Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tinh hai mat cua khong gian truyen co tich

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.51 KB, 15 trang )

TÍNH HAI MẶT CỦA KHƠNG GIAN NGHỆ THUẬT TRUYỆN CỔ TÍCH
Nguyễn Việt Hùng

Khơng gian nghệ thuật (KGNT) là khái niệm của thi pháp học chỉ “hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật, là sự mơ hình hố thế giới của tác giả. KGNT trong tác phẩm
mang tính biểu trưng và quan niệm” [6/120]. Do đó, thơng qua việc tìm hiểu KGNT,
chúng ta có thể hiểu được quan niệm thẩm mĩ, trình độ tư duy cũng như tâm lí sáng tạo của
con người ở những thời điểm và địa điểm mà tác phẩm ra đời.
Khái niệm KGNT đã được ứng dụng để tìm hiểu nhiều loại hình văn học khác nhau,
trong đó có truyện cổ tích (TCT). Việc áp dụng một phương diện tiêu biểu của thi pháp
học vào một đối tượng lớn và quen thuộc như truyện cổ tích đã đem lại nhiều thành tựu.
Những nhà nghiên cứu, nhà thi pháp học đã đưa ra nhiều nhận định về đặc điểm của
KGNT truyện cổ tích và quan đó phần nào tìm hiểu được tư tưởng, quan niệm của nhân
dân về thế giới, về cuộc sống và về chính bản thân con người.
Chẳng hạn, nhà nghiên cứu người Nga - Likhchep đã dành nhiều công sức cho việc
khảo sát tư liệu văn học Nga cổ, trong đó có phần lớn TCT. Ông đã đưa ra nhận xét
“KGNT của TCT Nga mang tính khơng chống đối (cản trở) của mơi trường vật chất, tức
là tính siêu dẫn của KG [6/124]. Trong KGNT đó “nhân vật di chuyển, giao tiếp khơng bị
trở ngại”, kể cả “những trở ngại về mặt tâm lí”. Các nhà nhiên cứu văn học dân gian
(VHDG) Việt Nam, bằng con đường thi pháp học (qua các cơng trình cụ thể của Đỗ Bình
Trị, Lê Trường Phát [3/40] đều thống nhất ở quan niệm: TCT xây dựng hai loại không
gian chủ yếu là “không gian trần thế và không gian kì ảo”. Đây là hai khái niệm cơ bản và
được ứng dụng nhiều nhất khi nghiên cứu về KGNT truyện cổ tích (các luận văn, luận án
tìm hiểu về KGNT truyện cổ tích thường khai thác theo hướng “Khơng gian kì ảo…”) Có


thể nói rằng, những nhà nghiên cứu quan tâm đến truyện cổ tích đã đưa ra những khái
niệm của riêng mình, hoặc dựa vào khái niệm của người đi trước để chứng minh những
đặc điểm của KGNT truyện cổ tích. Sự mở rộng các khái niệm KGNT của TCT là cần
thiết nhưng thiết nghĩ chúng ta cũng nên nhìn lại để có sự đánh giá khái quát hơn, xây
dựng một quan niệm chung trong một chừng mực nhất định có thể bao trùm lên phạm vi


nghiên cứu (KGNT TCT).
Chính vì vậy, chúng tôi muốn đặt vấn đề khái quát đặc điểm của KGNT truyện cổ tích
dựa trên thành quả nghiên cứu của những tác giả đi trước, đặc biệt là từ gợi ý trong cơng
trình của V.Ia. Prơp [5/235]. Bằng cái nhìn biện chứng xem xét đối tượng, chúng tơi đưa
ra nhận định như sau: KGNT của truyện cổ tích mang tính chất hai mặt. Các đặc điểm
của KHNT truyện cổ tích là những đặc điểm vừa thống nhất vừa đối lập với nhau, ví dụ như :
- Khơng gian kì ảo và khơng gian hiện thực
- Khơng gian cản trở và không gian phi cản trở
- Không gian điểm và khơng gian tuyến tính
Trong mỗi cặp khơng gian trên đều có sự đối lập với nhau nhưng đồng thời chúng lại
thống nhất với nhau. Bởi vì đó là các phương diện của không gian nghệ thuật, làm nên
chỉnh thể khơng gian truyện cổ tích mà thiếu đi một trong hai vế thì đối tượng khơng tồn
vẹn và khơng cịn là “mơ hình về thế giới” của thể loại, đồng thời, chúng ta cũng khơng có
cái nhìn đầy đủ về KGNT của truyện cổ tích. Chúng tơi xem xét vấn đề dựa trên tư liệu
TCT thần kì người Việt. Sau đây, chúng tơi trình bày những quan niệm cơ bản về các loại
hình khơng gian đã đề cập ở trên:
1. Khơng gian kì ảo và khơng gian hiện thực
Khơng gian hiện thực là không gian của cuộc sống trần thế, biểu hiện cụ thể trong


