Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.47 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>: Phân tích nét nổi bật của tính cách nhân vật Lục Vân Tiên trong </b></i>
đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình
Chiểu.
<i><b>BI THAM KHO</b></i>
<i>Nói đến Nguyễn Đình Chiểu khơng những là nói đến một nhà</i>
<i>thơ yêu nước tiêu biểu nhất của thời kỳ đất nước ta bị thực dân Pháp</i>
<i>xâm lược cuối thế kỷ XIX mà ơng cịn được nhân dân biết đến như</i>
<i>một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lí làm người, đề cao tiết hạnh của</i>
<i>người phụ nữ, ca ngợi lòng trung hiếu và hành động vị nghĩa của</i>
<i>nam giới mà tác phẩm Lục Vân Tiên là một minh chứng hùng hồn.</i>
<i>Lục Vân tiên - nhân vật chính của tác phẩm, hơn ai hết đã biểu</i>
<i>hiện rõ nét lý tưởng của người anh hùng. Đặc biệt là đoạn trích</i>
<i>“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã để lại trong lịng người đọc</i>
<i>một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang nghĩa sỹ đánh</i>
<i>cướp cứu người.</i>
<i>Lục Vân tiên là một nhân vật lý tưởng, nhân vật đẹp nhất trong</i>
<i>truyện “Lục Vân Tiên” của Nguuyễn Đình Chiểu. Chàng là con một gia</i>
<i>đình thường dân ở quận Đơng Thành, một người học trị khơi ngơ, có</i>
<i>tài, có đức, văn võ song tồn:</i>
“Có người ở quận Đơng Thành
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành”
<i>Nói theo nhà văn, nhà phê bình văn học Hồi Thanh: “Trong cuộc</i>
đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội suy tàn, Nguyễn
Đình Chiểu đã đưa vào trận cả một đạo qn tưng bừng khí thế,
<i>kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng thì thủ lĩnh</i>
đạo qn đó phải là Lục Vân Tiên chớ không phải là một ai khác”.
<i>Chính Lục Vân Tiên tiêu biểu cho lý tưởng sống, đạo đức cao</i>
<i>đẹp của nhân dân ta lúc bấy giờ. Chàng là người học rộng, tài cao,</i>
<i>văn võ kiêm tồn lại ln sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác khi</i>
<i>hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về kinh ứng thi, trên</i>
<i>đường đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy, chàng liến</i>
<i>hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và bắt</i>
<i>đi hai cơ gái. Lục Vân Tiên khơng chịu nổi cản bất bình, nổi giận:</i>
“Vân Tiên nổi giận lơi đình
Hỏi thăm lũi nó cịn đình nơi nao.
Tơi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.
<i>Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:</i>
“Ván tiãn ghẹ lảibãn âng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”
<i>chúng để cứu người gặp nạn yếu đuối. Hành động đánh cướp,</i>
<i>trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa</i>
<i>của Vân Tiên. Hành đông “bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô” của</i>
<i>chành trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và mãnh liệt vì đã khắc hoạ được</i>
“Lâu la bốn phía vờ tan
Đều quăng ươm giáo tìm đường chạy ngay”
<i>Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân, cịn tênđầu</i>
<i>đảng thì:</i>
“Phong lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
<i>Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ cướp.</i>
<i>Nhưng điều đáng quý hơn cả của chàng nghĩa sỹ là thái độ vô tư. Làm</i>
<i>xong việc nghĩa, chàng đã khơng coi đó là cơng ơn và từ chối việc</i>
<i>đền ơn. Kiều Nguyệt Nga thì thốt nạn, cảm tạ chàng và xin được</i>
<i>đền ơn:</i>
“ Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
Gặp đây đang lúc giữa đàng
Của tiền khơng có, bạc vàng cũng không.
Tưởng câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi!”
<i>Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp:</i>
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.”
<i>Nụ cười của trang nghĩa sỹ này mới đẹp làm sao! Trong nụ cười</i>
<i>ấy như hàm chứa cả sự thông cảm lẫn sự bao dung.</i>
<i>Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vô điều kiện và coi đó là lẽ</i>
<i>tự nhiên: ở đời là phải thế, không thể nào khác được. Vân Tiên cứu</i>
<i>người mắc nạn là vì nghĩa, đó cùng chính là lý tưởng mà chàng ôm</i>
<i>ấp và thực hiện:</i>
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
<i>cao đẹp ấy đáng được người đời sau truền tụng, học tập và phát</i>
<i>huy. Lục Vân Tiên cho chúng ta một bài học lớn về tinh thần nghĩa</i>
<i>hiệp, không thể làm ngơ trước tai hoạ và đau khổ của người khác.</i>
<i>Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa sỹ sẵn</i>
<i>sàng ra tay “trừ thói hồ đồ hại dân” vẫn cứ hiện rõ. Trong lời thơ</i>
<i>mộc mạc của nhà thơ vẫn âm vang mãi một tấm gương sáng về tinh</i>
<i>thần thượng võ. Ngày nay, đâu phải việc “cứu khốn, phị nguy” là</i>
<i>khơng cần thiết nữa, do đo,ï Lục Vân Tiên vẫn góp phần giúp cho</i>
<i>chúng ta sống đẹp hơn và xứng đáng hơn với lời tâm niệm:</i>
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi