Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Khai giảng năm học mới cũng là Ngày hội đến trường của các em HS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.05 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ý NGHĨA TÊN GỌI HÀ NỘI</b>


<b>Sau khi diệt triều Tây Sơn, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên ( vốn là đất đai của kinh </b>
thành Thăng Long cũ ) thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là một đơn vị trực thuộc ngang với trấn
tức trực thuộc trung ương mà đại diện là Tổng trấn Bắc Thành. Đến năm Minh Mạng thứ 12
( 1831 ) vị vua này tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn, xố bỏ Bắc Thành ( gồm 11 trấn
và 1 phủ trực thuộc ) ở miền Bắc, chia cả nước ra làm 29 tỉnh trong đó có 15 tỉnh trực thuộc
trung ương. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Tây Sơn, và ba phủ
Ứng Hồ, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam.


- phủ Hoài Đức gồm 3 huyện : Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm
- phủ Thường Tín gồm 3 huyện : Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên


- phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện : Sơn Minh ( nay là Ứng Hịa ), Hồi An ( nay là phía nam Ứng
Hịa và một phần Mỹ Đức ), Chương Đức ( Nay là Chương Mỹ - Thanh Oai )


- phủ Lý Nhân gồm 5 huyện : Nam Xang ( nay là Lý Nhân ), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh
Liêm, Bình Lục


Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ bấy giờ ( 1831 ).


<b>Hà Nội có nghĩa là phía trong các con sơng, vì tỉnh mới Hà Nội được bao bọc bởi 2 con </b>
<b>sông : sông Hồng và sông Đáy. Như vậy tỉnh Hà Nội lúc đó gồm thành phố Hà Nội, nửa chính </b>
đơng tỉnh Hà Tây ( chính là tỉnh Hà Tây thời Pháp thuộc ) và toàn bộ tỉnh Hà Nam. Như vậy rõ
ràng tỉnh Hà Nội có đại bộ phận nằm kẹp giữa sơng Hồng và sơng Đáy.


Có người cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử ( Thiên Lương Huệ Vương ) :
"Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ tức ư Hà Nội" ( nghĩa là : Hà Nội bị tai hoạ
thì đưa dân về Hà Đơng, đưa thóc từ Hà Đơng về Hà Nội ). Ngun ở Trung Quốc thời Mạnh
Tử ( thế kỷ III tr.CN ) phía bắc sơng Hồng gọi là đất Hà Nội, phía Nam là Hà Ngoại. Vùng đất
Hà Nội ấy nay ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sơng Hồng khi tới địa đầu tỉnh Sơn Tây ngày nay


thì chạy theo hướng Bắc - Nam, trở thành ranh giới giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Sơn
Tây ở phía đơng sơng Hồng nên thời cổ có tên là đất Hà Đơng, cịn Thiểm Tây là Hà Tây.
Thực sự cũng có việc dùng câu sách Mạnh Tử nói trên, nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi
muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, người ta mới dùng tên Hà Đông ( dựa vào tên Hà
Nội đã có từ trước )


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>NHỮNG TÊN GỌI CỦA HÀ NỘI QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ</b>


<b>THĂNG LONG - HÀ NỘI là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh </b>
nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Ðại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất
đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tuỳ (581 - 618), Ðường (618 - 907) của phong kiến
phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi, được chia
thành hai loại: chính quy và khơng chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:


<b>Tên chính quy: Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước </b>
Việt Nam chính thức đặt ra:


Long Ðỗ: Truyền thuyết kể rằng, lúc Cao Biền nhà Ðường, vào năm 866 mới đắp thành Ðại La,
thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Ðỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long
là đất Long Ðỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly
có ý định cướp ngơi nhà Trần nên muốn dời kinh đơ về đất An Tơn, phủ Thanh Hố. Khu mật
chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ dời kinh đô
đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Ðỗ có núi Tản Viên, có sơng Lơ Nhị (tức sơng Hồng
ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Ðiều đó cho thấy, Long Ðỗ đã từng là
tên gọi đất Hà Nội thời cổ.


Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đơ hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618), Ðường (618
- 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ
chúng mới chuyển đến Tống Bình.



Ðại La: Ðại La hay Ðại La thành nguyên là tên vịng thành ngồi cùng bao bọc lấy Kinh Ðơ.
Theo kiến trúc xưa, Kinh Ðơ thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử Cấm thành
(tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hồng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Ðại La
thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Ðại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó,
thành này được gọi là thành Ðại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm
1010 có viết: "... Huống chi thành Ðại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực
trời đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).


Thăng Long (Rồng bay lên). Ðây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các
tên của Hà Nội. Sách Ðại Việt sử ký tồn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau:
"Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Ðại
La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là
thành Thăng Long" (Toàn thư, Tập I, H, tr 241).


Ðông Ðô: Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Ðinh Sửu (1397) lấy
Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Ðông Ðơ" (Tồn thư
Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú
thích: "Ðơng Ðơ tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hố là Tây Ðơ, Thăng Long là Ðơng Ðô"
(Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Q Ly đóng đơ ở thành Ðông
Ðô, đổi tên thành Ðông Quan. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý
(1408), Giản Ðịnh đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như
sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Ðơng Quan thì chắc phá được chúng" (Tồn thư
Sđd - Tập 2, tr224).


Ðông Kinh: Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ,
tháng 4 năm Ðinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Ðề, vào đóng ở thành
Ðơng Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Ðại Việt đóng đơ ở Ðơng
Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Ðông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hố có Tây Ðơ,


cho nên gọi thành Thăng Long là Ðơng Kinh" (Tồn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).


Bắc Thành: Ðời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đơ đóng ở
Phú Xn (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá
- Ðường phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).


Thăng Long: (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long
quyết định đóng đơ ở tại nơi cũ là Phú Xn (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn
Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc.
Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên
Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không
tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long"
là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì khơng
được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr
81).


Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long cịn hạ lệnh phá bỏ hồng thành
cũ, vì vua khơng đóng đơ ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.


Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành
Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hoà, phủ Lý
Nhân VÀ phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm
tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đơ Hà NỘI. H. 1960, TR 82).


<b>Tên khơng chính quy: Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành </b>
Thăng Long - Hà Nội:


Trường An (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất
của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Ðường (618 - 907). Do đó, được các
nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đơ. Từ đó cũng được người


bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài


Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.


Phượng Thành (Phụng Thành):


Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú nôm rất nổi
tiếng:


Phượng Thành xuân sắc phú


(Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).


Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay
Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.


Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ III, IV, V và VI)
đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó). Sau đó, đơi khi cũng được dùng trong
thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử
Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bài thơ của vua Tự Ðức viếng ơng, có hai câu
đầu như sau:


Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!
Dịch nghĩa:


Nhớ người vừa từ thành Long Biên về tới Phượng Thành.



Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi và triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.


Thành Long Biên ở đây, vua Tự Ðức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang
lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Ðức triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ
thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.


Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du,
quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô
Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Ðống Ða - Ngọc Hồi của vua
Quang Trung. Sau chiến thắng xn Kỷ Dậu (1789), Ngơ Ngọc Du có viết bài Long thành
quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).


Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội.
Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh
(khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Ngồi ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ
Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên này
để nói đất kinh đơ ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng
thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói
đất có kinh đơ đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).


Và đơi khi chỉ dùng một từ kinh như "¡n Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc
Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.


Loại tên "khơng chính quy" của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt
trong văn học, ca dao... kể ra đây không hết được


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>THẾ NÀO LÀ "HÀ NỘI 36 PHỐ PHƯỜNG"</b>



<b>Nội thành Hà Nội hiện nay có 7 quận gồm 102 phường, tức 102 đơn vị hành chính cấp cơ sở </b>
với trên 400 phố và ngõ.


Nhưng đó là phường và phố Hà Nội hiện nay. Còn ca dao cổ có câu:
<i>Hà Nội băm sáu phố phường</i>


<i>Hàng Gạo, Hàng Ðường, Hàng Muối trắng tinh...</i>


Câu ca dao đó nay ai cũng thuộc nhưng khơng chính xác!
Thực ra, phố và phường là hai phạm trù khác nhau.


Vào thời Lê, "phường" ngoài nội dung chỉ các tổ chức của những người cùng làm một nghề
(phường chèo, phường thợ) thì cịn một nội dung nữa, chỉ những khu vực địa lý được coi là đơn
vị hành chính cấp cơ sở ở kinh thành Thăng Long. Sử cũ còn ghi Thăng Long đời Lê gọi là phủ
Phụng Thiên. Chia ra hai huyện Vĩnh Xương (sau đổi ra Thọ Xương) và Quảng Ðức (sau đổi ra
Vĩnh Thuận). Mỗi huyện 18 phường. Như vậy Thăng Long có 36 phường. Suốt ba thế kỷ, nhà
Lê vẫn giữ nguyên sự phân định hành chính đó.


