ bởi các khoáng bentonite, illite, và kaolinite có quan hệ trực tiếp đến
CEC của sét. Zn nối thuận nghịch bởi các khống sét có thể trao đổi được và vì thế nên có thể
được phóng thích vào dung dịch.
Sự hấp phụ Zn do carbonate sẽ làm giảm một phần khả năng hữu dụng của Zn 2+ trên
đất đá vơi. Phân tích đường cong hấp phụ Zn 2+ cho thấy hàm lượng CaCO3 là yếu tố chính tạo
ra sự hấp phụ Zn. Mặc dù ZnCO 3 bị kết tủa ở nồng độ Zn2+ cao, nhưng khả năng hữu dụng
của Zn đối với cây trồng có thể sẽ khơng q nghiêm trọng do khả năng hịa tan của ZnCO 3rất
cao trong đất.
Zn bị hấp phụ mạnh bởi khoáng magnesite (MgCO3), với mức độ trung bình ở khống
dolomite [CaMg(CO3)2], và thấp nhất là khoáng calcite (CaCO3). Trong magnesite và

dolomite, có thể là Zn bị hấp phụ vào các bề mặt tinh thể ở các vị trí trong mạng lưới được
chiếm giữ bởi các nguyên tử Mg.
Chất hữu cơ
Các dạng Zn2+ ổn định khi tạo phức với các thành phần chất hữu cơ trong đất. Acid humic
và fulvic là các thành phần hấp phụ Zn chủ yếu. Có 3 loại phản ứng của chất hữu cơ với Zn và
các nguyên tố vi lượng khác được nhận biết:
Sự cố định do các hợp chất có trọng lượng phân tử cao như lignin.
Hịa tan hóa và di động hóa do các acid và base có chuỗi ngắn.
Sự tạo phức do các chất hữu cơ ban đầu hịa tan nhưng sau đó hình thành các muối khơng
hịa tan.
Tác động của chất hữu cơ đến Zn2+ phụ thuộc vào các tính chất và hàm lượng của các chất
hữu cơ có liên quan. Khi các phản ứng 1 và/hay 3 chiếm ưu thế, khả năng hữu dụng của Zn sẽ
bị giảm; điều này xảy ra trong các đất than bùn và đất mùn gley hóa thiếu Zn. Ngược lại, sự
hình thành các hợp chất chelate Zn hòa tan sẽ làm tăng khả năng hữu dụng do Zn 2+ được giữ
trong dung dịch. Các chất hiện diện trong chất hữu cơ hay bắt nguồn từ các chất hữu cơ mới
được bón vào đất đều có khả năng tạo chelate với Zn 2+; tuy nhiên, sự gia tăng Zn2+ trong dung
dịch không phải luôn luôn gia tăng sự hấp thu Zn bởi cây trồng.
Sự tương tác với các chất dinh dưỡng khác
Các cations kim loại khác như Cu2+, Fe2+, và Mn2+, làm ức chế sự hấp thu Zn 2+, có thể
là do sự cạnh tranh chất mang.
Phosphorus
Hàm lượng P hữu dụng cao có thể gây ra sự thiếu Zn, phổ biến trong các đất có hàm
lượng Zn ở ngưỡng thiếu. Khi cây trồng bị thiếu Zn, khả năng điều chỉnh sự tích lũy P suy
giảm nghiệm trọng. Hậu quả là P hấp thu bởi rễ và vận chuyển đến thân với lượng thừa sẽ trở
nên độc đối với cây và hình thành các triệu chứng tương tự triệu chứng thiếu Zn, mặc dù nồng
độ Zn trong thân lá vẫn ở mức độ đầy đủ.
Ảnh hưởng của P hữu dụng cao trong đất đến sự hấp thu Zn của nấm vùng rễ cũng có
thể là yếu tố gây nên sự thiếu Zn cho cây trồng. Nấm vùng rễ làm tăng sự hấp thu các nguyên
tố vi lượng đối với nhiều loại cây, bón phân P có thể làm giảm sự hấp thu Zn của bắp và đậu
nành.

Mặc dù Zn được giữ trong đất do các phản ứng kết hợp giữa Zn-P, nhưng phản ứng
hình thành Zn3(PO4)2.4H2O khơng phải là ngun nhân chính gây ra sự thiếu Zn vì khả năng
hòa tan của Zn3(PO4)2.4H2O khá cao nên sẽ dễ dàng cung cấp Zn cho cây.
9


Sulfate và Nitrogen
Do có tính di động cao nên phức chất ZnSO 40 là dạng ion quan trọng trong đất và góp
phần làm tăng nồng độ Zn trong dung dịch. Ví dụ, khi bón CaSO 4 cho đất ít chua có thể làm
tăng nồng độ Zn và Fe trong cây.
Bón phân N làm tăng sự sinh trưởng nên đồng thời làm tăng nhu cầu Zn của cây. Các
loại phân N chua sẽ làm tăng sự hấp Zn có trong đất và có trong phân bón. Ngược lại, khi bón
các loại phân trung tính và kiềm làm giảm sự hấp thu Zn.
Sự ngập nước
Sự thiếu Zn đối với lúa nước do có liên quan đến sự gia tăng pH hay do sự hiện diện
của CaCO3 khi đất bị ngập nước. Tuy nhiên, hiện tượng thiếu Zn cũng có thể xảy ra trên đất
chua do khi đất bị ngập, nồng độ của nhiều chất dinh dưỡng tăng, nhưng Zn không tăng làm
mất cân bằng giữa nồng độ Zn và các chất dinh dưỡng khác. Trong đất chua, hiện tượng thiếu
Zn cũng có thể do pH tăng trong điều kiện khử và sau đó Zn bị kết tủa thành grnaklinite
(ZnFe2O4) hay sphalerite (ZnS). Đất đá vôi, do pH giảm khi ngập nước, nên khả năng hịa tan
của Zn trên đất này ln tăng trong điều kiện ngập nước. Tuy nhiên, nếu pH đất vẫn cao và độ
thống khí kém sẽ làm gia tăng mức độ thiếu Zn.
Bảng 7.5 Mức độ mẫn cảm của các cây trồng đối với hàm lượng Zn hữu dụng thấp
Rất mẫn cảm
Các loại đậu
Cam quít
Bắp
Lanh
Cây ăn quả
Nho

Kiều mạch
Củ hành

Mẫn cảm yếu
Alfalfa
Lúa mạch
Cỏ 3 lá
Bông vải
Khoai tây
Cao lương
Củ cải đường
Cà chua
Lúa mì

Khơng mẫn cảm
Măng tây
Carrot
Họ thập tự
Bạc hà

Thơng
Lúa gạo
Đậu nành
Các điều kiện khí hậu
Sự thiếu Zn thường phổ biến trong thời tiết lạnh, ẩm ướt và thường biến mất khi thời
tiết ấm áp trở lại. Các điều kiện thời tiết trong đầu mùa xuân gây nên sự thiếu Zn là do ánh
sáng yếu, cũng như nhiệt độ thấp và ẩm độ cao. Nhiệt độ đất tăng sẽ làm tăng sự hữu dụng
của Zn đối với cây trồng do tăng khả năng hòa tan và khuếch tán của Zn2+.
Các yếu tố cây trồng
Độ mẫn cảm với sự thiếu Zn khác nhau giữa các lồi và giống cây. Trong đó bắp và

đậu rất mẫn cảm với sự thiếu Zn. Các ăn quả và cam quít cũng rất mẫn cảm với sự thiếu Zn.
Khả năng hấp thu Zn cũng khác nhau giữa các giống khác cây trồng, có thể là do
chúng khác nhau trong khả năng vận chuyển và sử dụng, sự tích lũy các chất dinh dưỡng khác
có tính tương tác với Zn, và cả sự khác biệt về đặc tính rễ cây trong khả năng hấp thu Zn.
2.2.4 Các loại phân bón và sử dụng phân bón có chứa Zn
Sulfate kẽm (ZnSO4) có chứa khoảng 35 % Zn, là nguồn phân Zn phổ biến nhất,
nhưng việc sử dụng các chelate Zn ngày càng gia tăng. Các nguồn Zn vô cơ đều có thể dùng
làm phân bón do khả năng hịa tan cao của chúng trong đất. Phosphate kẽm Zn 3(PO4)2, mặc dù
10


