Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Âm nhạc dân gian “Cò ke ôống kháo” trong đời sống cộng đồng làng Mường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.91 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

<b>A</b>



<b>ÂM NHẠC DÂN GIAN “CÒ KE ÔỐNG KHÁO” </b>


<b>TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG LÀNG MƯỜNG</b>



<b>TRẦN BẠCH DƯƠNG*</b>


<b>Tóm tắt </b>


<i>Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ bị qn </i>
<i>lãng và mất đi, nhưng “Cị ke ơống kháo” - một loại hình âm nhạc dân gian của người Mường vẫn tồn </i>
<i>tại một cách bền bỉ trong đời sống cộng đồng làng Mường. Tìm hiểu những thực hành âm nhạc “Cị ke </i>
<i>ơống kháo” cũng như vai trị, ý nghĩa của “Cị ke ơống kháo” trong sinh hoạt tín ngưỡng và sinh hoạt đời </i>
<i>thường của người Mường, giúp chúng ta lý giải về sức sống bền bỉ và sự trường tồn của nó trong đời sống </i>
<i>văn hóa của cộng đồng làng Mường.</i>


<b>Từ khóa</b>: Cị ke ôống kháo, âm nhạc dân gian, nghệ nhân dân gian, văn hóa dân gian, làng Mường,
người Mường, Hịa Bình


<b>Abstract</b>


<i>In the context of modern society, many traditional cultural factors are facing the danger of being </i>
<i>forgotten and lost, but “Co ke oong khao” - a type of folk music of Muong people still exists persistently in </i>
<i>the life of Muong village community. Understanding the musical practices of “Co ke oong khao” as well </i>
<i>as the role and meaning of “Co ke oong khao” in the religious activities and daily life of the Muong people </i>
<i>is also to explain the enduring vitality and its longevity in the cultural life of Muong village community.</i>


<b>Keywords: </b>Co ke oong khao, folk music, folk artisan, folklore, Muong village, Muong people,
Hoa Binh


Â

m nhạc - theo cách hiểu đơn giản

nhất, đó là sự lựa chọn, tái tạo và
sắp đặt âm thanh của con người.
Âm nhạc phổ biến ở mọi tộc người trên thế
giới, bởi vì con người ở mọi khơng gian và thời
gian ln có hứng thú với những âm thanh
được sắp đặt ấy. Mỗi tộc người lại có những
cách thức sáng tạo và sử dụng âm nhạc khác
nhau, tùy vào cách họ hiểu thế nào là âm nhạc
và nó có ý nghĩa gì đối với họ.


Ở Việt Nam, nếu người Kinh có Nhã nhạc
cung đình, phường Bát âm; người Thái sở
hữu các loại Pí, Tính Tẩu, Khèn bè,... thì người


Mường có “Cị ke ôống kháo”. Thông qua mô
tả, phân tích việc sử dụng âm nhạc “Cị ke
ơống kháo” của người Mường trong những bối
cảnh cụ thể, có thể lý giải những thơng điệp
mà họ gửi gắm trong đó, đồng thời chỉ ra vai
trò, ý nghĩa của “Cò ke ôống kháo” đối với đời
sống cộng đồng làng Mường.


<b>1. Cộng đồng làng Mường trong mối tương </b>
<b>quan với “Cị ke ơống kháo” </b>


Người Mường thường dùng từ <i>xóm</i> hay


<i>quêl </i>để chỉ nơi cư trú của mình, những từ này
tương đương với làng. Dân số của một làng
Mường thường ở trong khoảng vài chục gia


đình, mỗi gia đình có khoảng 4 - 6 người. Về
mặt địa lý, làng Mường được phân định bằng


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



ranh giới của đất ở, những cánh rừng và ruộng
canh tác [5, tr.28-29].


Jeanne Cuisinier, trong cuốn <i>Người Mường </i>
<i>- địa lý nhân văn và xã hội học</i>, đã dành nhiều
trang viết về làng Mường. Bà mô tả làng
Mường thường ở gần nguồn nước (suối, sông
nhỏ), đây là nơi diễn ra các sinh hoạt thiết yếu
hàng ngày: lấy nước, tắm giặt, rửa rau, giết
mổ gia súc, gia cầm,... và “nó rải ra trên một
diện tích rộng hơn diện tích cần thiết cho số
dân” [2, tr.129]. Bà cũng viết về “lãnh chúa”1


với tư cách là một đặc trưng xã hội của làng
Mường, người Mường gọi vị “lãnh chúa” này
là <i>lang</i>. Pierre Grossin, trong cuốn <i>Tỉnh Mường </i>
<i>Hịa Bình</i>, cũng nhận định rằng, <i>lang</i> tức là các
chúa đất, đứng đầu một làng, tại đây quyền
lực của <i>lang</i> là tuyệt đối, đặc biệt đối với việc
sở hữu và phân chia sở hữu ruộng đất [4,
tr.72-82].


Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế
độ lang đạo bị xóa bỏ, vai trị của lang đã lui vào
quá khứ, nhưng ở làng Mường, một số vị trí xã


hội và thiết chế văn hố truyền thống như: thầy
Mo, thầy Thường, ông T’lượng, bà Mỡi, miếu thờ
(hoặc đình), ban nhạc “Cị ke ơống kháo” hay
phường Xắc Bùa,… vẫn tồn tại đến bây giờ và
đều thuộc về một làng Mường cụ thể.


Hiện nay, theo phân chia địa giới và quản lý
hành chính của Nhà nước, làng Mường tương
đương với một xóm hoặc tổ dân phố. Nó được
gắn với một cơ cấu tổ chức xã hội, gồm có:
Trưởng xóm (hay tổ trưởng), Chi bộ Đảng, Mặt
trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội nông dân...


Như vậy, kể cả thời kỳ trước và sau 1945,
làng Mường vẫn là một cộng đồng xã hội có
các mối liên hệ chặt chẽ và tương đối độc lập.
Cộng đồng làng Mường được hiểu là <i>một đơn </i>
<i>vị dân cư (có tổ chức) nhỏ nhất của tộc người </i>
<i>Mường, cùng cư trú trong một môi trường tự </i>
<i>nhiên, chia sẻ bối cảnh kinh tế, xã hội chung, </i>
<i>cùng thừa nhận những di sản văn hóa Mường là </i>
<i>một phần trong bản sắc văn hóa của họ.</i>


Thơng thường, mỗi làng Mường ln có
một nhóm nghệ nhân “Cị ke ơống kháo”, và họ


của làng. Số lượng các nghệ nhân thường biến
động (người mất do tuổi già, kẻ đi làm ăn xa...),
nhưng dù số lượng ít hay nhiều thì họ chỉ tập
hợp với nhau thành 01 ban nhạc ở mỗi làng.


Theo khảo sát của tác giả bài viết, tại thời điểm
năm 2019, có những làng Mường chỉ cịn 1 - 2
nghệ nhân, không đủ để tạo thành một ban
nhạc, mỗi khi cần đến âm nhạc “Cò ke ôống
kháo”, họ phải “mượn” người hoặc ghép với
ban nhạc của làng khác, thậm chí có làng hồn
toàn phải nhờ đến ban nhạc ở các làng lân cận.
Song, đó chỉ là những trường hợp hãn hữu
khơng phổ biến.


<b>2. Các khơng gian trình diễn âm nhạc “Cị ke </b>
<b>ơống kháo” </b>


<i><b>2.1. Trình diễn âm nhạc “Cị ke ơống kháo” </b></i>
<i><b>tại đám tang </b></i>


Theo mơ tả của Cuisinier, ban nhạc đám ma
Mường là “một ban nhạc nhỏ gồm từ năm đến
mười bốn người chơi nhạc”, trong đó, người
thợ kèn là quản đốc của ban nhạc, ơng ta có
quyền lựa chọn kết nạp hoặc khai trừ những
người chơi nhạc khác. Cuisinier cũng ghi nhận
chỉ có 04 bài nhạc và nhận xét rằng nội dung
các bài nhạc này “rất nghèo nàn” [2, tr.678-680].
Trong thực tế, thành viên của ban nhạc đám
ma là các nghệ nhân “Cị ke ơống kháo”. Chỉ
khác về tổ chức dàn nhạc, nó gồm các nhạc khí
“Cị ke ơống kháo” (02 nhạc khí chủ chốt là đàn
nhị, sáo trúc và các nhạc khí khác như trống
con, chũm chọe, đàn tam, đàn bầu…) cộng


với 03 nhạc khí dành riêng cho tang lễ (kèn,
trống cái và chiêng đơn). Trong đó, chiếc kèn
đám ma (kèn xona) là nhạc khí phải có tại đám
tang. Người Mường coi âm sắc của kèn là thứ
chuyên dùng cho các nghi lễ4<sub>, đặc biệt là trong </sub>


tang ma5<sub>, nhưng vì khơng được dùng ở những </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

<b>A</b>


Trình tự tham gia của ban nhạc “Cị ke ơống


kháo” tại lễ tang như sau: Trước tiên, gia đình
tang chủ phải đi mời ban nhạc “Cị ke ơống
kháo”. Họ mang theo lễ vật, thường là vài lá
trầu, một chai rượu và một ít tiền (20 - 50 ngàn
VNĐ) đến gặp người trưởng nhóm “Cị ke ơống
kháo”. Họ trình bày lý do rằng trong gia đình vừa
có người chết, cần sự giúp đỡ của ban nhạc để
việc tổ chức tang ma được chu đáo, đúng theo
tục lệ. Người trưởng nhóm sau khi kiểm tra lịch
làm việc của ban nhạc, sẽ nhận lễ và nhận lời rồi
thông báo cho các thành viên khác.


Tại đám tang, người ta sắp xếp một khu
vực ngồi dành riêng cho ban nhạc, đó là một
khoảng khơng gian đủ rải một chiếc chiếu đôi,
một chiếc giường hay phản gỗ. Ở đó, họ được
phục vụ nước trà, thuốc lá và những bữa cơm.
Ban nhạc sẽ trình tấu âm nhạc từ lúc phát tang
cho đến khi kết thúc tại nơi hạ huyệt. Âm nhạc


trong đám tang Mường khơng có thể loại “hát
khóc”6<sub> như ở đám tang của người Kinh, chỉ </sub>


đơn thuần là bài bản hòa tấu của các nhạc khí.
Bài bản “Cị ke ơống kháo” trên thực tế có
nhiều hơn 04 bài như ghi nhận của Cuisinier.
Ngoài một số bản nhạc phổ biến chung nơi
nào cũng có, ở mỗi làng Mường lại có những
bài bản riêng. Các bản nhạc thường gắn với
một thủ tục hay một nghi thức cụ thể và được
gọi theo tên nghi thức ấy. Ví dụ: Bài <i>Dâng cơm</i>


dùng trong nghi thức dâng cơm cho người
chết; <i>Hót loóng</i> để mời cơm người sống (người
trong gia đình và những người phục vụ); <i>Đi </i>
<i>đàng</i> (đi đường) dùng trên đường đưa người
chết đến nơi chôn cất; <i>Mo trâu</i> dùng khi cúng
cơm có thịt trâu; <i>Lưu thủy trung</i> dành để đón
những người đến phúng viếng.


Vấn đề cần tìm hiểu là: Nếu xem chiếc kèn
đám là nhạc khí chính ở đám tang, thì “Cị ke
ơống kháo” được sử dụng tại đây để làm gì?
Qua phỏng vấn các nghệ nhân “Cị ke ôống
kháo”, chúng tôi được họ cho biết “Cò ke ôống
kháo” vừa hòa tấu, vừa được dùng luân phiên
với kèn đám. Bởi: <i>Thứ nhất</i>, chẳng ai có thể


nhạc khí có âm sắc nỉ non giống như tiếng
khóc của con người, hơn nữa âm lượng của


nó rất lớn. Vì vậy, kể cả trong tang lễ thì người
Mường cũng ngại phải thường xuyên sử dụng
chiếc kèn này. Nó mang lại cảm giác ảo não,
day dứt, bức bối đến nỗi chẳng ai có thể chịu
đựng lâu. Và khi người ta đã quá mệt mỏi với
tiếng kèn đám, thì đó là lúc “Cị ke ôống kháo”
được sử dụng. Khác với tiếng kèn, “Cò ke ơống
kháo” có âm lượng nhỏ, âm sắc mềm mại, cùng
với các bài bản có nhịp độ vừa phải, giai điệu
nhẹ nhàng khiến cho người ta có được những
giây phút nghỉ ngơi, thư giãn trấn an tinh thần.
Cũng bởi thế, “Cị ke ơống kháo” thường được
dùng nhiều hơn vào lúc đêm khuya, khi mà cả
làng Mường đi vào giấc ngủ, ban nhạc này sẽ
phục vụ cho phần diễn xướng của thầy Mo từ
đêm cho đến gần sáng. Có lẽ đó là lý do rất
chính đáng để người Mường sử dụng “Cị ke
ơống kháo” ở đám tang.


<i><b>2.2. Trình diễn âm nhạc “Cị ke ơống kháo” </b></i>
<i><b>tại lễ hội</b></i>


Cũng trong cuốn sách của Cuisinier, chương
XI - <i>Nghi lễ mừng năm mới</i>, phần mơ tả về <i>“thết </i>
<i>làng”</i>7<sub> có đoạn nói về sự trình tấu của hai nhạc </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



<i>Tham gia trong đồn rước </i>



Trong các lễ hội truyền thống của người
Mường trước đây, hình ảnh “Cị ke ơống kháo”
tham gia vào các đám rước cịn được thấy thấp
thống trong bài Mo<i> Đẻ Tá Cần:</i>


<i>“…Cun lang Tá Cần bước chân lên lưng ngựa</i>
<i>Người tinh mường bước theo sau</i>


<i>Chuyển theo những đàn hát, đàn chầu</i>
<i>Đàn đáy, đàn nhị, ống sáo, ống tiêu</i>


<i>Thanh la dóng hiệu, trống kiệu cầm quân…” </i>


[7, tr.127]


Hay trong bài khấn <i>Mỡi chuyển quân: </i>
<i>“… Cho Vua Cha đi mường xa thắng thế</i>
<i>Dọn lấy trống cái, dọn lấy trống đồng</i>
<i>Dọn trống bồng trống bạt</i>


<i>Dọn trống hát trống chầu</i>
<i>Đàu bầu, đàn đáy, cị ke</i>


<i>Trỉ bè ống gọi nói sơn đỏ võ vàng…”</i> [6,
tr.140].


Diễn trình của các lễ hội thường bắt đầu
bằng nghi thức rước kiệu. Xuất phát từ nơi thờ
tự (đình làng, miếu thờ, hang thờ), đồn rước
sẽ thực hiện một hành trình với những nội


dung khác nhau8<sub>. </sub>


Trong đồn rước, ban nhạc “Cị ke ơống
kháo” đi trong nhóm đầu, chỉ sau 2 hoặc 3
người đánh trống, chiêng. Một lần nữa, chúng
tôi không xếp những người đánh trống chiêng
vào biên chế ban nhạc “Cị ke ơống kháo”, vì
hai phần trình tấu này tách biệt nhau, nhịp
trống chiêng trình bày một tiết tấu riêng, đơn
điệu9<sub> và không ăn nhập với các bản nhạc của </sub>


“Cị ke ơống kháo”. Ban nhạc “Cị ke ơống kháo”
thì cứ tấu bài bản của họ mà chẳng mảy may
quan tâm đến nhịp trống chiêng trì thục ấy.


Cảm giác trải nghiệm thực tế cho thấy,
tiếng chiêng trống với âm lượng lớn nên nghe
thấy được từ rất xa, như một tín hiệu báo cho
cả cộng đồng biết về hành trình của đồn rước.
Âm nhạc “Cị ke ơống kháo” có âm lượng nhỏ
hơn nhiều, chỉ những người trong đoàn rước
mới nghe thấy. Bài bản âm nhạc dùng trong lễ


nó được các nghệ nhân trình diễn lặp đi lặp
lại trong suốt hành trình của đám rước. Chỉ khi
dừng lại tại nơi hành lễ, ban nhạc “Cò ke ôống
kháo” mới chuyển sang các bài bản khác10<sub>. </sub>


<i>Phục vụ tại nơi cúng tế</i>



Sau lễ rước là lễ tế, người ta thường chọn
một khoảng không gian đủ rộng để hành lễ.
Lễ hội Khai hạ Mường Bi chọn sân vận động
xã Phong Phú; lễ hội rước Bụt ở xã Nhân Nghĩa
chọn cánh đồng bên cạnh hang Bụt dưới chân
núi Dúng (Khụ Dúng); lễ hội Khai hạ đình Ngịi
được tổ chức ngay tại sân đình Ngòi.


Trong thời gian tổ chức lễ tế, ban nhạc “Cị
ke ơống kháo” được sắp xếp ở vị trí bên phải,
sát cạnh ban thờ hành lễ. Họ trình diễn luân
phiên các bài bản trong khi người ta thực hiện
các nghi thức cúng tế và chỉ tạm dừng khi thầy
Mo trình bày lời khấn.


<i>Cuộc thi “Bản âm”</i>


Gần đây, lễ hội Khai hạ Mường Bi có một
cuộc thi dành riêng cho các ban nhạc “Cò ke
ôống kháo”, gọi là cuộc thi “Bản âm”. Thuộc
phạm vi giữa các xã trong huyện Tân Lạc, thành
viên của mỗi ban nhạc tham gia cuộc thi là các
nghệ nhân được lựa chọn trong cùng một xã.
Cuộc thi năm 2016 có ban nhạc của 5 xã: Phú
Cường, Tử Nê, Mãn Đức, Quý Hòa, Phong Phú.


Ơng Bùi Văn K., người từng làm việc ở Phịng
Văn hóa - Thơng tin huyện Tân Lạc cho chúng
tôi biết: Nghĩa đen của từ “Bản âm” dùng để
chỉ vị trí dành riêng cho ban nhạc “Cị ke ôống


kháo” ở trong một không gian nào đó, nó cũng
được hiểu là tên gọi khác của ban nhạc này.
Cuộc thi Bản âm ở lễ hội Khai hạ Mường Bi là
sáng kiến của Phịng Văn hóa - Thơng tin, được
tổ chức nhằm mục đích khuyến khích sự phát
triển của loại hình âm nhạc dân gian này. Có
một vài điểm chúng tơi ghi nhận được từ cuộc
thi này như sau:


<i>Thứ nhất,</i> khơng có sự tham gia của kèn
đám, trống cái và chiêng, đúng theo quan
niệm đây là các nhạc khí chỉ dành riêng cho
nghi lễ, khơng dùng để giải trí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

<b>A</b>


đã thấy họ mang tới đây đàn bầu, đàn nguyệt,


mandolin, violon, các loại chũm chọe to nhỏ,
và cả những ống nứa để giữ nhịp,11<sub>… nhưng </sub>


có lẽ người ta dùng các nhạc khí này để làm
đẹp về hình ảnh là chính, mà ít quan tâm đến
hiệu quả âm nhạc.


<i>Thứ ba,</i> người xem rất đông, song không
chú trọng đến việc thưởng thức âm nhạc, bởi
họ liên tục nói chuyện, xơ đẩy nhau, gây ồn ào,
át cả phần trình diễn của ban nhạc.


<i><b>2.3. Sinh hoạt âm nhạc “Cị ke ơống sáo” </b></i>


<i><b>tại nhà riêng của nghệ nhân </b></i>


Thời gian dành cho sinh hoạt âm nhạc
thường là sau bữa cơm tối và kéo dài đến đêm
khuya. Các nghệ nhân “Cị ke ơống kháo” sẽ tập
hợp tại nhà của một thành viên trong nhóm
theo lịch hẹn trước. Họ chuẩn bị một bàn uống
nước trà (<i>bàn trà nước lá</i>), thêm vài chén rượu
để nhấm nháp. Họ hòa tấu các bài bản với
nhau, nhận xét góp ý cho nhau về ngón đàn,
câu nhạc, xen lẫn các câu chuyện tâm tình. Họ
cũng thường nhân dịp này để truyền dạy nghề
cho học trò. Những buổi sinh hoạt âm nhạc
như thế diễn ra thường xuyên, nhất vào dịp
đầu năm mới. Sau chén rượu xuân ấm áp và
những lời chúc tụng, việc chơi đàn và thưởng
thức âm nhạc lúc này cho họ những cảm xúc
thư giãn, thăng hoa tuyệt vời.


Sinh hoạt “Cị ke ơống kháo” được coi là
một thú vui tao nhã và không bị kiêng kỵ như
luyện tập kèn đám, trống cái. Cả làng Mường
đều biết đến sinh hoạt này, đơi khi họ cịn
tới thưởng thức âm nhạc và tham gia vào các
cuộc trò chuyện.


<b>3. Vai trị và ý nghĩa của “Cị ke ơống kháo” </b>
<b>đối với cộng đồng làng Mường</b>


<i><b>3.1. “Cị ke ơống kháo” đáp ứng nhu cầu </b></i>


<i><b>thẩm mỹ</b></i>


Ở hình thức sinh hoạt “Cị ke ơống kháo”
tại nhà của các nghệ nhân, chúng ta dễ dàng
nhận thấy lý do chính đáng là để thỏa mãn
nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của họ. Khơng chỉ


ta dùng đến nó.


Chúng tơi hỏi thầy Mo Bùi Văn T ở xã Sủ
Ngòi: “<i>Có khi nào đám tang khơng sử dụng âm </i>
<i>nhạc “Cị ke ơống kháo”?</i>”. Ơng cho biết, việc
khơng có âm nhạc “Cị ke ơống kháo” tại tang
lễ có lẽ chưa bao giờ xảy ra. Bản thân ông cho
rằng “Cị ke ơống kháo” là một yếu tố để tăng
thêm sự long trọng, uy nghi của các nghi lễ.
Cịn những người trong gia đình tang chủ thì
tin rằng âm nhạc “Cị ke ơống kháo” là một sự
chăm sóc dành cho linh hồn người chết, giúp
cho linh hồn ấy được trấn an, xoa dịu, thanh
thản để trải qua các nghi lễ tang ma và về an
nghỉ ở nơi chơn cất. Bên cạnh đó, chính bản
thân họ cũng cảm thấy được âm nhạc an ủi
trước nỗi buồn tang gia (PVS, ngày 29/4/2019).
Chi tiết các gia đình tang chủ đi mời ban nhạc,
chăm sóc và cảm ơn họ cũng cho thấy sự tôn
trọng của cộng đồng đối với ban nhạc “Cị ke
ơống kháo”.


Ở đám rước trong lễ hội, nếu âm thanh của


trống và chiêng vang xa nhằm báo hiệu cho cả
làng Mường biết về hành trình của đám rước,
thì âm nhạc “Cị ke ơống kháo” với âm lượng
nhỏ, nhẹ nhàng có lẽ là món ăn tinh thần mà
người ta chủ ý dành cho các vị thần trong đám
rước ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



Như vậy, có thể khẳng định <i>“Cị ke ôống </i>
<i>kháo” đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ trong sinh </i>
<i>hoạt đời thường và sinh hoạt tín ngưỡng của </i>
<i>cộng đồng làng Mường.</i>


<i><b>3.2. “Cị ke ơống kháo” mang tính biểu </b></i>
<i><b>tượng</b></i>


Khi tổ chức tang ma hay lễ hội, người ta đều
dùng đến “Cị ke ơống kháo”, nó trở thành dấu
hiệu để cộng đồng biết rằng <i>đang có sự kiện gì </i>
<i>diễn ra ở đây. </i>Và bởi “Cị ke ơống kháo” là của
người Mường nên nó trở thành một biểu tượng
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của họ.
Mặt khác, cách sử dụng nhạc khí dường
như cịn phản ánh quan điểm vũ trụ luận của
người Mường và cả những điều mà người
Mường trông đợi. Đi sâu vào chiều cạnh này,
chúng tôi nhận thấy các quan niệm về cõi trần
gian và cõi thiêng được bộc lộ như sau:



+ Kèn, trống cái được gắn với thế giới thần
và ma (cõi thiêng), chỉ dùng trong các nghi lễ,
khơng sử dụng để giải trí hàng ngày.