Sang đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đổi gọi Thăng Long là phủ Hoài Ðức và chia nhỏ ra làm
nhiều đơn vị mới, có tên gọi là phường, thơn, trại. Huyện Thọ Xương bị chia ra làm 8 tổng với
183 phường, thôn, trại; huyện Vĩnh Thuận bị chia ra làm 5 tổng với 56 phường, thôn, trại. Tổng
cộng phủ Hoài Ðức, tức kinh thành Thăng Long cũ, gồm 13 tổng, 239 phường, thôn, trại.


Ðến khoảng giữa thế kỷ XIX, hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận vẫn y nguyên 13 tổng nhưng
con số các phường, thôn, trại rút xuống mạnh (do sáp nhập): Thọ Xương còn 113 phường, thơn,
trại. Vĩnh Thuận cịn 40 phường, thơn, trại. Tổng cộng là 153 phường, thôn, trại. Như vậy là
nhà Lê cho Thăng Long hưởng một quy chế riêng (gọi là Phủ, trực thuộc trung ương và suốt ba
thế kỷ chỉ gồm có 36 phường). Ngược lại, nhà Nguyễn đã đánh đồng Thăng Long với các phủ
khác, phải lệ thuộc vào tỉnh và cũng có tổng, có thơn, có trại như mọi nơi. Ðó là một việc làm


của chủ trương "hạ cấp" Thăng Long.


Như thế, không làm gì có cái gọi là "Hà Nội 36 phố phường". Chỉ có Thăng Long thời Lê có 36
phường hoặc là Hà Nội thời Minh Mạng có 239 phường, thơn, trại và Hà Nội thời Tự Ðức với
153 phường, thơn, trại. Do tình hình chia nhỏ Thăng Long nên một phường đời Lê đã phân ra
làm nhiều phường, thơn, trại thời Nguyễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

vì nói dãy phố Hàng Chiếu, người ta nói phố Hàng Chiếu, phố Hàng Bạc... để chỉ những con
đường mà hai bên là những ngôi nhà bày bán chiếu, bán vàng bạc... Hiện nay trong ngôn ngữ
miền Bắc, từ phố với nguyên nghĩa là ngơi nhà, cửa hàng đã phai mờ hồn tồn, song miền
Trung, miền Nam thì lớp trung niên trở lên vẫn sử dụng.


Do sự hình thành như vậy mà trong một phường cổ có nhiều phố. Như cùng trong phường Ðơng
Các có phố Hàng Bạc, phố Hàng Mắm, phố Hàng Giày... Cho nên phường không bao giờ lại
ngang hàng với phố mà là trùm lên các phố. Và cũng vì thế, 36 phường thời Lê khơng thể là 36
phố + phường được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>KHÉO TAY NGHỀ, ĐẤT LỀ KẺ CHỢ</b>


<b>Người Hà Nội đang tìm về điểm xuất phát của mình ở chính cái tên "Hà Nội ba mươi sáu phố </b>
phường". Bn có bạn, bán có phường. Ba mươi sáu phố phường xưa chính là nơi tụ hội của
người Kẻ Chợ có cùng một nghề nghiệp, một năng khiếu làm ăn. Vào thế kỷ 17 - 18, các
phường nghề phát triển khá nhanh, nhất là các nghề thủ cơng mỹ nghệ. Triều đình Lê - Trịnh
muốn tu bổ hoàng thành đã tuyển mộ những người thợ tài hoa khắp đất nước về Thăng Long,
họ ở lại sinh sống và hành nghề trên các phường phố: thợ kim hoàn phố Hàng Bạc, thợ Khảm
phố Hàng Khay, thợ thêu phố Hàng Trống... Cùng với những phường thợ là sự ra đời của các
sản phẩm, có những phố bán riêng từng thứ: Hàng Ðào bán tơ lụa. Bát Sứ bán đồ sành sứ... làm
cho Hà Nội sáng rực trăm màu: phố Hàng Ðồng lấp lánh ánh vàng, phố Hàng Tranh màu sắc
vui tươi sặc sỡ...