truyện cổ tích người Việt là khơng gian làng q. Dấu ấn làng quê Việt Nam in đậm trong
nhiều truyện cổ tích, “đem lại cho thế giới cổ tích hơi ấm nhân sinh, màu sắc dân tộc, dân
dã” [3/45]. Đặc điểm này cho thấy, truyện cổ tích người Việt là sản phẩm tinh thần đích
thực của nhân dân lao động, mang đậm thế giới quan, cách nhìn của người nơng dân. Màu
sắc cung đình, những dấu hiệu của triều đại phong kiến ít có mặt trong truyện cổ tích
người Việt. Khi khảo sát cấu trúc TCT người Việt theo lí thuyết hình thái học TCT của
Prơp, hai tác giả Trần Đức Ngôn và Tăng Kim Ngân gặp gỡ nhau ở nhận định: TCT người
Việt ít có loại nhân vật vua, cơng chúa, hồng tử (nếu có thì cũng khơng phải là nhân vật
chính) [2/141]. Điều này khác với tư liệu TCT dân tộc Chăm (có lẽ do dấu ấn của các
vương triều Chămpa cổ). Thậm chí, ở TCT người Việt, những dấu hiệu của cung đình

cũng bị dân dã hố một cách triệt để: cung vua có sào, bờ rào phơi quần áo, khung cửi,
xoan đào mắc võng, nhà vua ghé quán nước ăn trầu (“Tấm Cám”); ông vua gánh hành rao
bán (“Lọ nước thần”)… Đó là khung cảnh của làng quê Việt Nam mà ai cũng có thể dễ
dàng nhận ra.
Trong TCT người Việt, ít có sự lộng lẫy tráng lệ màu sắc của khơng gian cung đình
mà nổi bật lên vẫn là khơng gian làng q. Thậm chí trong những truyện có nhiều chặng
thử thách đặt ra với nhân vật như Người lấy cóc thì anh học trị và vợ trải qua rất nhiều
thử thách nhưng bối cảnh chỉ diễn ra trong làng quê của nhân vật: từ nhà đến cánh đồng,
đến trường học. Với kiểu truyện về cuộc hành trình đi tìm hơn nhân của nhân vật thì TCT
thường có xu hướng mở rộng khơng gian để thấy được tính chất li kì hấp dẫn cũng như
những khó khăn, trở ngại trên con đường tìm kiếm hạnh phúc của con người. Trong ví dụ
trên và nhiều TCT người Việt, chúng ta khơng thấy có những biểu hiện đó.
Nhưng dù đó là khơng gian làng q mang tính hiện thực thì đó cũng khơng phải là


bản thân hiện thực. Bởi vì, khi đi vào tác phẩm văn học, những chi tiết đã trở thành những
tín hiệu thẩm mĩ; không gian xác định bằng toạ độ, bằng kích thước, vị trí cụ thể ngồi
cuộc sống trở thành KGNT và do đó nó mang tính biểu trưng và ước lệ. Khơng gian hiện
thực đó cũng có nghĩa là KG của sự sống, nơi diễn ra các hoạt động của con người. Dù
trong khơng gian ấy có đau khổ, áp bức, bất công và nhân dân không thực hiện được ước
mơ của mình (thường là khơng gian kì ảo mới là nơi gửi gắm và thực hiện những ước mơ
của con người – sẽ trình bày ở phần sau) nhưng con người phải chấp nhận. Và ở đây
chúng ta thấy một khía cạnh thú vị trong tư duy nghệ thuật, trong quan niệm của thời đại
truyện cổ tích: con người chấp nhận thực tại, đấu tranh với hiện thực khốc liệt để khẳng
định bản chất “NGƯỜI” của mình. Đó là trường hợp Từ Thức từ cõi tiên về trần thế,
chấp nhận tuổi già và cơ đơn vì nơi đó có gia đình, làng xóm, có cuộc đời thực của anh ta;
là chàng Ngưu dẫn con về trần gian; là những nhân vật thần tiên chấp nhận đánh đổi sự trường
sinh ở trên trời để làm con người bình thường nơi trần thế. Thậm chí, người vợ trong “Sự tích
con sam” khơng giấu nổi nỗi vui sướng khi tìm được chồng, đưa về quê nhà, để đến nỗi vi
phạm điều cấm kị khiến hai vợ chồng đều chết… Nhưng vượt qua những đau khổ, mất mát, họ

