Bên kia sơng Đuống
Dịng sơng q hương – cây đa, bến nước, con đị, hàng tre soi tóc, dịng
sơng đỏ nặng phù sa... - biết bao là nên thơ, nên nhạc! Trong điệp trùng hình ảnh
ấy thuộc đề tài quê hương sơng nước ấy, Hồng Cầm gửi vào bài thơ “BBên kia
sông Đuống” nổi tiếng. Vùng đất bên kia sông Đuống chính là q hương sinh
thành của nhà thơ. Hồng Cầm là nhà thơ của xứ sở quê ông - một vùng quê tươi
đẹp, trù phú, cổ kính, dồi dào truyền thống văn hóa dân gian.
ANH ĐƯA EM VỀ BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Lời thơ vào bài mượt mà, giọng điệu trữ tình, chất thơ, chất nhạc êm đềm lắng
đọng như dịng sơng q hương mn đời hiền hịa, chảy trơi thanh bình qua một
vùng q xanh rờn ngơ lúa:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về Sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì”
“Em” là nhân vật phiếm chỉ, nhưng hình như khơng thể thiếu được trong
hồn thơ Hồng Cầm. “Em” có thể là người yêu, người bạn đồng hương khác
giới, người trong mộng tưởng... và cũng có thể là sự phân thân của chính nhà thơ
để đối thoại nội tâm. Nhưng dù là ai thì cũng rất đỗi thân thương, giúp nhà thơ
bộc bạch tâm tình sâu lắng, tha thiết bằng một giọng nói mềm mại, trìu mến. Nhà
thơ an ủi “em” chớ buồn và hứa “đưa em về sông Đuống”. Vậy là cô gái đang
buồn. Nhắc đến nỗi buồn của “em” chẳng qua là để diễn đạt tâm tình của chính
mình cho thêm sâu lắng, thêm mềm mại, thiết tha. Cho nên, nói “em” buồn thực
chất cũng là nói “anh” buồn đó thơi! Buồn vì xa q, buồn vì nhớ quê. Như thế,
nỗi buồn ở đây chẳng phải là vơ cớ, nó gắn với q hương, gắn với chủ đề “Bên
kia sơng Đuống”. Vì lẽ đó, lời hứa của “anh” cũng hướng tới “sông Đuống”, như
cố tạo cớ để “khoe” khéo q mình! anh như muốn nói: Về sơng Đuống thì em
sẽ hết buồn vì sơng Đuống đẹp lắm, nên thơ lắm, sơng Đuống có khả năng giải
tỏa nỗi buồn cho con người, cho em; sông Đuống là quê hương chúng mình
(đoạn kết bài thơ: “em” về Kinh Bắc mắc áo điều trẩy hội, cho nên rất có thể
“em” là cơ gái bên kia sơng Đuống). Cách vào bài của tác giả thật khéo, giàu
cảm xúc trữ tình. Tiếp đến vẫn là lời tâm tình dịu ngọt của “anh” với “em”,
nhưng thực chất là một cách giới thiệu vẻ đẹp của dịng sơng: “Ngày xưa cát
trắng phẳng lì”. Câu thơ chủ yếu vẽ cái hồn của thiên nhiên và cuộc sống hơn là
miêu tả cụ thể. Hình tượng thơ gợi mở cảnh một vùng quê phẳng lặng, rộng rãi,
êm đềm với đơi bờ “cát trắng phẳng lì”, phẳng khơng gì có thể phẳng hơn và
mịn, cả sạch nữa, dẫm lên mát đơi bàn chân! Hình ảnh thơ cịn gợi khơng khí
q hương n bình, thanh nhàn, con người hiền hòa thơ mộng. Nhưng tất cả đã
thuộc về “ngày xưa”! Đây là thời gian tâm lí vì cảnh thiên nhiên thanh bình, n
vui của sơng Đuống chỉ vừa mới mất đi từ khi giặc tràn lên đốt phá. Cảm nhận
ấy biểu hiện nỗi nhớ tiếc, xót xa cao độ, cảm thấy những gì đẹp đẽ của quê
hương như đã trôi về quá khứ xa vời, không bao giờ trở lại, trở thành “ngày xưa”
mất rồi!