+ Cị ke, ôống kháo và các nhạc khí khác
gắn với thế giới người (cõi trần gian). Nó là một
thành phần của cuộc sống con người, được
các nghệ nhân dùng để giải trí hàng ngày.


Điều thú vị ở chỗ, khi ban nhạc “Cị ke ơống
kháo” trình diễn tại đám tang hay lễ hội, các
nhạc khí của hai thế giới này sẽ cùng hịa tấu.
Phải chăng đó là thông điệp mà người Mường
muốn bày tỏ một cách kín đáo rằng đây là
khoảng thời gian khác thường, là dịp để hai
thế giới có thể giao tiếp, đồng hành với nhau.


Qua đó, có thể thấy “Cị ke ơống kháo”
mang tính biểu tượng khá rõ. Trong phạm
vi bài viết, chúng tôi chưa đề cập tới kết quả
phân tích các bài bản âm nhạc của nó, bởi lẽ
mỗi tác phẩm âm nhạc sẽ mang trong nó tính
biểu tượng ít hay nhiều, điều đó xin được tiếp
tục ở một bàn luận khác.


<i><b>3.3. “Cò ke ôống kháo” tạo sự đồng cảm </b></i>
<i><b>và chia sẻ trong cộng đồng</b></i>


<i>Từ sự đồng cảm giữa nghệ nhân “Cò ke ơống </i>
<i>kháo” và gia đình tang chủ</i>



Gia đình tang chủ là những người phải
chịu đựng cảm giác đau đớn, xót xa khi mất đi
người thân. Họ phải trải qua các chi tiết trong
tang lễ: sự khóc than, những người đến viếng,
mùi hương đậm đặc, tiếng chiêng trống, kèn
đám và những bài bản âm nhạc “Cị ke ơống
kháo”. Sự chia sẻ từ âm nhạc khiến họ được an
ủi, thấu hiểu, có lẽ đó là lúc mà họ cảm thấy âm
nhạc “Cò ke ôống kháo” trở nên gần gũi nhất.
Ví dụ, người ta sẽ trình tấu bài <i>Hót lng</i>12<sub> mỗi </sub>


khi gia đình tang chủ dùng bữa. Lúc này, họ
(những người chịu tang) ngồi lại bên nhau, an
ủi và động viên nhau ăn uống, đảm bảo sức
khỏe để tiếp tục trải qua các nghi thức của
tang lễ. Âm nhạc của bài <i>Hót loóng</i> rất thong
thả, nhẹ nhàng, khiến người nghe có được
những giây phút thư giãn, nghỉ ngơi.


<i>Đến sự đồng cảm trong cộng đồng làng </i>
<i>Mường </i>


Tang lễ là sự kiện mà hầu hết ai cũng phải
trải qua trong cuộc đời của mình. Khi những
người đã từng chịu tang đến thăm viếng các
đám tang khác, tại đây họ lại được chứng kiến
những chi tiết mà họ đã từng trải qua và ghi
nhớ: sự khóc than, mùi hương đậm đặc, tiếng
chiêng trống, kèn đám và những bài bản âm


nhạc “Cị ke ơống kháo”. Lúc này, cảm giác
khi mất mát người thân trong chốc lát được
tái hiện. Điều đó khiến họ dễ đồng cảm với
gia đình tang chủ hơn. Họ nhận ra một điều
hiển nhiên rằng, nỗi đau bởi sự chia lìa sinh
tử là chung đối với tất cả những người đang
còn sống. Điều đó tạo nên một tâm lý đồng
cảm, chia sẻ chung trong cộng đồng, mà “Cị
ke ơống kháo” là một yếu tố đóng góp vào đó.


<i><b>3.4. “Cị ke ôống kháo” với vai trò giáo </b></i>
<i><b>dục, truyền nghề </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>V</b>

<b>A</b>


theo khả năng của học trò, những người học


giỏi thường thành nghề sau 2 - 3 năm [1]. Hơn
nữa, trong quá trình truyền dạy bài bản và kỹ
thuật “Cị ke ơống kháo”, các nghệ nhân còn
yêu cầu các học trò phải rèn luyện đạo đức, lối
sống, cũng như phải am hiểu phong tục tập
quán, chí ít là các thủ tục trong tang lễ để hành
xử sao cho đúng tại các không gian này.


Đạo đức và lối sống của các nghệ nhân
cũng tạo nên uy tín của họ trong xã hội, qua
đó họ trở thành tấm gương, hình mẫu văn hóa
trong cộng đồng Mường. Sự kính trọng, yêu
mến và gần gũi của người dân Mường với các
nghệ nhân là những minh chứng cụ thể cho


vai trị giáo dục truyền thống của “Cị ke ơống
kháo”.