hướng tới cuộc sống thực tại, trở về khơng gian đời thường vì ở đó có tình u thương của con
người. Đó là quan niệm hết sức sâu sắc và giàu giá trị nhân văn của TCT.
Tính quan niệm của khơng gian làng quê trong TCT cũng được khẳng định ở một
phương diện khác: không gian làng quê gắn với sự sống, yên ổn (dù là tạm thời). Bởi vì
khơng gian xa xơi cũng gắn với sự bất trắc, là dấu hiệu của tai họa và cái chết: ba anh em
trong “Trầu cau” ra đi khỏi nhà dẫn tới cái chết; Thủ Huồn ra đi đến Âm phủ; Thạch Sanh
đi khỏi gốc đa là đối diện với nguy hiểm, lừa lọc; Cuội đi làm xa nhà dặn vợ những bất
trắc có thể xay ra ở nhà; Sọ Dừa ra đi dự cảm được những tai họa sắp đến; con quạ mang


bức tranh đi xa (sang KG khác) gây tai họa cho hai vợ chồng (Lọ nước thần)… Nhân vật
của TCT dường như thuộc về một không gian nhất định mà KG đó quy định đặc điểm,
tính cách cũng như quyết định số phận của nhân vật. Con người có sự hài hoà với KG
thân thuộc. Cho nên, sau khi gặp nhiều tai họa ở trong cung, Tấm trở về quán nước bà lão
và tìm thấy sự yên bình trong cuộc sống nơi thơn dã đó.
Bên cạnh khơng gian hiện thực, TCT xây dựng một kiểu KG mang tính đặc trưng là
KG kì ảo. Khơng gian kì ảo là sự sáng tạo mang tính nghệ thuật của con người nhưng chịu
sự chi phối của những quan niệm tín ngưỡng, tơn giáo. Đó là quan niệm về tính nhiều
tầng của thế giới: Thế giới Thiên đình, Thuỷ phủ, Âm phủ… Những hình thức khơng gian
đó khơng tồn tại trong thực tế nhưng nó tồn tại trong ý thức, trong quan niệm của con
người, nó mang tính chất biểu trưng, đúng như Gurevich đã nhận xét: “Đôi khi chúng ta
không ý thức được rằng thời gian và không gian không chỉ tồn tại một cách khách quan,
chúng còn được con người ý thức và thể nghiệm một cách chủ quan”… Những khái niệm
không gian bao giờ cũng bị quy định bởi nền văn hố của nó” [1/31]. Do đó, bên cạnh KG
hiện thực, KG kì ảo cũng thể hiện được những yếu tố về tư duy, quan niệm và ước mơ của
nhân dân lao động.
Thứ nhất, KG kì ảo là những ước mơ, khát vọng của con người. Ở đó có hạnh phúc và
sự bất tử (Từ Thức), có những vật báu kì diệu đem lại hạnh phúc (cây đàn trong Thạch
Sanh), có vàng bạc châu báu đem lại sự giàu sang (hòn đảo trong “Cây khế”)… Nói
chung là ở thế giới kì ảo con người có thể tìm được tất cả những điều tốt đẹp, sung sướng

mà họ khơng bao giờ có được ở thế giới hiện thực.
Thứ hai, KG kì ảo là thước đo phẩm chất của con người. Chính vì KG kì ảo là nơi
chứa đựng những ước mơ giàu sang, hạnh phúc của con người cho nên không phải ai cũng