khả năng hòa tan kém hơn các loại Zn oxide, hydroxide, hay carbonate nhưng có thể cung cấp
Zn hữu dụng cho cây trong 1 thời gian dài.
Liều lượng phân Zn bón phụ thuộc vào loại cây trồng, loại phân, phương pháp bón, và
mức độ thiếu của đất Zn. Thường bón từ 2 – 5 kg/ha với Zn vô cơ và từ 0,25 – 1 kg với
chelate hay phân Zn hữu cơ. Với hầu hết các loại cây trồng và rau cải, 10 kg/ha được khuyến
cáo bón cho đất sét và đất thịt và 3 - 5 kg/ha đối với đất cát. Trong nhiều trường hợp, bón 10
kg/ha có thể có hiệu quả trong vòng 3 - 5 năm.
Do sự di động của Zn trong đất hạn chế, nên khi bón vãi phân Zn trên đồng phải vùi
lấp đều trong đất; tuy nhiên, bón theo hàng có hiệu quả hơn, đặc biệt là đất có sa cấu mịn và
đất có hàm lượng Zn thấp. Hiệu quả của việc bón phân Zn theo hàng có thể được gia tăng khi
bón cùng với các loại phân N chua.
Đối với các cây lưu niên như cây men bia, nho, và cây ăn quả, bón phân Zn trước khi
trồng có hiệu quả hơn. Liều lượng bón cho cây men bia và nho là 20 kg/ha và cây ăn quả là
100 kg/ha. Khi các cây này đã ổn định về mặt sinh trưởng, bón phân vào đất sẽ khơng có hiệu
quả cao.
Bón phân qua lá chủ yếu sử dụng cho các cây ăn quả. Phun dung dịch với liều lượng
10-15 kg/ha Zn cho vườn cây ăn quả trong thời kỳ ngủ, 2-3 kg/ha cho các cây đang sinh
trưởng. Để hạn chế sự cháy lá, có thể thêm vôi vào dung dịch hay sử dụng các loại phân có độ
hịa tan thấp như ZnO hay ZnCO3. Các phương pháp khác có thể sử dụng như phủ hạt, nhúng

rễ vào dung dịch, và tiêm vào cây. Cách phủ hạt có thể cung cấp đủ Zn cho các hạt có kích
thước nhỏ, nhưng ngâm hạt, rễ cây con vào dung dịch huyền phù 2 % ZnO thường có hiệu
quả hơn.
Phun các chelate và các hợp chất hữu cơ tự nhiên có chứa Zn lên lá sẽ có hiệu quả
hơn, như thế cây sẽ nhanh chóng hồi phục hơn. Các loại phân Zn có thể được dùng chung
trong các loại phân dung dịch có nồng độ cao vì chúng có khả năng hòa tan cao. Các chelate
như ZnEDTA di động có thể bón trực tiếp vào đất; tuy nhiên, do giá thành cao nên phạm vi sử
dụng chúng bị hạn chế.
Bảng 7.6 Một số loại phân bón chứa Zn
Tên
Zinc sulfate monohydrate
Oxide kẽm
Carbonate kẽm
Phosphate kẽm
Các chelate kẽm
Các chất hữu cơ tự nhiên

Công thức
ZnSO4.H2O
ZnO
ZnCO3
Zn3(PO4) 2
Na2ZnEDTA
NaZnNTA
NaZnHEDTA
-

% Zn (gần đúng)
35
78

52
51
14
13
9
5-10

2.3 Đồng (Cu)
11


Nồng độ Cu trong vỏ quả đất trung bình khoảng 55 – 70 ppm. Các đá magma chứa
khoảng 10 – 100 ppm Cu, đá trầm tích chứa khoảng 4 – 45 ppm Cu. Nồng độ Cu trong đất
khoảng 1 - 40 ppm, trung bình 9 ppm. Cây trồng có thể bị thiếu Cu khi đất có nồng độ Cu
tổng số khoảng 1 - 2 ppm.
Chalcopyrite (CuFeS2), chalcocite (Cu2S), và bornite (CuFeS4) là các khống ngun
sinh quan trọng có chứa Cu. Các khống thứ sinh có chứa Cu bao gồm các oxide, carbonate,
silicate, sulfate, và chloride, nhưng phần lớn Cu trong các khống này có khả năng hịa tan rất
cao nên hàm lượng tồn tại trong đất rất thấp.
Sự thiếu Cu trên cây trồng thường ít phổ biến hơn so với các nguyên tố vi lượng khác.
Cây trồng thiếu Cu thường xảy ra trên đất than bùn (Histisols). Sự thiếu Cu thường xuất hiện
trên các loại đất histosols chua mới cải tạo; triệu chứng này thường được gọi là “bệnh thiếu
dinh dưỡng do cải tạo đất”.
Sự sử dụng các thuốc trừ nấm có chứa Cu có thể hạn chế hay chữa trị bệnh thiếu Cu
trên cây trồng; tuy nhiên, khi sử dụng quá nhiều thuốc như thế có thể gây ngộ độc cho cây. Sự
ngộ độc Cu cũng có thể do ảnh hưởng từ chất thải hầm mỏ.
2.3.1 Các dạng Cu trong đất
Ngồi hàm lượng Cu trong các khống ngun sinh và thứ sinh, Cu cịn có thể hiện diện
trong đất dưới các dạng sau:
Trong dung dịch đất-dạng ion hay dạng phức.

Trên các vị trí trao đổi cation của sét và chất hữu cơ.
Bị hấp thu hay kết tủa trong các hợp chất oxide.
Trên các vị trí hấp thu chuyên biệt.
Trong chất hữu cơ và sinh vật trong đất.
Các mối quan hệ và chu kỳ của các dạng Cu trong đất tương tự như đối với Fe. Phần
lớn Cu trong đất khơng hịa tan và chỉ có thể trích ra được bằng các hóa chất mạnh, có thể phá
hủy các cấu trúc khống hay hịa tan các chất hữu cơ. Tuy nhiên, trong đất có 1 nguồn cung
cấp Cu rất có ý nghĩa đó là các phức Cu, các phức Cu này cân bằng với Cu trong dung dịch và
có thể góp phần làm tăng sự khuếch tán Cu đến rễ cây.

Cu trong dung dịch đất
Nồng độ Cu trong dung dịch đất thường rất thấp, biến thiên khoảng 10 -8-10-6M. Ion
chiếm ưu thế trong dung dịch đất là Cu 2+ ở pH < 7 và Cu(OH) 20 ở pH > 7. Các phản ứng thủy
phân của các ion Cu xảy ra như sau:
Cu2+ + H2O  CuOH+ + H+
CuOH+ + H2O  Cu(OH)20 + H+
Các phức CuSO40 và CuCO30 cũng là các dạng Cu quan trọng trong đất. Khả năng hòa
tan của Cu phụ thuộc vào pH, và khả năng hòa tan tăng 100 lần khi giảm 1 đơn vị pH. Đường
thẳng biểu thị Cu trong đất thể hiện khả năng hòa tan của Cu trong hầu hết các loại đất tương
tự khả năng hòa tan của cupric ferrite (CuFe2O4).

12


Cu di chuyển đến rễ cây trồng chủ yếu do sự khuếch tán của chelate Cu, tương tự như
cơ chế khuếch tán của chelate Fe trong đất. Các hợp chất hữu cơ trong dung dịch đất có khả
năng tạo chelate với Cu trong dung dịch, các chelate này làm gia tăng nồng độ Cu trong dung
dịch nên thường cao hơn hàm lượng Cu được dự đốn, do khả năng hịa tan của các khoáng
Cu.
Cu bị hấp phụ bề mặt

Ion Cu2+ thường bị hấp phụ chuyên biệt hay hấp phụ hóa học do các sét silicate có cấu
trúc tầng, chất hữu cơ, và các oxide Fe, Al, hay Mn. Cu 2+ là ion bị hấp phụ mạnh nhất, chỉ
đứng sau Pb2+, trong các kim loại có hóa trị 2 trên các oxide Fe và Al. Cơ chế hấp phụ của
Cu2+ bởi các oxide khác với hấp phụ trên CEC của các hạt sét do ái lực tĩnh điện, sự hấp phụ
Cu liên quan đến sự hình thành các nối bề mặt của CuOAl hay CuOFe. Tiến trình
hấp phụ hóa học này được kiểm soát bởi hàm lượng các gốc OH- bề mặt.
Khả năng hấp phụ Cu của đất tăng theo pH do: (1) sự gia tăng các vị trí hấp phụ phụ
thuộc pH trên sét và chất hữu cơ, (2) giảm sự cạnh tranh với H +, và (3) sự thay đổi trạng thái
thủy phân của Cu trong dung dịch. Khi pH tăng, do sự thủy phân của Cu2+ hấp phụ trên CEC
nên làm giảm Cu2+ trao đổi và làm tăng Cu hấp phụ hóa học.
Cu bị hấp phụ chặt và kết tủa
Một phần Cu trong đất bị hấp phụ chặt hay bị kẹt sâu vào trong các cấu trúc khoáng,
bao gồm các khoáng sét và các oxide Fe, Mn. Cu có khả năng thay thế đồng dạng với các
cation khác trong tầng bát diện của các tinh thể sét silicate. Cu hiện diện dưới dạng những
chất lẫn trong các khoáng CaCO 3 và MgCO3 trong đất vùng khô hạn, và trong Al(OH) 3 và
Fe(OH)3 trên đất chua.
Cu hữu cơ
Phần lớn Cu hòa tan trong lớp đất mặt là các phức hữu cơ và lực liên kết của Cu với
chất hữu cơ mạnh hơn so với tất cả các nguyên tố vi lượng khác. Ion Cu 2+ nối hóa học trực
tiếp với hai hay nhiều gốc hữu cơ, chủ yếu là gốc carboxyl và phenol. Các acid humic và
fulvic do chứa nhiều vị trí nối phức tạp, chủ yếu là gốc carboxyl, nên liên kết rất mạnh đối với
Cu. Trong phần lớn đất khoáng, chất hữu cơ kết hợp mật thiết với sét, có thể là ở dạng phức
sét-kim loại-chất hữu cơ.
Khi hàm lượng chất hữu cơ 8%, bề mặt của khống và chất hữu cơ đều có khả năng
hấp phụ Cu mạnh, nhưng khi ở nồng độ chất hữu cơ > 8%, sự tạo nối với Cu chủ yếu xảy ra
trên bề mặt của chất hữu cơ. Đối với các đất có tỉ lệ hàm lượng sét và chất hữu cơ tương tự
nhau, chất hữu cơ tạo phức với Cu sẽ lớn nhất khi khoáng sét kaolinite chiếm ưu thế và thấp
nhất khi sét montmorillonite chiếm ưu thế.
2.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng của Cu
Khả năng hữu dụng và sự di chuyển của Cu trong đất chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sa

cấu đất, pH, CEC, hàm lượng chất hữu cơ, và các oxide ngậm nước.
Sa cấu đất
Hàm lượng Cu trong dung dịch đất thường luôn thấp ở các đất cát rửa trôi mạnh, và
đất đá vôi so với các loại đất khác.

pH đất
Nồng độ Cu trong dung dịch đất giảm khi pH tăng, và sự cung cấp Cu cho cây giảm
do giảm hòa tan Cu và tăng khả năng hấp phụ Cu.
13


Sự tương tác với các chất dinh dưỡng khác
Trong đất xảy ra rất nhiều sự tương tác giữa Cu và các chất dinh dưỡng khác. Bón
phân N-P-K với liều lượng cao có thể gây ra sự thiếu Cu. Sự thiếu Cu cũng có thể xảy ra sau
khi bón các loại phân N chua, nguyên nhân có thể là do tăng hàm lượng Al 3+ trong dung dịch
đất. Hơn nữa, sự sinh trưởng của cây trồng gia tăng do bón phân N hay các loại phân bón
khác làm tăng nhu cầu hấp thu Cu của cây, gây ra tình trạng nồng độ Cu sẽ bị pha loãng trong
cây (giảm nồng độ). Khi tăng cung cấp N cũng có thể làm giảm sự di chuyển của Cu trong
cây, do hàm lượng N trong cây cao sẽ cản trở sự di chuyển của Cu từ các lá già đến các lá
non. Nồng độ Zn, Fe, và P trong dung dịch đất cao cũng làm giảm sự hấp thu Cu của rễ cây và
có thể làm gia tăng sự thiếu Cu nghiêm trọng hơn.
Các yếu tố cây trồng
Các cây trồng có phản ứng cao với Cu bao gồm lúa mì, lúa gạo, cỏ alfalfa, carrot, rau
diếp, cam qt, và củ hành, trong khi đó các cây có thể phát triển bình thường với hàm lượng
Cu thấp là các loại đậu, khoai tây, măng tây, đậu nành, cải dầu, thơng. Do đó nếu đất có hàm
lượng Cu thấp, chọn các giống chống chịu được tình trạng đất nghèo Cu là 1 biện pháp rất
quan trọng.
Sự khác nhau về mặt di truyền trong dinh dưỡng Cu của cây trồng do các nguyên nhân
sau: (1) sự khác nhau về tốc độ hấp thu Cu của rễ, (2) chiều dài rễ, diện tích bề mặt rễ, (3)
lượng lơng hút của rễ, (4) thay đổi khả năng hữu dụng của Cu trong đất trong vùng rễ do 1 số

chất được tiết ra từ rễ, (5) sự hóa chua hay sự thay đổi điện thế redox, (6) hiệu quả của sự vận
chuyển Cu từ rễ đến thân, và/hay nhu cầu Cu của cây.
Cày vùi các cây lấy củ họ Cải vào đất (khơng thu hoạch) có thể gây nên sự thiếu Cu
cho cây trồng vụ sau, điều này có thể do các cây họ Cải chứa một hàm lượng lớn S và S được
giải phóng trong thời gian phân giải các dư thừa thực vật này.
Sự thiếu Cu nghiêm trọng trên các cây trồng gây ra bởi các dư thừa hữu cơ có tỉ lệ
C/N cao có thể là do (1) các phản ứng của Cu với các hợp chất hữu cơ phát sinh từ sự phân
giải rơm rạ, (2) sự cạnh tranh Cu hữu dụng giữa sự phát triển nhanh dân số vi sinh vật và cây
trồng, và (3) ức chế sự phát triển của rễ và khả năng hấp thu Cu. Khi bón phân hữu cơ trên đất
hàm lượng Cu hữu dụng thấp, có thể gia tăng sự thiếu Cu rất nghiêm trọng. Chất hữu cơ từ
rơm rạ, phân hữu cơ, cỏ khơ có thể liên kết rất chặt với Cu, làm mất tính hữu dụng của Cu đối
với cây trồng.
2.3.3 Ngộ độc Cu
Các triệu chứng ngộ độc Cu thể hiện qua các chỉ tiêu như giảm sự sinh trưởng của
thân lá, hệ thống rễ phát triển nghèo nàn và biến màu, vàng lá. Bệnh vàng lá thể hiện rất giống
như triệu chứng thiếu Fe. Sự ngộ độc Cu đối với cây trồng không phổ biến, thường xảy ra
trong những vùng đất có hàm lượng Cu hữu dụng cao; sau khi bón các chất có chứa Cu cao
như bùn thải thành phố, các loại phân rác, phân heo và gà vịt, và các chất thải hầm mỏ; và từ
việc phun liên tục thuốc trừ sâu, bệnh có chứa Cu.
2.3.4 Các loại và sử dụng phân bón có chứa Cu
Loại phân bón chứa Cu thường sử dụng là CuSO4.5H2O, mặc dù CuO, hỗn hợp CuSO4
và Cu(OH)2 và chelate Cu cũng được sử dụng khá phổ biến. Sulfate đồng chứa 25,5% Cu, là
hợp chất hịa tan trong nước, và có hiệu quả như bất cứ các loại phân bón nào khác.
Ammonium phosphate Cu có thể dùng bón vào đất hay phun lên lá. Phân Ammonium
phosphate Cu, chứa 30 % Cu, ít hịa tan trong nước nhưng có thể dùng dưới dạng huyền phù

14


để phun lên lá. Cũng như các loại ammonium phosphate kim loại khác, Ammonium

phosphate Cu có tính hữu dụng chậm khi bón vào đất.
Bón phân Cu vào đất hay phun lên lá đều có hiệu quả, có thể bón phân Cu vào đất, với
liều lượng từ 0,3 – 10 kg/ha để chữa trị bệnh thiếu Cu. Nhưng để nâng cao hiệu quả phân Cu
nên trộn thật đều vào vùng rễ hay bón theo hàng, theo hốc. Khi bón theo hàng nên giảm liều
lượng để đề phòng việc gây tổn thương cho rễ cây. Bón phân Cu có thể khơng có hiệu quả do
điều kiện đất quá ẩm hoặc quá khô, rễ cây bị bệnh, bị ngộ độc, và cây thiếu các chất dinh
dưỡng khác. Sự tồn dư của phân Cu có thể kéo dài 2 năm hay lâu hơn khi bón vài kg/ha, thời
gian tồn dư này phụ thuộc vào đất, cây và liều lượng bón.
Phun phân Cu lên lá được xác định là biện pháp tức thời chữa trị bệnh thiếu Cu được
phát hiện sau khi trồng cây xuất hiện triệu chứng thiếu (vàng lá). Tuy nhiên trong một số
vùng, phân Cu được đưa vào chương trình bón phân chính thức. Các chelate Cu (CuEDTA)
có thể dùng để phun lên lá, bón vào đất nhưng giá thành chelate Cu quá cao nên hạn chế phạm
vi sử dụng chelate Cu.
Bảng 7.7 Các hợp chất Cu được dùng làm phân bón
Tên
Sulfate Cu
Sulfate Cu.1H2O
Nitrate Cu
Acetate Cu
Ammonium
phosphate Cu
Chelate Cu
Polyflavanoid Cu