Một trong những hình ảnh sáng ngời trong hồi niệm nhà thơ là dịng sơng
Đuống lấp lánh:
“Sơng Đuống trơi đi
Một dịng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”
Dịng thơ đâu chỉ có bốn tiếng, từng tiếng rơi xuống chậm, thong thả, trầm
tĩnh: “Sơng Đuống trơi đi”. Hình tượng thơ gợi ấn tượng về sự bất diệt của dịng
sơng. Mn đời, sơng Đuống vẫn thế, vẫn khoan thai “trơi đi”, tiến về phía
trước, tuy lặng lẽ nhưng khơgn sức gì cản được. Một dịng sơng dồi dào nội lực!
Sơng Đuống trong tâm tưởng nhà thơ còn là “một dòng lấp lánh”. Hai tiếng “lấp
lánh” đã biến sơng Đuống thành dịng ánh sáng. Đó có thể là ánh sáng rực rỡ của
mặt trời phản chiếu xuống mặt nước, cũng có thể là ánh sáng ảo huyền của
những đêm trăng thanh lan tỏa trên mặt sơng. Đó cũng cịn là cái lóe sáng của
hồi niệm nhà thơ, làm cho hình ảnh sơng rực sáng hơn bình thường. Câu cuối
hiện hình một dáng sơng mềm mại: “nằm nghiêng nghiêng”, dáng kín đáo,
duyên dáng, mềm mại, giàu nữ tính. Đồng thời cồn chứa đựng tâm trạng khó nói,
có gì như trơng chờ hy vọng, có gì như phấp phỏng lo âu. Dáng nằm này được
đặt trong kháng chiến trường kì. Nhờ đó, dịng sơng trở thành một bộ phận của
cuộc kháng chiến, dịng sơng khơng chỉ chứng kiến mà cịn chia sẻ và tham gia
vào cuộc chiến đấu dài lâu ấy.
Từ dịng sơng, tác giả đưa chúng ta đến với phong cảnh đơi bờ, với nương
dâu bãi mía xanh tươi:
“Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngơ khoai biêng biếc”
Phép liệt kê “bãi mía”, “bờ dâu”, “ngơ khoai” bổ sung thêm sự phong phú,
bát ngát của cây trồng. Các từ “xanh xanh”, “biêng biếc” gợi màu sắc tốt tươi,
dồi dào sức sống và mửo ra một khơgn gian rộng. Hình tượng thơ cho thấy cảnh
trù phú của quê hương, sự màu mỡ của đất đai, vẻ xanh tốt của cây cối đôi bờ
sơng Đuống.
Nhưng thật đau xót, tất cả những vẻ đẹp ấy đã khơng cịn, kể từ khi giặc
tràn đến. Vì thế:
“Đứng bên này sơng sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”
“Đứng bên bày sông”, hinh ảnh hư cấu đau xót! (Thực tế lúc này “anh” –
tác giả đang ở Việt Bắc xa xôi). Bên kia sông là quê hương đang quằn quại đau
dớn dưới gót giày quân xâm lược. Nhân vật trữ tình đứng bên này sơng, cách
nhau một dải nước nhỏ mà hóa thành hai thế giới khơng thể vượt qua, uất ức và
tiếc xót! Tiếp đến, hai câu hỏi tu từ dồn dập: “Sao nhơ tiếc”, “Sao xót xa” diễn tả
nỗi đau dữ dội và mãnh liệt, dữ dội và mãnh liệt đến khó hiểu! Nỗi đau còn được
so sánh “như rụng bàn tay”. Ở đây, nỗi đau tinh thần đã chuyển hóa thành nỗi
đau thể xác, vừa cụ thể vằ dữ dội. Quê hương bị giặc tàn phá, tác giả cảm thấy
như bàn tay của mình bị rụng. Với Hồng Cầm, q hương là một phần cơ thể, là
máu thịt khơng thể tách rời. Tình u q hương như thế, phải kể là rất sâu sắc
vậy!
Đoạn một là tiếng lòng yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt cảu Hoàng Cầm
trong một hoàn cảnh đặc biệt: Quê hương bị giặc tàn phá. Tình u ấy, hồn
cảnh ấy đã làm sống dậy một Kinh Bắc đẹp tươi, trù phú, thơ mộng và đã gieo
vào lòng nhà thơ tâm trạng nhớ tiếc, xót xa đến xé ruột. Hình ảnh, từ ngữ, nhạc
điệu, cách diễn đạt... ở phương diện nào, đoạn thơ nào cũng có nhiều thành cơng
đáng nhớ.