Với người học, “Cị ke ơống kháo” là một
mơi trường để rèn luyện và bộc lộ tài năng.
Có khá nhiều trường hợp nghệ nhân kèn và
các ông Mo bắt đầu sự nghiệp từ việc học tập
và rèn luyện “Cị ke ơống kháo”. Thầy Mo Đinh
Cơng T. ở xã Mỹ Hòa, huyện Tân Lạc cho biết,
nhóm nghệ nhân “Cị ke ơống kháo” của ơng
hầu hết cịn có thể thực hành diễn xướng Mo.
Hay như thầy Mo Nguyễn Văn T. ở xã Sủ Ngòi,
trước kia cũng là một nghệ nhân “Cị ke ơống
kháo”.


Có thể nói rằng, ban nhạc “Cị ke ơống
kháo” như là một môi trường để các cá nhân
được rèn luyện và phát triển tài năng, năng lực
của mình. Điều đó thêm một sự khẳng định về
vai trị giáo dục của “Cị ke ơống kháo”.


<b>Kết luận</b>


“Cị ke ơống kháo” - một loại hình âm nhạc
dân gian, được người Mường sử dụng ở không
gian sinh hoạt tín ngưỡng và cả trong sinh
hoạt đời thường.


Người Mường xem âm nhạc “Cị ke ơống
kháo” là sản phẩm văn hóa tinh thần giàu


thẩm mỹ, vì thế họ dùng nó để trang sức cho
các nghi lễ tín ngưỡng, đồng thời là sợi dây kết
nối tạo sự đồng cảm, chia sẻ trong cộng đồng.


Mường về cõi trần gian, cõi thiêng và có thể
có cả mong muốn của họ về mối quan hệ giữa
hai thế giới. Trong đời sống, các nghệ nhân
Mường sử dụng “Cị ke ơống kháo” vừa nhằm
mục đích giải trí, vừa mang ý nghĩa giáo dục
truyền thống.


Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, cộng đồng
làng Mường trải qua nhiều biến động, bắt đầu
từ việc xóa bỏ chế độ lang đạo, gần đây là sự
biến đổi văn hóa dưới sự tác động ngày càng
mạnh mẽ của xu hướng giao lưu hội nhập.
Trong bối cảnh đó, khơng ít yếu tố văn hóa cổ
truyền bị ảnh hưởng, thậm chí dần mai một.
Nhưng “Cị ke ơống kháo” vẫn âm thầm tồn
tại, như mạch nước ngầm nuôi sống các thực
hành văn hóa cổ truyền gắn với nó. Điều đó
càng khẳng định vai trị, ý nghĩa của “Cị ke
ơống kháo” đối với cộng đồng làng Mường và
văn hóa Mường.


T.B.D


<b>Chú thích</b>


1 <sub>Người Mường gọi là </sub><i><sub>Thổ Lang,</sub></i><sub> người Thái gọi </sub>



là <i>Thổ Ty</i>, người Việt gọi là <i>Quan Lang</i> [2, tr. 440].


2<sub> Về phương diện âm nhạc học, “Cị ke ơống </sub>


kháo” là một dàn nhạc. Song ở bài viết này, chúng
tôi dùng từ “ban nhạc” để nhấn mạnh yếu tố con
người trong dàn nhạc đó. Đây cũng là cách gọi
thông thường của người Mường dành cho tổ
chức dàn nhạc này.


3<sub> “Cị ke ơống kháo” hiểu theo nghĩa đen là từ </sub>


ghép của tên gọi hai nhạc khí: “Cị ke” và “ơống
kháo” (đàn nhị; sáo trúc). Đây là hai nhạc khí chủ
chốt vì chúng diễn tấu giai điệu chính. “Cị ke
ơống kháo” theo nghĩa thường dùng là một tổ
chức dàn nhạc gồm có “Cị ke”, “ơống kháo” và các
nhạc khí khác như: trống con, chũm chọe, đàn
tam, đàn bầu… [1].


4 <sub>Chiếc kèn này chỉ trình tấu một bài bản duy </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



5<sub> Có 02 người kể với tác giả bài viết câu chuyện </sub>


về sự tích chiếc kèn đám ma như sau: Ngày xưa,
có một anh chàng bị câm bẩm sinh, cũng vì thế
nên anh chưa được cơ gái nào ưng thuận lấy làm


chồng dù đã đến tuổi lập gia đình. Do đó, anh
vẫn ở với cha mẹ. Đến một ngày cha mẹ mất vì
già yếu, anh rất đau buồn, muốn khóc lóc, than
thở với linh hồn cha mẹ nhưng ngặt nỗi không
thốt được lời nào. Thế rồi anh chế tạo ra chiếc kèn
và dùng nó để cất lên những giai điệu đau buồn
thay cho tiếng khóc của mình. Khi mọi người biết
chuyện, ai cũng cảm động, và kể từ đó chiếc kèn
được người dân Mường dùng để thay lời khóc
trong đám tang (PVS, thầy Mo Đinh Công Tỉnh, xã
Mỹ Hịa, huyện Tân Lạc và ơng Bùi Quang Hiên,
Phó chủ tịch UBND xã Phong Phú, huyện Tân Lạc,
ngày 20-21/7/2019).