Công thức
CuSO4.5H2O
CuSO4.H2O
Cu(NO3)2.3H2O
Cu(C2H3O2)2.H2O
Cu(NH4)PO4.H2O

Na2Cu EDTA
NaCu HEDTA
-

% Cu
25
35
32
32
13
9
5-7

Khả năng hịa tan trong nước
Hịa tan
Hịa tan
Hịa tan
Ít hịa tan
Khơng hịa tan
Hịa tan
Hịa tan
Hịa tan

2.4 Manganese (Mn)
Nồng độ Mn trong vỏ quả đất trung bình là 1000ppm, và Mn có trong hầu hết các loại
đá Fe-Mg, Mn được giải phóng thơng qua sự phong hóa các đá ngun sinh sẽ kết hợp với O 2,
CO32-, và SiO2 để hình thành 1 số khoáng thứ cấp, như pyrolusite (MnO2), hausmannite
(Mn3O4), manganite (MnOOH), rhodochrosite (MnCO3), và rhodonite (MnSiO3). Pyrolusite
và manganite chiếm tỉ lệ cao nhất.
Mn tổng số trong đất biến thiên trong khoảng 20-3000ppm, trung bình khoảng

600ppm. Mn hiện diện trong đất dưới dạng các oxide và hydroxide khác nhau phủ trên các hạt
đất, tích tụ trong các khe nứt, trộn lẫn với các oxide Fe và các thành phần khác của đất.
Nhiều diện tích đất khá lớn trên thế giới có hàm lượng Mn thấp, chủ yếu là trong các
vùng có khí hậu ẩm. Các loại đất trung tính và kiềm thường có hàm lượng Mn thấp, nhưng
cây trồng khơng thiếu Mn. Hiện tượng thiếu Mn thường xảy ra trên các loại đất trung tính và
kiềm có hàm lượng chất hữu cơ cao và trên các loại đất cát và đất than bùn nhưng bên dưới có
tầng đá vơi.
Các trường hợp đất thường xảy ra thiếu Mn là:
Đất than bùn, có tầng hữu cơ mỏng, bên dưới là tầng đá vơi.
Đất phù sa sét, thịt và đất đầm lầy có nguồn gốc mẫu chất là đá vơi.
Đất đá vơi thốt thủy kém và có hàm lượng chất hữu cơ cao.
15


Đất đá vơi có sa cấu cát và đất chua mới cải tạo.
Đất đá vôi mới khai phá từ đất đồng cỏ.
Đất vườn được bón phân hữu cơ và vơi thường xun.
Đất khống chua có sa cấu cát, có hàm lượng Mn nguyên thủy thấp và Mn hữu dụng
bị rửa trôi mạnh.
2.4.1 Các dạng Mn trong đất
Mn hiện diện trong đất dưới các dạng Mn 2+ trong dung dịch, Mn2+ trao đổi, Mn liên
kết với các chất hữu cơ, và trong các loại khống có chứa Mn khác. Sự cân bằng của các dạng
Mn này quyết định khả năng hữu dụng của Mn đối với cây trồng. Hàm lượng Mn trong dung
dịch và trao đổi khoảng 2-3 ppm và 0,2-5 ppm có thể thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng Mn cho
hầu hết các loại cây trồng.
Các q trình chính trong chu kỳ Mn là oxi hóa khử Mn và sự tạo phức Mn 2+ trong
dung dịch với các chelate hữu cơ tự nhiên. Sự tuần hoàn liên tục của chất hữu cơ góp phần
quan trọng vào sự hịa tan của Mn. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hòa tan của Mn bao
gồm pH, redox, và sự tạo phức.
Ẩm độ, độ thống khí, và hoạt động vi sinh vật trong đất ảnh hưởng đến redox, khả

năng tạo phức chịu ảnh hưởng bởi hàm lượng chất hữu cơ và sự hoạt động của vi sinh vật.
Mn trong dung dịch đất
Dạng ion chính trong dung dịch là Mn 2+, nồng độ Mn2+, trong dung dịch giảm 100 lần
khi tăng 1 đơn vị pH, tương tự như tính chất của các cation kim loại hóa trị 2 khác. Nồng độ
Mn2+ trong dung dịch được kiểm soát chủ yếu bởi MnO 2. Nồng độ Mn2+ dung dịch của đất
chua và trung tính thường biến thiên trong khoảng 0,01-1ppm, trong đó các phức Mn hữu cơ
chiếm khoảng 90% tổng Mn2+ trong dung dịch. Cây trồng hấp thu Mn 2+, Mn2+ di chuyển đến
bề mặt rễ do sự khuếch tán chủ yếu do các chelate Mn2+, tương tự như sự di chuyển của Fe.
Mn trong dung dịch đất tăng rất cao khi đất chua, và trị số redox thấp. Trong đất quá
chua, khả năng hòa tan của Mn2+ cao có thể gây ngộ độc cho cây đối với các cây mẫn cảm với
sự thừa Mn. Trên đất cát pha thịt có pH<5,0, lá dưa hấu bị hủy hoại có thể là do ngộ độc Mn.
Bón vôi trên các đất này làm tăng năng suất và làm giảm được hàm lượng Mn trong cây.
Do có tính di động nên Mn dễ bị rửa trôi. Hiện tượng thiếu Mn thường xảy ra trên các
loại đất hữu cơ và đất khoáng thoát thủy kém, và các loại đất này thường có đặc tính là hàm
lượng Mn thấp, do Mn hịa tan bị rửa trơi mạnh.
2.4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng của Mn
Các yếu tố đất, môi trường, và phương pháp quản lý ảnh hưởng đến khả năng hữu
dụng của Mn đối với cây trồng.
pH và carbonate trong đất
Do hàm lượng Mn2+ trong dung dịch thay đổi theo pH, nên bất cứ biện pháp kỹ thuật
nào làm thay đổi pH đất đều ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hữu dụng và sự hấp thu Mn 2+
của cây. Bón vơi cho đất q chua sẽ làm giảm Mn2+ trong dung dịch và Mn2+ trao đổi do sự
kết tủa Mn2+ thành MnO2. Ngược lại, khả năng hữu dụng thấp của Mn trong đất đá vôi có pH
cao và đất bón q nhiều vơi, có tính đệm kém, đất có sa cấu thơ. Điều này có thể khắc phục
bằng cách bón các loại phân N và S chua. pH cao cũng làm tăng sự hình thành các phức Mn ít
hữu dụng hơn. Sự oxi hóa Mn hịa tan thành các dạng khơng hữu dụng đạt tối đa ở pH =7 do
sự hoạt động của các vi sinh vật đất.
Ẩm độ và độ thống khí
16



Đất bị ngập nước sẽ giảm hàm lượng O2 và trị số redox, và làm tăng lượng Mn2+ hòa
tan; đặc biệt là trong đất chua. Khả năng hữu dụng của Mn có thể tăng do độ thống khí kém
trong các loại đất bị nén chặt và do sự tích lũy cục bộ CO 2 xung quanh rễ. Điện thế oxi hóa
khử thấp sẽ có xu hướng làm tăng Mn hữu dụng xung quanh rễ.
Chất hữu cơ
Phản ứng giữa Mn và chất hữu cơ ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng hữu dụng của
Mn trong đất. Đất kiềm có hàm lượng chất hữu cơ cao làm cho khả năng hữu dụng của Mn
thấp, do sự hình thành các hợp chất chelate Mn 2+ khơng hữu dụng. Mn cũng có thể khơng hữu
dụng do bị giữ trên các phức hữu cơ trong đất than bùn. Bón các loại phân hữu cơ, rơm rạ làm
tăng Mn trao đổi và Mn trong dung dịch.
Sự tương tác với các chất dinh dưỡng khác
Hàm lượng Cu, Fe, và Zn trong đất cao có thể làm giảm sự hấp thu Mn của cây trồng.
Bón các loại phân NH4+ sẽ tăng cường sự hấp thu Mn. Nhưng bón các loại phân trung tính
như KCl, NaCl, và CaCl 2 cũng có thể làm tăng khả năng hữu dụng của Mn đối với cây và
tăng nồng độ Mn trong cây. Các muối ảnh hưởng đến sự gia tăng khả năng hữu dụng của Mn
theo thứ tự tương đối như sau KCl > KNO3 > K2SO4. Trong đó KCl ảnh hưởng của đến sự hấp
thu mạnh nhất, có thể xuất hiện các triệu chứng ngộ độc trên các cây mẫn cảm với hàm lượng
Mn cao.
Các ảnh hưởng của khí hậu
Khả năng hữu dụng của Mn biến đổi theo mùa đã nghiên cứu nhiều nơi trên thế giới.
Thời tiết ẩm ướt thích hợp cho sự hòa tan và di động của Mn 2+, ngược lại điều kiện khơ, nóng
thích hợp cho sự hình thành các dạng Mn oxi hóa ít hữu dụng hơn. Thời tiết khơ có thể gây ra
và làm gia tăng mức độ thiếu Mn, đặc biệt là trên cây ăn quả. Thời tiết ẩm ướt là một trong
những điều kiện thường đi đôi với các loại bệnh trên cây do sự rối loạn dưỡng, nguyên nhân
chính là do thiếu Mn. Gia tăng nhiệt độ đất trong thời gian sinh trưởng sẽ cải thiện được sự
hấp thu Mn của cây trồng, do sự sinh trưởng mạnh của cây và sự hoạt động tốt của rễ.
Vi sinh vật đất
Có nhiều báo cáo cho thấy cây trồng thiếu Mn là do các vi sinh vật đất oxi hóa Mn 2+
thành Mn4+. Trong đất có nhiều loại vi khuẩn và nấm có khả năng oxi hóa Mn. Nhưng Mn

cũng có thể góp phần vào khả năng kháng bệnh của cây. Thực tế cho thấy khi sự hoạt động
của các tác nhân oxi hóa Mn giảm, như bón nhiều phân NH 4+, và ức chế sự oxi hóa sẽ làm gia
tăng khả năng hịa tan của Mn và làm giảm được một số bệnh trên cây.
Các yếu tố cây trồng
Cây trồng biểu hiện khác nhau về tính mẫn cảm đối với sự thiếu Mn tùy loại. Rất khó
tổng quát hóa sự thiếu Mn, nhưng các loại ngũ cốc, đậu nành và 1 số rau cải, và cây ăn quả rất
mẫn cảm với điều kiện thiếu Mn. Mn là một trong những nguyên tố vi lượng thường biểu hiện
triệu chứng thiếu phổ biến trên đậu nành.
Sự khác nhau trong phản ứng của cây đối với Mn là do các yếu tố nội tại (di truyền)
hơn là ảnh hưởng của yếu tố môi trường. Khả năng khử trong rễ có thể là yếu tố hạn chế sự
hấp thu và vận chuyển Mn. Cũng có thể có sự khác nhau đáng kể trong hàm lượng và tính
chất của các chất tiết ra do rễ, ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng của Mn 2+. Ngoài ra sự thiếu
Mn cũng có thể do mức độ hiệu quả sử dụng Mn của cây trồng, làm ảnh hưởng đến sự hấp thu
Mn.
2.4.3 Các loại phân và sử dụng phân bón có chứa Mn

17


Sulfate Manganese (MnSO4) được sử dụng rộng rãi để chữa trị bệnh thiếu Mn và
phân này có thể dùng bón vào đất hoặc phun lên lá. Ngồi nguồn phân bón vô cơ, các phức
chất hữu cơ tự nhiên và các chelate Mn cũng có thể được dùng để phun lên lá.
Bảng7.8 Tính mẫn cảm của các loại cây trồng đối với hàm lượng Mn hữu dụng trong đất thấp
Mẫn cảm
Alfalfa
Cam qt
Cây ăn quả
Oats
Củ hành
Khoai tây

Đậu nành
Củ cải đường
Lúa mì

Chống chịu trung bình
Lúc mạch(*)
Bắp
Bơng vải
Đậu đỗ
Cây ăn quả
Oats
Khoai tây
Lúa gạo
Đậu nành
Rau cải
Lúa mì

Chống chịu
Lúa mạch
Bắp
Bơng vải
Đậu đỗ
Cây ăn quả
Lúa gạo
Đậu nành
Đậu nành
Rau cải
Lúa mì

(*)Một số loại cây được liệt kê trong 2 hay 3 mức độ do sự biến đổi của đất, điều kiện sinh

trưởng, và sự đáp ứng khác nhau giữa các giống.
Bảng 7.9 Các loại phân bón có chứa Mn
Tên
Manganese sulfate
Manganous oxide
Manganese chloride
Các phức chất hữu cơ tự nhiên
Các chelate tổng hợp

Công thức
MnSO4.4H2O
MnO
MnCl2
MnEDTA

% Mn (gần đúng)
26-28
41-68
17
5-9
5-12

Mặc dù khả năng hòa tan của Oxide Mn rất kém trong nước nhưng đấy là một loại
phân bón tốt. Kích thước hạt ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của phân bón này, hạt càng mịn
hiệu quả càng cao. Liều lượng bón phân Mn từ 1-25 kg/ha; nhưng khi bón vãi trên mặt ruộng
có thể dùng liều lượng cao hơn, ngược lại khi phun lên lá nên dùng lượng thấp hơn. Bón phân
Mn theo hàng thường có hiệu quả hơn là bón vãi đều trên mặt đất, và lượng bón theo hàng
thường chỉ bằng ½ lượng bón vãi. Tốc độ oxi hóa Mn trong phân thành các dạng ít hữu dụng
hơn thường chậm nếu bón theo hàng. Đất hữu cơ có thể có nhu cầu bón phân Mn cao hơn đất
khóang. Trong thực tiễn thường bón phân Mn kết hợp với các loại phân N-P-K khác.

Thường người ta khuyến cáo khơng nên bón vãi phân chelate Mn và các phức chất
hữu cơ tự nhiên vì Ca hay Fe trong đất có thể thay thế Mn trong các chelate này và Mn tự do
(giải phóng từ phân bón) dễ dàng bị biến đổi thành các dạng không hữu dụng. Và hàm lượng
các phức Ca hay Fe hữu dụng cao có thể làm gia tăng sự thiếu Mn cho cây. Sự thiếu Mn do
bón vơi hay do pH cao gây ra có thể được khắc phục bằng cách sử dụng phân S hay các loại
phân chua khác.
2.5 Boron (B)
B là nguyên tố vi lượng duy nhất là một á kim. Nồng độ B trong vỏ quả đất rất thấp,
trong phần lớn đá phún xuất nồng độ B trung bình khoảng 10 ppm. Trong các loại đá trầm
tích, shale có nồng độ B cao nhất (đến 100 ppm), hiện diện chủ yếu trong các khoáng sét.
Nồng độ B tổng số trong đất biến thiên từ 2-200 ppm và thường nằm trong khoảng 7-80 ppm.
Nhưng chỉ có khoảng 5% B tổng số hữu dụng cho cây.
18


Tourmaline, 1 loại khống borosilicate, là khống chủ yếu có chứa B trong đất.
Khống này khơng hịa tan và bền vững với sự phong hóa nên B được giải phóng từ khống
rất chậm. Vì vậy cây trồng thường bị thiếu B trên các vùng đất canh tác lâu năm và không
được cung cấp B đủ nhu cầu. B trong các loại đất vùng khô hạn thường cao do các loại đất
này thường có hàm lượng borate cao nên ít khi xảy ra hiện tượng thiếu B trên cây trồng.
Sự ngộ độc B đối với cây trồng ít phổ biến trên các vùng đất canh tác trừ khi bón quá
nhiều phân B. Tuy nhiên trong các vùng đất khô hạn, sự ngộ độc B có thể xảy ra 1 cách tự
nhiên hay có thể phát sinh do hàm lượng B trong nước tưới cao.
2.5.1 Các dạng B trong đất
B hiện diện trong đất dưới 4 dạng chủ yếu: trong các đá và khoáng, hấp phụ trên bề
mặt sét và các oxide Fe và Al, kết hợp với chất hữu cơ, boric acid (H 3BO30), và B(OH)4- trong
dung dịch đất. Cần thiết phải nghiên cứu sự biến chuyển của B giữa các thành phần rắn và
dung dịch vì ngưỡng nồng độ gây độc và thiếu của B trong dung dịch có 1 khoảng biến thiên
rất hẹp.
B trong dung dịch đất