có thể đến được KG đó. Chỉ có những người đã qua thử thách, bộc lộ được phẩm chất tốt
đẹp, trung thực, dũng cảm thì mới đến được KG kì ảo, được đền đáp, và có kết thúc có
hậu: vì cứu được Thái tử con vua Thủy Tề mà Thạch Sanh đi xuống Thủy cung, nhận
được phần thường là cây đàn thần kì… Những biểu tượng KG đó mang tính chức năng,
đó là mơi trường thử thách để ban thưởng hoặc trừng phạt nhân vật.
Trong TCT, hai loại KG đó (hiện thực và kì ảo) ln tồn tại, đan xen vào nhau, có
quan hệ với nhau. Sự tồn tại của mỗi loại KG này không thể tách rời với loại KG kia và
ngược lại. Nhưng dù là KG kì ảo hay KG hiện thực thì KGNT của TCT cũng mang tính
chức năng và mang tính quan niệm. Đó là những phương tiện để chuyển tải những quan
niệm về thế giới, về con người. Đồng thời, chúng cũng tạo nên sự cân bằng trong tâm lí
con người, giúp con người giải toả những áp lực trong cuộc sống, mơ ước hướng tới thế
giới tương lai.
2. Không gian cản trở và không gian phi cản trở
Chúng ta vẫn thường đề cập đến yếu tố KGNT trong TCT, phân tích những hình thức
tồn tại cũng như tính quan niệm của nó. Nhưng nhiều khi, chúng ta thấy rằng dường như
KG của TCT không tồn tại, Likhachep đã gọi đó là tính phi cản trở của KG TCT. Prơp đã
nhận định rằng KG “có trong truyện cổ, nó là một thành phần cấu trúc khơng thể thiếu
được. Mặt khác, nó dường như hồn tồn vắng mặt” [5/235].
Khi nói đến KG cản trở và KG phi cản trở là chúng ta gắn KGNT với những hành
động của nhân vật. Sự cảm nhận của chúng ta về những loại hình KG này cũng thơng qua
việc tìm hiểu các hành động của nhân vật.
KG cản trở là loại KG gây ra những trở ngại trong quá trình di chuyển của nhân vật,
KG chứa đựng những thử thách, những kẻ thù ngăn cản đường đi của nhân vật. Loại KG



này thường có mặt trong kiểu truyện dũng sĩ, trong những dạng truyện phiêu lưu, những
cuộc truy đuổi của kẻ thù… KG mang tính cản trở cũng xuất hiện đối với nhân vật địch
thủ, nhân vật phản diện: mụ Chằng liên tiếp bị những vật báu mà chàng đi săn vứt lại
khiến mụ không thể đuổi kịp (làm cho sông biển nổi lên thành rừng, cho núi sụt xuống
thành sông biển)…
KG cản trở cũng mang tính quan niệm và tượng trưng rõ nét bởi vì nếu vượt qua được
những cản trở đó thì con người sẽ đạt được ước mơ, khát vọng của mình. Và ngược lại,
nhân vật khơng làm chủ được không gian, không chiến thắng được những cản trở của KG
cũng có nghĩa là anh ta phải chấp nhận bi kịch: Dã Tràng xe cát biển Đông; Từ Thức trở
lại cửa thần Phù, lá cây đã che kín lối vào; KG cản trở khiến cho chàng Ngưu và con không
trở về trần gian được mà phải chết dọc đường, tương tự như vậy là hoản cảnh của vợ chồng
người đánh cá trong “Sự tích con sam”…
KG phi cản trở được hiểu theo hai hình thức: một là khơng gian kì ảo trong đó nhân
vật di chuyển từ KG trần thế (hoặc KG kì ảo) đến KG kì ảo một cách dễ dàng; hai là KG
hiện thực có khoảng cách giữa các điểm khác nhau nhưng nhân vật cũng có thể di chuyển
thuận lợi nhờ những phép màu kì diệu, những vật báu. Hình thức di chuyển mang tính
chất thần kì đó vượt ra ngồi quy luật của khơng gian, thời gian, tốc độ khiến cho chúng ta
cảm giác rằng KG (khoảng cách) đó là khơng tồn tại. Trong truyện “Cái dây lưng”, O Bù
hai lần vượt qua núi cao, qua chín suối, chín đèo nhưng truyện khơng nói gì đến quá trình
đi của nhân vật mà chỉ kết luận “Cuối cùng, cô đến được con suối…”
Không gian phi cản trở trong TCT khơng cịn là KG địa lí mà là “không gian thần
thoại – tôn giáo. Từ KG này chuyển sang KG kia chẳng có gì khó khăn” [1/51]. Do đó nó
cũng khơng có tính xác định. Trần công đến xứ sở của thần Mưa nhờ cây gậy rút đất mà