Bàn tay vàng của người Kẻ Chợ được khẳng định bằng câu ngạn ngữ:
<i>Ngát thơm hoa sói, hoa nhài</i>


<i>Khơn khéo thợ thầy Kẻ Chợ</i>


Một số nghề có tên tuổi nổi tiếng tồn tại đến ngày nay. Nghề gốm Bát Tràng có từ thời Lý.
Nghề làm giấy đỏ vùng Bưởi xưa là sản phẩm riêng của đất kinh kỳ cung cấp giấy cho cả nước,
nay vẫn là đặc sản có tính nghệ thuật của Hà Nội dùng để in tranh tết, in truyện Kiều. Hàng dệt
tơ tằm vùng Bưởi (Trích Sài, Bái Ân, Yên Thái, Nghĩa Ðô) nổi tiếng ngay từ buổi đầu xây dựng
Thăng Long.


Thế kỷ 17 định hình những trung tâm dệt lớn: Nghi Tàm, Thuỵ Chương, Làng Bùng, Vạn Phúc,
La Khê, La Cả, Ðại Mỗ...


góp phần làm nên sự phồn vinh của Kẻ Chợ và bán hàng dệt cho các lái buôn phương Tây. Lê
Quý Ðôn khẳng định đất nước ta thuộc xứ nóng, ni tằm nhiều hơn xứ khác, một năm 8 lứa, tổ
tiên ta tìm ra 8 loại tằm, mỗi loại thích nghi với khí hậu một số tháng nhất định. Vùng Tam
Giang có nhiều bãi trồng dâu rất tốt, dân lại có tài dệt lụa, chồi, lĩnh... Nhân dân Kẻ Chợ ca tụng
sự phong lưu, thành thạo của nghề tầm tang:


<i>Làm ra đủ các thứ hàng</i>


<i>Hàng đơn, hàng kép dọc ngang tinh tường</i>
<i>Lượt, là, lĩnh, lụa, khuyến, lương</i>
<i>Quế, vân, gấm, vóc, băng, sa, kỳ, cầu</i>


Nghề thêu phát triển từ đời Lý đến nay còn làm mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Nghề kim
hoàn, đúc đồng, chạm khảm, đan lát, mây tre... ngày nay đang có nhiều mặt hàng được bạn bè
thế giới ưa chuộng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

trong cách ăn chơi, giao tiếp. Các món ăn Kẻ Chợ cũng trở thành những nghề truyền thống với
những cái tên chẳng phai mờ: bún sen Tứ Kỳ, bún Phú Ðơ, bánh cuốn Thanh Trì, gạo dự Mễ
Trì, giị chả Ước Lễ, cốm Vịng, bánh cốm Hàng Than...


<b>THÀNH CỔ HÀ NỘI</b>


<b>Trên đất Thăng Long đã từng toạ lạc một toà Hoàng thành hoa lệ, trải suốt các triều Lý - Trần </b>
- Lê và được xây dựng lại thành toà trấn thành thời Nguyễn. Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ dời
đô từ Hoa Lư về Ðại La và đổi tên là Thăng Long. Trải qua 8 thế kỷ, toà thành đã trở thành
trung tâm chính trị và đơ thị phồn thịnh nhất Ðại Việt. Cuối triều Lý, hoàng cung Thăng Long
bị đốt cháy. Tới triều Trần, thành Thăng Long được xây dựng lại nhưng rồi lại bị lũ xâm lược
Nguyên - Mông dày xéo, tàn phá. Sau khi đánh đuổi giặc Minh năm 1428, Lê Thái Tổ cho xây
dựng lại Thăng Long và đổi tên là Ðông Ðô rồi Ðông Kinh... Vậy là, qua bao cuộc chiến tranh
và cuối cùng là sự phá hoại của thực dân Pháp, toà thành cổ kính mang tên Thăng Long - Hà
Nội gần như mất hết dấu vết, chỉ còn tồn tại trong hoài niệm của bao thế hệ người Hà Nội.
Thành cổ Hà Nội do nhà Nguyễn xây dựng từ năm 1803 theo kiến trúc châu Âu nhưng có tầm
vóc nhỏ hơn thành của những vương triều trước. Mặc dù, tính tới nay thành cổ còn chưa đủ 200
năm tuổi nhưng đã có khơng ít nhà bảo tàng học, sử học thảo luận nhiều lần nhằm thống nhất về
cách nhìn.


Năm 1959, ông Trần Huy Bá đưa ra ý kiến hoạch định ranh giới Hoàng thành Thăng Long đời
Lý - Trần là phía Bắc từ trường Ðua Ngựa tới đền Quan Thánh, phía Ðơng từ đến Quan Thánh
tới Văn Miếu, phía Nam từ Văn Miếu tới cuối đường xe điện Cầu Giấy, phía Tây từ cuối đường
xe điện Cầu Giấy tới trường Ðua Ngựa. Ðã có khá nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ giả thuyết này.
Tới tháng 4/1996, ông Trần Quốc Vượng và ông Vũ Tuấn Sản đã lập luận, chứng minh Thăng
Long đời Lý vẫn giữ nguyên vẹn vị trí cũ cho đến đời Nguyễn. Núi Nùng (tức núi Long Ðỗ)
vẫn là trung tâm của Thăng Long qua bao thế kỷ...


Năm 1998, Bộ Quốc phòng đã bắt đầu trao lại 3 khu vực Cửa Bắc, Hậu Lâu và Ðoan Mơn cho
Sở Văn hố - Thông tin Hà Nội quản lý và tôn tạo nhằm phục vụ kỷ niệm Thăng Long - Hà Nội


990 và 1000 năm. Công tác khai quật khảo cổ học đã được khẩn trương tiến hành tại cả 3 nơi và
đã cho nhiều kết quả bất ngờ, trả lời được nhiều vấn đề sau bao năm tranh luận nghiên cứu. Bắc
Môn được xác định chính là Cửa Bắc của thành Hà Nội thời Nguyễn. Nơi đây được xem xét
từng lớp dấu vết để phá dỡ những gì được vá víu từ thời Pháp thuộc, sửa sang tu bổ lại những gì
vốn có của tồ thành thời Nguyễn, xây lại vọng lâu trên cửa thành.


Lầu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc Lâu) là một tồ lầu xây phía sau cụm kiến trúc chính là Hành cung của
Thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau Hành cung nhưng lại là phía Bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ n
bình phía Bắc Hành cung nên mới có tên là Tĩnh Bắc Lâu. Nơi đây cịn có tên là Hậu Lâu (lầu
phía sau), hoặc là Lầu Công chúa, bởi tương truyền xưa kia đây là lầu xây để công chúa ở mỗi
khi theo vua đi tuần du. Tại Tĩnh Bắc Lâu, các nhà khảo cổ học đã khai quật một diện tích gần
200m2<sub>. Vách hố khai quật cho phép nhìn rõ một dịng nước vốn chảy qua đây, dưới lịng lạch có</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

trong hố khai quật rất nhiều. Có gạch ngói của nhiều đời từ trước thời Lý cho đến thời Lê: Cạnh
có chữ, ngói bị hình lá đề, hình rồng phượng, đồ gốm đủ loại, đủ thời...


Kết quả khảo cổ tại Đoan Môn khá bất ngờ : ở độ sâu 1,9m phát hiện một con đường lát gạch
theo hướng Bắc - Nam nằm chính giữa Ðoan Mơn. Tại đây được trải 12 lớp sỏi, gạch, đất sét
đầm nén kỹ dài tới 1m rồi mới lát 5 lớp gạch bìa lên trên. Hai bên đường cắm gạch theo kiểu
dăm cối để tạo thành những ô hoa chanh đẹp mắt. Công việc tu bổ, tôn tạo lại Ðoan Môn đã vấp
phải nhiều khó khăn. Các lớp gạch tại đây đa phần đã bị mục ruỗng, khơng cịn khả năng liên
kết, chịu lực; các đường nét trang trí hoạ tiết bị gẫy vỡ, có nguy cơ sập đổ cả tầng lầu phía
trên... Chính vì thế, cơng việc tơn tạo di tích Ðoan Mơn vẫn chưa xong để khánh thành vào dịp
này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>THÀNH ĐẠI LA</b>


<b>Thành Ðại La là một kiến trúc vĩ đại, có đầu tiên ở trên đất này. La thành không phải là một tên </b>
riêng, chỉ có nghĩa là một bức thành lớn bao quanh một bức thành nhỏ ở bên trong. La thành có
từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc, những căn cứ của những đất đã chiếm được đều đắp hai lần


thành, thành ngoài gọi là La thành.