H3BO30 khơng hịa tan là dạng B chính hiện diện trong dung dịch đất trong phạm vi pH
5 - 9. Ở pH > 9,2 H2BO3- có thể bị thủy phân thành H4BO4-. B có thể được vận chuyển từ dung
dịch đất đến bề mặt hấp thu của rễ do dòng chảy khối lượng và sự khuếch tán.
B bị hấp phụ bề mặt
Sự hấp phụ bề mặt và giải phóng B có thể đệm được B trong dung dịch, và làm giảm
sự rửa trôi của B. Đó là dạng B chính trong đất kiềm có hàm lượng B cao. Các vị trí hấp phụ
bề mặt B là (1) các nối SiO và AlO bị phá vỡ ở các cạnh của khoáng sét, (2) các cấu trúc
hydroxide vơ định hình, và (3) các hợp chất oxy và hydroxy Fe và Al. Sự gia tăng pH, hàm
lượng sét, và chất hữu cơ và sự hiện diện của các hợp chất Al làm gia tăng khả năng hấp phụ
bề mặt của H4BO4-.
Các phức B hữu cơ
Chất hữu cơ là nguồn B hữu dụng tiềm tàng cho cây trồng, hàm lượng B hữu dụng
tăng theo sự gia tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất. Các phức chất Bchất hữu cơ có thể
là:
=C

O

=C
B

=C

O

OH hay

O

H+


O

C=

-

B
=C

O

O

C=

B trong các khống
B có thể thay thế các ions Al 3+ và/hay Si4+ trong các khoáng silicate. Sau khi B được
hấp phụ trên bề mặt khoáng sét, B sẽ được khuếch tán chậm vào các tinh tầng khoáng sét.
2.5.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hữu dụng của B
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hữu dụng và di chuyển của B trong đất bao gồm sa cấu
đất, hàm lượng và loại sét, pH và lượng bón vơi, chất hữu cơ, các tương tác với các nguyên tố
khác, và ẩm độ đất. Phương pháp phân tích B hữu dụng trong đất được sử dụng phổ biến hiện
nay là trích đất bằng nước nóng. Ngồi việc phân tích B trong đất, việc đánh giá các yếu tố
ảnh hưởng đến sự hữu dụng B rất quan trọng để đánh giá tiềm năng đáp ứng của cây trồng đối
với phân bón B.
Sa cấu đất
19



Đất có sa cấu thơ, thốt thủy tốt thường có hàm lượng B thấp, và với các cây trồng có
nhu cầu B cao như alfalfa, có sự đáp ứng đối với phân B là >3lbB/a. B bón vào đất vẫn tồn tại
ở dạng hịa tan nên có đến 85% có thể bị rửa trôi trong các loại đất cát, chất hữu cơ thấp. Đất
có sa cấu mịn sẽ lưu giữ phân B trong 1 thời gian dài hơn so với đất có sa cấu thơ do B bị hấp
phụ trên các sét mạnh hơn. Thực ra, thành phần sét giữ B hiệu quả hơn là thành phần cát
khơng có nghĩa là cây sẽ hấp thu B với hàm lượng lớn hơn trong đất sét so với đất cát. Cây
trồng có thể hấp thu B từ đất cát với hàm lượng lớn hơn trên đất sét nếu 2 loại đất có nồng độ
B hòa tan trong nước bằng nhau.
Loại sét
Khả năng hấp phụ B thường theo thứ tự sau: mica > montmorillonite > kaolinite.
pH đất và sự bón vơi
B thường trở nên kém hữu dụng đối với cây trồng khi pH tăng, khả năng hữu dụng của
B giảm đáng kể khi pH >6.3-6.5 (bảng 9.11). Bón vơi cho đất q chua thường gây ra hiện
tượng thiếu B tạm thời trên các cây mẫn cảm với hàm lượng B thấp trong đất. Mức độ nghiêm
trọng của sự thiếu B phụ thuộc vào tình trạng ẩm độ của đất, cây trồng, và thời gian sau khi
bón vơi.
Khả năng hữu dụng của B giảm sau khi bón vơi gây ra chủ yếu do sự hấp phụ B trên
các Al(OH)3 mới kết tủa, với sự hấp phụ này đạt tối đa ở pH = 7. Nói một cách khác, ta có
thể dùng vơi bón cho các loại đất có hàm lượng B hữu dụng cao nhằm làm giảm sự hấp thu B
của cây trồng.
Sự phân
giải chất
hữu cơ

B hữu


Sự hấp
thu của
cây


B trong dung dịch
H3BO3, (H4BO4-)

B bị hấp
phụ

Phân

cơ/hữu


Các khoáng B
nguyên sinh và
thứ sinh

Sự rửa trơi B
Hình 7.1 Sơ đồ trình bày chu kỳ chất Boron trong đất
Cần chú ý rằng khơng phải bón vơi nhiều ln ln gây ra sự hấp phụ B cao và làm
giảm sự hấp thu B của cây trồng. Bón vơi làm nâng pH của các loại đất có hàm lượng chất
hữu cơ cao, có thể làm tăng cường sự phân giải chất hữu cơ và hàm lượng B được giải phóng
càng cao.
Chất hữu cơ
Khả năng hữu dụng của B trong các tầng đất mặt thường cao hơn so với các tầng đất
bên dưới do các tầng đất mặt có hàm lượng chất hữu cơ cao hơn. Bón phân hữu cơ cho đất có
thể làm tăng nồng độ B trong cây, thậm chí có thể gây ngộ độc cho cây.
Sự tương tác với các nguyên tố khác
Tính chống chịu với điều kiện B thấp xảy ra khi cây bón ít Ca. Nhưng khi sự hữu dụng
của Ca cao, cây trồng sẽ có nhu cầu B cao hơn tương ứng. Sự hiện diện của Ca 2+ trong đất
kiềm hay đất bón q nhiều vơi sẽ hạn chế sự hữu dụng của B; vì vậy, nồng độ Ca 2+ trong

dung dịch cao sẽ bảo vệ được cây trồng không hấp thu dư thừa B. Tỉ lệ Ca/B trong lá được
dùng để đánh giá tình trạng B trong cây trồng. Để tránh kết quả sai lệch, điều quan trọng là cả
20


2 chất dinh dưỡng này đều không được ở nồng độ thiếu hay gây ngộ độc. Sự thiếu B được
biểu thị bởi những tỉ lệ > 1370:1 trong lúa mạch ở giai đoạn trổ; và 1200 đến 1500:1 ở thuốc
lá.
Khi hàm lượng B trong đất thấp, tăng lượng bón phân K có thể làm tăng thêm mức độ
thiếu B. Sự thiếu B trong cỏ alfalfa và các cây trồng khác như cọ dầu có thể gia tăng do việc
bón phân K, trường hợp này cần bón B để hạn chế giảm năng suất. Ảnh hưởng của K có thể
có liên quan đến sự hấp thu Ca. Ngược lại, tăng liều lượng bón K có thể làm tăng sự ngộ độc
B ở đất có hàm lượng B cao hoặc khi bón lượng phân B cao.
Ẩm độ đất
Hiện tượng thiếu B thường đi đôi với điều kiện thời tiết khô và ẩm độ thấp. Tính chất
này có liên quan đến việc hạn chế sự giải phóng B từ chất hữu cơ và làm giảm sự hấp thu B
do thiếu nước trong vùng rễ. Mặc dù hàm lượng B trong đất có thể cao, nhưng ẩm độ đất thấp
sẽ cản trở sự khuếch tán và dòng chảy khối lượng đến bề mặt hấp thu của rễ.
Các yếu tố cây trồng
Sự mẫn cảm với sự thiếu B rất khác nhau giữa các loại cây trồng. Sự khác nhau này
chủ yếu do các đặc tính di truyền. Các nghiên cứu trên cà chua cho thấy sự nhạy cảm với việc
thiếu B được kiểm soát bởi 1 gene đơn giản.
Do ngưỡng gây độc và thiếu B đối với cây trồng biến thiên trong một phạm vi khá
hẹp, nên đánh giá tính mẫn cảm của cây trồng đối với B là vấn đề rất quan trọng. Các cây
trồng nhạy cảm với sự ngộ độc B là nho, kidney beans, đậu nành, đậu phộng. Các cây tương
đối chịu được nồng độ B trung bình là lúa mạch, peas, bắp, khoai tây, alfalfa, thuốc lá, và cà
chua. Các cây có khả năng chịu được nồng độ B cao là cải củ, củ cải đường, và bông vải.
2.5.3 Các loại phân B và cách sử dụng
B là một trong những phân vi lượng được bán rộng rãi nhất. Sodium tetraborate,
Na2B4O7.5H2O là loại phân B được sử dụng rộng rãi nhất và chứa khoảng 15 % B (bảng 7.10).

Solubor là loại phân B có nồng độ cao, hồn tồn hịa tan nên có thể dùng để phun sương hay
phun bụi trực tiếp lên lá cây ăn quả, rau cải, và các loại cây trồng khác. Loại này cũng được
dùng để sản xuất các loại phân B dạng dung dịch và huyền phù. Solubor được ưa chuộng hơn
borax vì Solubor hịa tan nhanh hơn và ít thay đổi cấu trúc tinh thể do nhiệt độ. Khống Ca
borate, colemanite, thường được dùng bón cho các loại đất cát vì chúng ít hịa tan nên ít bị
rửa trơi hơn là sodium borate.
Các phương pháp bón phân B phổ biến là bón vãi, bón theo hàng, hay phun lên lá dưới
dạng nước hoặc dạng bụi. Trong hai phương pháp đầu, phân B thường được trộn với các loại
phân N-P-K và bón vào đất. Các muối B có thể dùng để phủ bên ngồi các loại phân bón dạng
hạt khác.
Phân B phải được bón đồng đều vào đất vì như đã thảo luận, phạm vi thiếu B và ngộ
độc B của cây rất hẹp. Trong quá trình sản xuất pha trộn phân B và các loại phân dạng hạt
khác, nên tránh sự tách rời hạt phân B và các hạt phân khác. Bón phân B với các loại phân
dạng dung dịch sẽ làm giảm được vấn đề tách rời giữa các hạt phân này.
Phun phân B lên lá thường thực hiện cho các loại cây ăn quả, kết hợp với thuốc bảo vệ
thực vật khơng có thành phần dầu. B cũng có thể dùng phun cùng với các chelate Mg, Mn và
urea. Phun phân B với thuốc diệt côn trùng cũng đã được sử dụng trên bơng vải. B cũng có
thể dùng với thuốc diệt cỏ bón cho đậu phộng.

21


Bảng 7.9 Tính mẫn cảm tương đối của 1 số cây trồng đối với sự thiếu B
Mẫn cảm cao
Cỏ họ đậu
Cải bông
Cần tây
Cải dầu
Cây họ tùng bách
Đậu phộng

Củ cải đường

Mẫn cảm trung bình
Táo
Broccoli
Bắp cải
Carrot
Bơng vải
Rau diếp

Cải củ
Cà chua

Mẫn cảm thấp
Măng tây
Lúa mạch
Bean
Dâu tây
Dưa chuột
Bắp
Họ hòa thảo
Yến mạch
Củ hành
Bạc hà
Khoai tây
Cao lương
Đậu nành
Bắp ngọt
Lúa mì


Bảng 7.10 Các loại phân Boron chính
Tên
Borax
Boric acid
Colemanite
Sodium pentaborate
Sodium tetraborate
Solubor

Công thức
Na2B4O7.10H2O
H3BO3
Ca2B6O11.5H2O
Na2B10O16.10H2O
Na2B4O7.5H2O
Na2B4O7.5H2O + Na2B10O16.10H2O

% B (gần đúng)
11
17
10-16
18
14-15
20-21

Liều lượng phân B bón phụ thuộc vào lồi cây, kỹ thuật canh tác, tình trạng mưa, bón
vơi, và chất hữu cơ trong đất, cũng như các yếu tố khác. Thường phân B được khuyến cáo bón
từ 0,5 – 3 kg/ha. Lượng phân B được khuyến cáo tùy thuộc vào phương pháp bón. Ví dụ,
lượng bón cho rau cải là 0,4 -2,7 kg/ha nếu bón vãi, và 0,09 - 0,4 kg/ha nếu phun lên lá.
2.6 Chloride (Cl)

Nồng độ Cl trong vỏ quả đất là 0,02 - 0,05 % và Cl hiện diện chủ yếu trong các đá
magma và trầm tích. Phần lớn Cl- trong đất thường tồn tại dưới dạng các muối hịa tan như
NaCl, CaCl2, và MgCl2. Cl- đơi khi là anion chính trong các loại đất mặn. Hàm lượng Cl trong dung dịch đất có thể biến thiên từ 0,5 – 6000 ppm.
Cl- trong đất bắt nguồn chủ yếu từ các muối bị giữ trong mẫu chất, từ các trầm tích
biển, và từ tro núi lửa. Gần như tồn bộ Cl - trong đất là do Cl- bị rửa trôi ra biển và sau đó
phần lớn được mang trở lại đất liền do mưa. Hàng năm, nước mưa cung cấp cho đất liền
khoảng 12 – 36 kg Cl-/ha và có thể đến 100 kg/ha trên các vùng ven biển.
Thường nước mưa ở các vùng ven biển có chứa khoảng 2 ppm Cl -. Hàm lượng thực sự
tùy thuộc vào hàm lượng Cl trong hơi nước biển, hàm lượng này có liên quan đến nhiệt độ; sự
hình thành bọt trên đỉnh sóng; lực và tần suất gió thổi vào đất liền từ biển; địa hình của vùng
ven biển; vũ lượng, tần suất và cường độ mưa. Các giọt muối hay các hạt bụi muối khơ có thể
bị cuốn lên rất cao do các dịng khơng khí mạnh và được mang đi với khoảng cách rất xa.
22


Nồng độ Cl- trong nước mưa xâm nhập nhanh vào trong đất, với khoảng cách 800 km, trung
bình khoảng 0,2 ppm.
2.6.1 Trạng thái của Cl- trong đất
Anion Cl- rất hòa tan trong hầu hết các loại đất; tuy nhiên, hàm lượng Cl - trao đổi đáng
kể có thể hiện diện trong các loại đất kaolinitic chua, loại đất có điện tích (+) phụ thuộc pH rất
lớn.
Do tính di động cao trong đất, đặc biệt là đất chua, nên Cl - có thể tuần hồn nhanh
chóng trong đất. Cl sẽ tích lũy trong đất do sự thóat thủy bị hạn chế và trong mạch nước ngầm
nơng nơi Cl- có thể được di chuyển đến do mao dẫn vào trong vùng rễ và tích tụ gần mặt đất.
Các vấn đề thừa Cl- xảy ra trên một số vùng có tưới nước cho cây trồng và thường là
kết quả của sự các tương tác bởi hai hay nhiều yếu tố sau:
Hàm lượng Cl- trong nước tưới cao.
Thiếu nước để rửa Cl- tích lũy.
Tính chất vật lý của đất và điều kiện tiêu nước kém.
Mực nước ngầm cao và sự di chuyển Cl- do mao dẫn vào vùng rễ.

Sự hủy hoại môi trường trong các vùng cục bộ do nồng độ Cl - cao là hậu quả của tan
băng, q trình làm mềm hóa nước, sự xâm nhập nước biển kết hợp với việc khai thác dầu mỏ
và khí thiên nhiên, và các chất thải từ các cơng nghiệp muối.
Ảnh hưởng chính của hàm lượng Cl- cao là làm tăng áp suất thẩm thấu của nước trong
đất và vì thế làm giảm sự hữu dụng của nước đối với cây trồng. Hơn nữa, 1 số cây gỗ, bao
gồm hầu hết các cây ăn quả, dâu tây và các cây dạng dây leo, tùng bách, và các cây vườn, rất
mẫn cảm với Cl- và phát triển triệu chứng cháy lá khi nồng độ Cl - đạt đến 0,50% trọng lượng
chất khô. Lá thuốc lá và cà chua trở nên dày hơn và bắt đầu cuộn tròn lại khi thừa Cl-.
2.6.2 Sự phản ứng của cây trồng đối với Cl
Nồng độ NO3- và SO42- cao sẽ làm giảm sự hấp thu Cl - của nhiều loại cây trồng, bao
gồm khoai tây, beans, cà chua, củ cải đường. Khi hàm lượng Cl - tăng sẽ làm giảm sự hấp thu
NO3- đã được quan sát trên lúa mạch, bắp, và lúa mì. Sự tương tác nghịch giữa Cl - và NO3- do
sự cạnh tranh các vị trí của chất mang ở bề mặt rễ.
Cl- là nguyên tố có lợi cho các cây “ưa muối” như củ cải đường, bắp cải, và cần tây.
Sự phản ứng trong sinh trưởng của dừa đối với KCl có quan hệ rất chặt đến hàm lượng Cl trong lá và có tương quan nghịch với hàm lượng K +, đều này được giải thích do người ta nhận
thấy ảnh hưởng tốt của NaCl (hay ngay cả nước biển) trên cây dừa, cọ dầu, và cây kiwi.
Năng suất khoai tây tăng khi nồng độ Cl - trong cuống lá tăng từ 1,1 % đến 6,9 % và
nồng độ NO3- giảm. Mặc dù ảnh hưởng tốt của Cl- đến sự sinh trưởng của cây trồng chưa
được hiểu biết đầy đủ, nhưng các mối quan hệ giữa nước-và cây trồng được cải thiện và ức
chế được các loại bệnh cây là hai yếu tố quan trọng có liên quan đến Cl.
2.6.3 Các loại phân Cl và cách sử dụng
Khi cần bón phân Cl, có thể sử dụng các loại phân sau:
Ammonium chloride (NH4Cl)
66%Cl
Calcium chloride(CaCl2)
65%Cl
23


Magnesium chloride (MgCl2)