vượn tặng, rồi ông lại cưỡi trên lưng sư tử bay đi khắp nơi (Làm ơn hoá dại ). Cuộc hành
trình của nhân vật tuy đi từ nơi này đến nơi kia, “qua nhiều vùng, nhiều xứ sở” nhưng
dường như những khoảng cách khơng gian đó khơng tồn tại. Điều này có được khơng chỉ
do Trần cơng sử dụng những phương tiện thần kì mà có lẽ do cách tư duy của tác giả
TCT: những hình thức khơng gian khác nhau đó thực chất là sự biến đổi của một địa điểm

cố định trong nhiều thời điểm khác nhau - lấy không gian để biểu thị sự biến đổi của thời
gian (bằng chứng là quê của Trần công lúc hạn lúc lụt). Cho nên, hình thức KG đó có mặt
trong TCT nhưng có lẽ chúng khơng tồn tại trên thực tế.
Như vậy là trong thể loại TCT, nhân dân cũng nhận ra việc di chuyển trong KG gặp
rất nhiều khó khăn cản trở. Đấy là một thực tế của những người dân sống rải rác, cách xa
nhau, hơn nữa phương tiện lạc hậu thì đi lại là một việc nguy hiểm. Chính vì thế, khi
khơng làm chủ được KG thiên nhiên quanh mình thì họ dựa nhiều vào thế giới biểu tượng
mang tính chất tâm linh, ước mơ chinh phục khơng gian bằng những hình thức nghệ thuật
kì ảo. Trong truyện “Người học trò với ba con qủy”, ba con quỷ tặng cho anh học trò
Long con ngựa ngày đi ngàn dặm, tặng túi mặt trời và túi mặt trăng. Con ngựa là phương
tiện kì ảo để chinh phục khoảng cách KG, Long nhờ đó mà vượt hàng ngàn dặm từ kinh
đô về thăm vợ. Những vật báu mặt trời và mặt trăng được Long sử dụng là cách chinh
phục không gian bằng cách làm cho thời gian kéo dài ra. Bản chất của hành động đó là
khắc phục sự hạn chế của tốc độ cho nên muốn chiếm lĩnh KG thì nhân vật phải kéo dài
thời gian.
Bên cạnh đó, TCT cũng sử dụng một cách thức thường thấy là xố nhồ những
khoảng cách, những cản trở của KG. Khi đó KG khơng cịn cản trở nhân vật nữa và TCT
chú trọng đến những hành động của nhân vật trên nền bối cảnh KG đó mà thơi. Do đó,


đặc điểm này càng củng cố cho nhận định KGNT của TCT mang tính chất quan niệm và
ước lệ. KG không cản trở giúp cho nhân vật trung tâm dễ dàng đến được với thế giới mơ
ước, đạt được khát vọng của con người. Đúng như lời bình của Gorki: “Trong truyện cổ
tích, người ta bay trên khơng trung, ngồi lên tấm thảm biết bay, đi hài bảy dặm, phục sinh
những người đã chết… nói chung truyện cổ tích đã mở ra trước mắt tôi cánh cửa sổ để
trông vào cuộc sống khác – trong đó có lực lượng tự do không biết sợ đang tồn tại và hoạt
động mơ tưởng đến cuộc đổi đời tốt đẹp hơn”.
3. Không gian điểm và khơng gian tuyến tính
“Điểm” và “tuyến tính” vốn là những khái niệm hình học. Những nhà nghiên cứu thi
pháp học vận dụng chúng như là những khái niệm của khơng gian nghệ thuật, chỉ tính

chất của KGNT.
Theo “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên), nghĩa danh từ của từ “điểm” có 7
nghĩa, chúng tơi chú ý nghĩa thứ 3: “điểm là phần không gian, nơi nhỏ nhất có thể hạn
định được một cách chính xác, xét về mặt nào đó” [4/323]. Chúng tơi hiểu khơng gian
điểm là loại khơng gian có tính chất cố định, tĩnh tại và nhỏ hẹp, chỉ gồm một địa điểm,
khơng có sự mở rộng theo chiều dài. Do đó, hoạt động của nhân vật trong mơi trường
khơng gian này bị bó hẹp, có khi chỉ diễn ra trong một ngơi nhà, một ngơi làng, một đỉnh
núi, một góc rừng…
Cũng theo từ điển trên, tuyến tính là danh từ được hiểu là tính chất nối tiếp nhau theo
đường thẳng [4/1049]. Không gian tuyến tính là khoảng khơng gian trải dài, gồm nhiều
điểm kết hợp với nhau tạo nên môi trường hoạt động mang tính chất rộng lớn, nhân vật có
thể di chuyển đi từ điểm này đến điểm khác. Đến mỗi điểm dừng, hành động của nhân vật
diễn ra và thúc đẩy cốt truyện phát triển.