6<sub> “Hát khóc” là trình bày giọng hát có sự phụ </sub>


họa của các nhạc khí. Người hát là một thành
viên của ban nhạc đám ma, họ “thay lời” gia đình
tang chủ để thể hiện những bài ca than thở về
nỗi buồn trước sự ra đi của người chết.


7<sub> “Thết làng” nghĩa là “tết làng”.</sub>


8<sub> Đó là nghi lễ rước nước, rước vía lúa trong </sub>


lễ hội Khai hạ đình Ngịi; hay tới một cánh đồng
đã chọn sẵn để chứng kiến người dân thực hiện
đường cày đầu tiên trong năm mới ở lễ hội Khai
hạ Mường Bi; hoặc đơn giản hơn là tại lễ hội rước
Bụt, xã Nhân Nghĩa, đoàn rước chỉ thực hiện một


hành trình vịng quanh làng xóm, rồi dừng chân
ở cánh đồng trước nơi thờ tự để tiến hành lễ
cúng tế.


9<sub> Nhịp trống chiêng đánh trì thục: Tùng, tùng </sub>


- cheng (ứng với trường độ âm nhạc phương Tây
là: đen, đen - trắng).


10<sub> Bản nhạc </sub><i><sub>Đi đường</sub></i><sub> được dùng ở lễ hội Khai </sub>


hạ Mường Bi và lễ rước Bụt xã Nhân Nghĩa. Riêng
ở lễ Khai hạ đình Ngịi, Ban tổ chức u cầu ban
nhạc “Cị ke ơống kháo” tập luyện và chơi theo
bản nhạc <i>Lưu thủy</i> của người Kinh được phát trên
một chiếc loa di động kéo đi cùng với đoàn rước.


11<sub> Người ta cắt các ống nứa to, dài khoảng 1m </sub>


hoặc ngắn hơn, giao cho các thiếu nữ mỗi người
cầm hai ống, họ dộng một đầu ống xuống đất
theo nhịp, và thỉnh thoảng lại đập hai ống này vào
nhau. Có lẽ là một sáng kiến ở thời gian gần đây.


12<i><sub>Hót loóng</sub></i><sub> có nghĩa đen là uống nước cây </sub>


chuối. Ông Nguyễn Văn Tân ở Sủ Ngịi giải thích
rằng, tại các đám tang họ đun một nồi nước để
vừa luộc thịt, vừa ninh xương. Từ nồi nước này,
họ nấu thành món canh với lõi cây chuối rừng


thái nhỏ. Trong đám tang đông người, thường
khơng thể tính tốn được số lượng người ăn. Vì
vậy, món canh chuối trở nên thuận tiện, mỗi khi
gần hết họ chỉ cần cho thêm nước, gia vị và chuối
(các ngun liệu ln có sẵn) để bổ sung.


<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. Trần Bạch Dương (2019), “Nghệ nhân “Cị ke
ơống kháo” trong đời sống cộng đồng Mường ở
Hồ Bình”, <i>Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá</i>, số 28.


2. Jeanne Cuisinier (1948), <i>Người Mường - Địa </i>
<i>lý nhân văn và xã hội học</i> (Bản dịch của Sở Văn
hóa - Thơng tin tỉnh Hịa Bình, tái bản lần thứ
nhất 2007), Nxb. Lao động, Hà Nội.


3. Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí, Nguyễn Phụng
(1972), <i>Góp phần tìm hiểu tỉnh Hịa Bình</i>, Ty Văn
hóa - Thơng tin tỉnh Hịa Bình, Hịa Bình.


4. Pierre Grossin (1926) (tái bản 1994), <i>Tỉnh </i>
<i>Mường Hịa Bình</i>, Lê Gia Hội dịch, Sở Văn hố -
Thơng tin tỉnh Hịa Bình, Nxb. Lao động, Hà Nội.


5. Nguyễn Ngọc Thanh, Trần Hồng Thu (chủ
biên) (2009), <i>Tri thức địa phương của người Mường </i>
<i>trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên,</i>


Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.



6. Bùi Thiện (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu)
(2015), <i>Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân </i>
<i>văn Mường</i>, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.


7. Ủy ban nhân dân tỉnh Hịa Bình (2010), <i>Mo </i>
<i>mường Hịa Bình</i>, Hịa Bình.


Ngày nhận bài: 16 - 01 - 2020


</div>

<!--links-->

×