Potassium chloride (KCl)
Sodium chloride (NaCl)

74%Cl
47%Cl
60%Cl

Liều lượng Cl bón rất khác nhau tùy thuộc vào nhiều điều kiện, bao gồm loại cây
trồng, phương pháp bón, và mục đích bón (ví dụ như bón để chữa trị thiếu dinh dưỡng, bón để
làm giảm bệnh, hay để cải thiện tình trạng nước trong cây). Nơi nghi ngờ có thể có bệnh thối
rễ được khuyến cáo có thể bón 35 – 40 kg Cl -/ha theo hàng. Bón vãi 75 – 125 kg Cl-/ha làm
giảm có hiệu quả một số bệnh trên lá.
2.7 Molybdenum (Mo)
Nồng độ Mo trong vỏ quả đất vào khoảng 2ppm và trong đất thay đổi từ 0,2 – 5 ppm.
Các dạng Mo trong đất chủ yếu bao gồm Mo khơng trao đổi trong các khống ngun sinh và
thứ sinh; Mo trao đổi được giữ bởi các oxide Fe và Al; Mo trong dung dịch đất; và Mo trong
chất hữu cơ. Mặc dù Mo là một anion trong dung dịch, nhưng các quan hệ giữa các thành
phần này lại tương tự như các cation kim loại khác.
Sự thiếu Mo thường xảy ra trên đất cát chua. Chất dinh dưỡng này thường thiếu trên
đất podzol có hàm lượng Mo tổng số thấp, trên đất chua có hàm lượng oxide Fe và Al ngậm
nước cao, hay trên các loại đất hình thành từ mẫu chất là đá vôi.
2.7.1 Mo trong dung dịch đất
Mo trong dung dịch hiện diện chủ yếu ở các dạng MoO 42-, HMoO4-, và H2MoO40.
Nồng độ của MoO42- và HMoO4- tăng đáng kể khi pH đất tăng. Khả năng hịa tan của Mo
trong đất được kiểm sốt chủ yếu bởi Mo trong đất, sự hòa tan của Mo trong đất tương tự như
khả năng hòa tan của PbMoO4 hay wulfenite.
Cây trồng hấp thu Mo dưới dạng MoO42-. Nồng độ Mo trong dung dịch đất cực kỳ
thấp được phản ảnh bởi hàm lượng Mo thấp trong cây trồng (khoảng 1ppm Mo). Ở nồng độ >
4 ppb trong dung dịch đất, Mo được vận chuyển đến rễ cây trồng bằng dịng chảy khối lượng,
trong khi đó sự khuếch tán xảy ra khi nồng độ Mo < 4 ppb.

2.7.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng của Mo
Các yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng hữu dụng của Mo là pH đất và
hàm lượng các oxide Fe và Al.
pH đất và bón vơi
Khơng như các nguyên tố vi lượng khác, khả năng hữu dụng của Mo tăng theo sự gia
tăng của pH. Biểu đồ hòa tan cho thấy là khi tăng 1 đơn vị pH sẽ tăng hoạt độ của MoO 42- lên
khoảng 10 lần.
Bón vôi để hiệu chỉnh độ chua của đất sẽ làm tăng khả năng hữu dụng của Mo và hạn
chế sự thiếu Mo. Nói một cách khác khả năng hữu dụng của Mo giảm khi bón các loại phân
chua như (NH4)2SO4 vào đất có sa cấu thơ.
Phản ứng với Fe và Al
Mo bị hấp phụ mạnh bởi các oxide Fe và Al, 1 phần Mo hấp phụ này sẽ trở nên không
hữu dụng đối với cây trồng. Khi cây trồng hấp thu Mo từ dung dịch đất, Mo bị hấp phụ sẽ
được giải phóng vào dung dịch do tác động khối lượng. Do các phản ứng hấp phụ, nên các
loại đất có hàm lượng Fe cao, đặc biệt là Fe vơ định hình trên bề mặt sét, có xu hướng làm
giảm Mo hữu dụng.

24


Sự tương tác với các chất dinh dưỡng khác
P làm tăng khả năng hấp thu Mo của cây trồng, có thể là do sự trao đổi giữa P và các
ion MoO42- bị hấp phụ. Ngược lại, khi nồng độ SO 42- trong dung dịch cao sẽ làm giảm sự hấp
thu Mo của cây trồng. Trên đất ở ngưỡng thiếu Mo, bón nhiều phân bón có chứa SO 42- có thể
gây ra sự thiếu Mo trên cây trồng, và nên bón phân có chứa Mo.
Cả 2 nguyên tố Cu và Mn cũng có thể làm giảm sự hấp thu Mo; tuy nhiên, Mg có sẽ
làm tăng cường sự hấp thu Mo của cây trồng.
Đạm NO3- làm tăng cường sự hấp thu Mo, ngược lại NH4-N sẽ làm giảm sự hấp thu
Mo. Ảnh hưởng có lợi trong việc hấp thu Mo của NO 3- có thể là do các ions OH- nên làm tăng
khả năng hòa tan của Mo trong đất.

Các ảnh hưởng của khí hậu
Hiện tượng thiếu Mo thường nghiêm trọng trong điều kiện đất khơ, có thể là do giảm
khối lượng dòng chảy hay khuếch tán trong điều kiện ẩm độ đất thấp.
Các yếu tố cây trồng
Mo trong đất có hàm lượng rất thấp; vì thế nên cây trồng có chứa 1 hàm lượng Mo rất
nhỏ. Các cây trồng mẫn cảm với nồng độ Mo trong dung dịch thấp là các cây họ đậu, họ thập
tự (các loại cải bông, cải dầu…), và cam quýt. Các cây khác cũng mẫn cảm với nồng độ Mo
thấp là bông vải, rau diếp, bắp ngọt, khoai lang, và cà chua. Cây họ đậu mẫn cảm nhất đối với
sự thiếu Mo. Các cây hạt nhỏ và 1 số cây trồng theo hàng có xu hướng chống chịu được với
hàm lượng Mo hữu dụng trong đất thấp.
2.7.3 Sự ngộ độc Mo
Hàm lượng Mo thừa sẽ gây ngộ độc cho cây, đặc biệt là các đồng cỏ chăn nuôi đại gia
súc. Các vùng ngộ độc Mo xảy ra trên các loại đất có pH cao. Các điều kiện đất trong đó thực
vật có hàm lượng Mo cao có thể tìm thấy trên các loại đất ẩm ướt, có phản ứng gần trung tính
hay kiềm, thường có tầng A1 dày được phủ bên trên là 1 tầng bùn hay than bùn mỏng. Các túi
than bùn cũng có thể hiện diện trong các vùng xảy ra vấn đề ngộ độc Mo.
Molydenosis, 1 loại bệnh trong gia súc, xảy ra do sự mất cân đối giữa Mo và Cu trong
chế độ nuôi dưỡng, khi hàm lượng Mo trong cỏ > 5 ppm. Sự ngộ độc Mo làm cây cỏ sinh
trưởng cằn cỗi, và sự phá hủy xương trong động vật và bệnh có thể được chữa trị bằng cách
cho ăn thêm khống có chứa Cu, tiêm Cu, hay bón CuSO 4 vào đất. Các kỹ thuật khác được sử
dụng để làm giảm tính độc của Mo là bón S và Mn và cải thiện sự thoát thủy của đất.
2.7.4 Các loại phân Mo và cách sử dụng
Các loại phân bón Mo thường dùng được liệt kê trong bảng sau. Liều lượng bón
thường rất thấp, chỉ khoảng vài trăm g/ha, và dung dịch có thể được bón vào đất, phun lên lá,
hay xử lý hạt giống trước khi gieo trồng. Liều lượng Mo bón tối hảo tùy thuộc vào phương
pháp bón, với phương pháp phun lên lá nên dùng liều lượng thấp. Xử lý hạt giống bằng cách
ngâm hạt vào dung dịch sodium molybdate trước khi gieo được sử dụng rộng rãi do lượng
phân Mo cần rất thấp. Xử lý hạt giống với bùn hay bụi có chứa Mo cũng có hiệu quả. Để cho
sự phân bố được đồng đều khi bón với lượng nhỏ phân Mo vào đất, nên trộn phân Mo với các
loại phân N-P-K. Phun lên lá với NH4+ hay Na molybdate cũng có hiệu quả để chữa trị bệnh

thiếu Mo.
Bón Mo cho cây họ đậu, trong một số trường hợp sẽ làm tăng năng suất tương đương
như bón vơi. Vì bón vơi có thể tốn kém hơn nhiều, nên bón phân Mo được ưa chuộng hơn.
Bảng 7.11 Các loại phân Molybdenum
Tên

Công thức

% Mo (gần đúng)
25


×