Không gian điểm là loại không gian đặc trưng của thần thoại và kịch. Trong thần
thoại, mỗi vị thần có một địa điểm hoạt động nhất định, mỗi vị thần cai quản một nơi. Dù
họ có di chuyển từ nơi này qua nơi khác nhưng mỗi hành động thường chỉ diễn ra ở một
nơi: Sơn Tinh là thần núi Ba Vì, thần biển là con rùa khổng lồ chỉ nằm yên một chỗ, thần
Trụ trời đứng lên chống bầu trời… Thậm chí thần Lúa trước đây tự đi về nhà người nông
dân nhưng về sau thần không chịu đi đâu nữa chỉ đứng một chỗ… Nhưng đến giai đoạn
sau (thần thoại suy tàn, giao thoa với loại truyền thuyết và sử thi, truyện cổ tích) thì khơng
gian điểm dần dần phát triển thành khơng gian tuyến tính. Nhân vật ln có xu hướng mở
rộng địa bàn hoạt động: Sơn Tinh trở thành tướng, con rể vua Hùng, lập nhiều chiến cơng;
sự tích và chiến cơng của ơng Đùng trải dọc theo hai bở sơng Đà…
Trong khi đó, khơng gian tuyến tính xuất hiện trong nhiều thể loại VHDG đặc biệt là
truyền thuyết và sử thi. Đó cũng là mơi trường hoạt động mang tính chất ưa thích của các
nhân vật anh hùng. Loại khơng gian này phù hợp với tính chất anh hùng, nhằm ca ngợi
những chiến cơng kì vĩ, nhân vật truyền thuyết và sử thi không ngừng mở rộng khơng
gian của mình: Gióng là đại diện cho sức mạnh cộng đồng chống ngoại xâm, mà dấu tích

chiến cơng của ngài trải dài khắp vùng trung châu Bắc Bộ; Lí Thường Kiệt khơng chỉ
được biết đến như là người anh hùng làm nên chiến thắng bên sông Như Nguyệt mà ơng
dấu chân của ơng cịn in đậm trên vùng đất phía bắc của Tổ quốc, trong những truyền
thuyết dân gian của đồng bào Tày – Nùng; nhân vật Trần Hưng Đạo trở thành trung tâm
của hệ thống truyền thuyết và tín ngưỡng có mặt ở hầu hết các địa phương Bắc Bộ; con đường
truyền thuyết về Lê Lợi cũng trải dài từ Thanh Hoá ra Thăng Long…
Bước sang thể loại truyện cổ tích, KGNT khơng chỉ có một loại mang tính đặc thù mà
nó là sự kết hợp của nhiều loại hình KGNT, trong đó đặc biệt là sự kết hợp của KG điểm


và KG tuyến tính. Trong mối quan hệ đó, KG điểm đóng vai trị nịng cốt, bởi vì cũng như
trong hình học, điểm thường khơng được định nghĩa mà nó là đơn vị cơ bản dùng để xây
dựng (định nghĩa) các phạm trù khác. Do đó, KG điểm được xem như một thành tố cấu tạo
nên KG tuyến tính và cùng với KG tuyến tính xác lập mơ hình khơng gian thế giới. Trong quá
trình phát triển để kết hợp tạo thành KG tuyến tính thì KG điểm được chú ý đặc biệt vì
“mọi sự phát triển đều có những điểm dừng và những điểm dừng đó được gia cơng chi
tiết” [5/235].
Trong TCT Việt Nam, KG điểm được thể hiện rất phong phú, đa dạng dưới nhiều
hình thức khác nhau. Có thể nói, đây là dạng KG phổ biến nhất của các TCT. TCT sinh
hoạt và TCT loài vật đều có KG phổ biến là các địa điểm và những hồn cảnh cụ thể.
Trong TCT thần kì, những dạng truyện “sự tích” thường diễn ra ở một địa điểm nhất định
nào đó, nhân vật thường ít khi di chuyển: Sự tích cây huyết dụ, Sự tích chim hít cơ, Sự tích
chim tu hú, Sự tích con khỉ…
Đặc điểm này có thể nhận thấy thơng qua việc tìm hiểu cấu tạo cốt truyện của TCT thần kì.
Theo tác giả Tăng Kim Ngân, cấu tạo cốt truyện của TCT người Việt hết sức đơn giản, thường
khơng có nhiều chức năng (theo lí thuyết về 31 chức năng của Prôp). Đáng chú ý là một số chức
năng xuất hiện thưa thớt như: sự biến hình, sự giao tranh, chuyến viếng thăm bí mật, sự truy nã,
sự thoát thân… Mà những chức năng này liên quan đến sự di chuyển trong không gian của nhân
vật. Mặc dù chức năng “sự ra đi – từ giã” xuất hiện 38/33 truyện [2/143] nhưng chúng tôi cho
rằng hình thức ra đi của nhân vật trong TCT người Việt là khơng điển hình, khơng tạo nên biến cố

lớn của cốt truyện và nhiều khi đó là “sự ra đi giả”.
Sở dĩ chúng tôi dùng khái niệm “sự ra đi giả” vì trong TCT người Việt, nhiều khi nhân vật ra
đi không phải là sự dấn thân vào môi trường nguy hiểm, đối diện với những thử thách (kiểu như


ra đi giải cứu những người anh – bầy chim thiên nga, ra đi tìm ba quả táo vàng, ra đi giải thốt
cơng chúa… như TCT phương Tây). Sự ra đi của nhân vật nhiều khi chỉ vì tình thế bắt buộc, để
thốt khỏi hồn cảnh trước mắt, bản chất của nó có thể gọi là “sự vắng mặt tạm thời”. Những chi
tiết dạng này gần gũi với thể loại kịch: nhân vật hết vai diễn nhường sân kháu lại cho nhân vật
khác thể hiện. Sự ra đi điển hình theo đúng nghĩa của chức năng này là nhân vật phải làm chủ
hành động ra đi và cốt truyện phát triển trên cơ sở khai thác việc ra đi của nhân vật. Nhưng ở
nhiều TCT người Việt, nhân vật tuy là có “sự ra đi” nhưng cốt truyện vẫn kể diễn biến ở địa điểm
ban đầu, gắn với hành động của những nhân vật khác:
+ Người chồng vì nghèo đói ra đi, vợ ở nhà lấy người chồng khác giàu có, ba năm sau chồng
cũ trở về (vẫn nghèo đói – ra đi khơng có sự đổi đời: đó là “sự ra đi giả”) – Sự tích ba ơng đầu
rau.
+ Người chồng ra đi biệt tăm, người vợ đau khổ, chờ chồng đến hố đá - Sự tích Vọng
phu
+ Sọ Dừa lên kinh thi, câu chuyện tiếp diễn với người vợ ở nhà. – Sọ Dừa
Như vậy, nhân vật có sự ra đi, có sự di chuyển địa điểm trong khơng gian nhưng sự
tồn tại của “khơng gian tuyến tính” chỉ mang tính hình thức và khơng tiêu biểu : Tấm từ
nhà vào cung nhưng tính chất dân dã của khơng gian làng q cũng như những nguy hiểm
ln rình rập cơ thì khơng thay đổi (Tấm Cám).
Chính vì khơng gian hoạt động của nhân vật không thể mở rộng theo chiều dài, chiều
rộng (tức là theo trục ngang) cho nên tư duy TCT đã mở rộng không gian theo trục dọc.
Có nghĩa là từ một điểm bao đầu soi chiếu lên các tầng không gian khác (Thiên đường,
Âm phủ, Thủy cung), chúng ta có các điểm tương tự ở các khơng gian đó. Đây cũng chính
là cơ sở của tính biểu trưng của KG kì ảo, là sự mơ hình hố, là sự soi chiếu của KG trần



thế, của thế giới trần tục mà thôi. Những thế giới kì ảo đó mang tính chất, đặc điểm của
đời sống con người, mang quan niệm của thời đại TCT về thế giới, về cuộc sống.
Sự mở rộng KG có mặt trong TCT nhưng nhân vật của TCT khơng có xu hướng
chiếm lĩnh KG như trong sử thi mà con người trong TCT vẫn xem mình như một phần của
KG, lấy KG để soi chiếu bản thân mình. Cho nên, nhân vật di chuyển trong KG để mong
muốn thay đổi cuộc đời, thay đổi số phận và nhân vật thụ động trước những môi trường
KG khác. KG quyết định hành động và số phận của nhân vật: Ví dụ khi đi trong thế giới
âm phủ (hay thủy cung) nhân vật khơng được nói cười; ở Âm phủ, Thủ Huồn phải chịu sự
trừng phạt… Cho nên, nhiều khi nhân vật không có đủ bản lĩnh để thay đổi KG, thay đổi
mơi trường sống của mình : Hồ sinh ăn miếng trầu được đưa đến một thế giới kì ảo mà
anh được làm quan nhưng sau đó lại bị bắt giam. Khi tỉnh dậy, anh không dám đi đến kinh
đô nữa, từ bỏ hằn giấc mộng làm quan mà chí thú làm ăn trên ruộng đất của mình (Miếng
trầu kì diệu).
Trong TCT, ngồi hình thức “KG tuyến tính giả” như trên, nhiều truyện có hình thức
KG tuyến tính đích thực. Đó là dạng KG ở trong truyện: Hai cô gái và cục bướu, Cây khế,
Thạch Sanh, Người học trò với ba con qủy, Người học trị nghèo và Ngọc Hồng… Trong
đó, nhân vật luôn luôn di chuyển trong KG, thay đổi phạm vi hoạt động của mình. Mỗi
chặng trong cuộc đời nhân vật gắn với một địa điểm nào đó và mỗi địa điểm đó cũng biểu
hiện những nét khác nhau trong cuộc đời, số phận của nhân vật. KG tuyến tính đặt nhân
vật vào trạng thái luôn luôn phải hành động, thơng thường KG đó cũng chính là con
đường mà nhân vật tìm kiếm hạnh phúc. Ở mỗi một chặng (một điểm) trên KG tuyến tính
đó, nhân vật bộc lộ sự phát triển về tài năng và nhân cách qua các hành động: Thạch Sanh
lúc đi diệt chằn tinh là người gan dạ, dũng cảm nhưng nhẹ dạ cả tin; lúc cứu công chúa là


nghĩa hiệp xả thân; lúc đánh quân xâm lược là mưu trí, bản lĩnh; Sọ Dừa lúc ở nhà là cục
thịt lăn lông lốc, đến nhà phú ông là người lao động tài ba, khi kết hôn là chàng trai khơi
ngơ, lúc lên kinh thi là Trạng ngun, tài trí hơn người…
Chúng tôi cũng lưu ý rằng “trong truyện cổ, những yếu tố tĩnh, điểm dừng ra đời sớm
hơn bố cục khơng gian. Khơng gian đã bị hồ trộn vào trong một cái gì đó có sớm hơn.

Những yếu tố cơ bản được tạo thành trước sự xuất hiện của khái niệm khơng gian” [5/236]. Bởi
vì trong qúa trình phát triển của tư duy con người thì hình thức ban đầu bao giờ cũng mang tính
chất cụ thể, cảm tính. Những mơ hình khơng gian về thế giới là sản phẩm của một trình độ
tư duy cao hơn.
4. Kết luận
Như vậy, KGNT mang tính hai mặt là một trong những đặc trưng thẩm mĩ quan trọng
của thể loại TCT. Điều này là kết quả của tư duy thẩm mĩ mang tính chất nhị nguyên của
nhân dân lao động trong thời đại TCT. Từ đặc điểm mang tính khái quát này chúng ta có
thể đưa ra nhiều cặp mơ hình KGNT của TCT. Những loại hình KG đó đã góp phần hình
thành thế giới nghệ thuật TCT vừa mang tính hiện thực vừa là mơ ước của con người.
Những hình thức KGNT đó có ảnh hưởng nhất định tới tính chất của thế giới nghệ thuật
TCT, một thế giới đặc biệt “cần có và nên có” cho con người.
-------------Chú thích
1. A.JA. Gurêvich (1996): Các phạm trù văn hố trung cổ (Hồng Ngọc Hiến dịch). Nhà xuất bản Giáo
dục. H.
2. Tăng Kim Ngân (1994): Cổ tích thần kì người Việt - Đặc điểm cấu tạo cốt truyện. NXB KHXH. H
3. Lê Trường Phát (2000): Thi pháp văn học dân gian. NXb Giáo dục
4. Hoàng Phê (chủ biên 1992) Từ điển tiếng Việt ). Trung tâm từ điển ngôn ngữ. H.


5. Tuyển tập V.Ia. Prôp, tập 2 (2003). NXB Văn hố dân tộc- Tạp chí Văn hố Nghệ thuật. H.
6. Trần Đình Sử tuyển tập – Tập 2 (2005). Nhà xuất bản Giáo dục. H



×