Suốt cả thời kỳ Bắc thuộc (111 trước Công lịch đến 939 sau Công lịch), bọn vua quan phong
kiến Trung Quốc sang xâm lược nước ta, đều đóng căn cứ địa ở mấy nơi bên tả ngạn sông
Hồng, như Liên Lâu (Tiên Du, Bắc Ninh), rồi đến Long Biên (phía Bắc sơng Ðuống). Ðến đời
Ðường, thường có qn Chà Và ở ngoài bể tràn vào và quân Nam Chiếu ở mạn Vân Nam tràn
xuống, kéo đến vây đánh phủ Ðô hộ; hơn nữa nhân dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của
bọn xâm lược, cũng thường nổi lên chống đánh. Năm 824, Ðô hộ là Lý Nguyên Gia, tin theo
thuyết phong thuỷ, cho rằng trước cửa thành Long Biên có dịng nước chảy ngược, nên nhân
dân hay nổi lên "làm phản". Lý Nguyên Gia bèn rời phủ trị sang địa phận huyện Tống Bình, gần
sơng Tơ Lịch. Lúc đầu chỉ xây một tồ thành nhỏ, sau đó nhận thấy nơi ấy có địa thế hiểm yếu,
liền lập phủ trị vĩnh viễn ở đó, đắp rộng cao thêm thành, làm cho dân ta hồi đó phải phục dịch
rất khổ sở.


Ðến năm 866, nhà Ðường đổi An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, sai Cao Biền sang làm
Tiết độ sứ. Cao Biền là một tướng có nhiều tài lược và mưu trí, đã dùng nhiều thủ đoạn để loè
nạt dân chúng, như việc phá những thác ngầm ở dọc sông: đêm đến, hắn cho đục đá đặt thuốc
nổ, làm nổ tung những thác ấy, rồi nói phao lên là vì trời giúp vua Ðường sai thiên lơi xuống
phá thác, làm cho nhân dân sợ hãi. Muốn củng cố thêm căn cứ thống trị, Cao Biền cho đắp lại
thành Ðại La, bốn mặt dài hơn 1.982 trượng linh 5 thước, cao 2 trượng linh 6 thước. Muốn ngăn
ngừa không cho nước sông Tô, sông Hồng tràn vào phủ trị, Cao Biền lại cho đắp một đường đê
bao bọc ở ngoại thành, dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng, dày 2 trượng, trong
thành cho nhân dân làm nhà ở hơn bốn chục vạn nóc. Ðường đê bao ngồi thành gọi là Ðại La
thành, cũng gọi là Ngoại La thành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Từ năm 939, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nước ta bắt đầu độc lập tự chủ, nhưng đời Ngô
Vương Quyền lại đóng đơ ở Cổ Loa, hai đời Ðinh, Lê thì đóng đơ ở Hoa Lư, thành Ðại La trở
nên hoang phế. Mãi đến năm 1010, Lý Thái Tổ mới dời kinh đơ đến đó, nhưng lại đắp một
thành khác nhỏ hẹp hơn gọi là thành Thăng Long. Nền cũ của thành Ðại La, phần lớn không
còn lại dấu vết, chỉ còn nhận thấy những khoảng từ Thanh Nhàn (giáp Thanh Trì) đi lên cửa ơ


Cầu Dền sang ô Chợ Dưà, rồi thẳng đến ô Cầu Giấy, ngược lên đến làng Bưởi. Năm kia, ta đã
cho theo dấu cũ ấy, sửa chữa lại nhiều nơi, đắp cao lên làm thành thân đê, đề phòng nạn lụt.
Cịn phần đê La Thành về phía sơng Hồng, từ đời Lý đã nhập vào với đê Cơ Xá, và từ đời Trần
đã nhập vào với đê Quai Vạc, chuyên ngăn nước sông Hồng.


Ðê Ðại La thành này khi còn độc lực giữ việc chống nước lụt cho nội thành, thường bị sạt lở.
Năm 1243, đời vua Thái Tôn nhà Trần, nước sông Hồng lên to quá, phá vỡ một đoạn thân
thành, làm cho nội thành bị ngập lụt. Cũng từ đó, các đời vua Trần mới nghĩ đến việc đắp đê
quai vạc suốt từ đầu nguồn trở xuống cho đến miền bể, dọc hai bên bờ sông Hồng.


Bài thơ "Ðiếu cổ La thành" của nhà thơ Tế Xuyên, đời cuối Lê đã mai mỉa dã tâm xâm lược của
Cao Biền, tốn công, nhọc lòng đắp nên thành ấy, kết cục bọn phong kién thống trị Trung Quốc
đều phải diệt vong. Sau chiến cơng trên sơng Bạch Ðằng năm 939, nước ta hồn toàn tự chủ.
Bài thơ đại ý như sau:


<i>"Ðại La thành tốn công xây,</i>
<i>Cao Biền tưởng chiếm đất này dài lâu.</i>


<i>Nào ngờ mấy chục năm sau,</i>


<i>Vùi quân xâm lược dòng sâu Bạch Ðằng"</i>


</div>

<!--links-->

×