Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Thuyet minh bai Binh Ngo Dai Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.2 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Thuyết minh bài : Bình ngơ đại cáo</b>



Biên sọan: Đòan Minh Thiện



Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Là con của
Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm
1407 giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam
lỏng tại thành Đông Quang.


- Nguyễn Trãi biệt Đông Quan, trốn vào Lam Sơn dâng "Bình Ngơ sách" lên Lê Lợi, trở thành vị
quân sư "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời".


- Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo "Bình Ngơ Đại Cáo" sau đó được cử làm Chánh chủ khảo
khoa thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh
thần chèn ép, gièm pha. Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn. Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp
nước.


- Năm 1442 xẩy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc". Mãi đến năm 1464, vua Lê
Thánh Tông mới minh oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.


Nguyễn Trãi là người anh hùng thủa "Bình Ngơ", văn võ tồn tài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Sau khi chiếm trọn được lãnh thổ, bình định được hai châu Thuận Hĩa và Tân Bình ở cực nam
đất nước, giáp với Chiêm Thành, Trương Phụ làm sổ kiểm tra dân đinh, đặt quan cai trị, coi giang
sơn gấm vĩc của nước ta như vẫn cịn là Giao châu đời nhà Đường khi xưa. Tháng tám năm giáp
ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu đem theo tiền bạc vơ vét được và một số đơng
phụ nữ bị ép buộc phải đi theo. Trong thời gian lệ thuợc nhà Minh tiếp theo đĩ (1414-1427),
dưới sự cai trị thật dã man và tàn nhẫn của bọn tham quan Lý Bân và Mã Kỳ được cử sang thay
cho Trương Phụ, dân ta bị sách nhiễu trăm đường khổ sở. Những chổ cĩ mỏ vàng, mỏ bạc thì
dân bị đốc thúc đi khai mỏ, thật là cực nhọc. Miền rừng núi thì người sơn cước bị lùa vào rừng,
tìm ngà voi, sừng tê giác, săn bắn, đặt bẫy để bắt những lồi chim qúy, những thú vật hiếm hoi


để đưa về Tầu, dễ gây ra diệt chủng cho nhiều lồi muơng thú. Trong khi ấy thì lại cĩ những
người bản xứ, tuy cũng đã theo địi nghiên bút, biết đơi chữ nghĩa, nhưng vì tham danh lợi,
khơng cần liêm sỉ, ra làm quan với nhà Minh, ỷ thế vào giặc để tham nhũng bĩc lột dân lành. Vào
thời đại dân tình cực khổ, lịng người sầu ốn, sĩ phu càng thấy tâm hồn ưu uất khi đọc lại mấy
câu thơ cuối trong bài Thuật Hồi của liệt sĩ Đặng Dung


"Quốc thù vị phục, đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền, đái nguyệt ma"
tạm dịch là


"Thù nước chưa đền, đầu sớm bạc,
Dưới trăng mài kiếm, đã bao phen."


Nhưng đất nước ta, qua cơn bĩ cực lại tới tuần thái lai. Nhờ vận nước trở lại hanh thông, vị anh
hùng áo vải ở Lam Sơn là Lê Lợi, vào mùa xuân năm mậu tuất (1418) đã dựng cờ khởi nghĩa, tự
xưng là Bình Định Vương, truyền hịch khắp nơi kể tội nhà Minh và kêu gọi người dân đồng lòng
hiệp sức đuổi quân xâm lăng tàn bạo ra khỏi bờ cõi của non sơng. Sau mười năm gian lao vất vả,
Bình Định Vương nhờ được chính nghĩa, dùng sức yếu mà thắng được thế giặc mạnh, phá tan
quân địch ở Tây Kinh, rồi kéo quân về uy hiếp Đông Đô, làm khiếp vía Chinh Di tướng qn là
Vương Thơng do Minh Đế cử sang cứu viện. Trong trận đánh cuối cùng, quân Minh lại tăng viện
theo hai ngả, dùng Chinh Lỗ phó tướng quân Liễu Thăng theo đường Quảng Tây và Chinh Nam
đại tướng quân Mộc Thạnh theo đường Vân Nam, những tưởng phen này lại phá thành dẹp lũy,
đem bản đồ đất Giao châu về Minh triều dâng hiến. Nào ngờ quân của Bình Định Vương, đao mài
lưỡi cho sắc, mũi thương nung cho nhọn, quân sĩ hăng say quyết lòng tử chiến với địch, ở trận
Chi Lăng Liễu Thăng bị đại bại, để rồi tử vong tại Mã Yên Sơn, tướng nhà Minh thì Lương Minh tử
trâïn, Lý Khánh đâm cổ tự vẫn. Đám tàn quân do đô đốc Thôi Tụ và thượng thư Hoàng Phúc thu
thập, kéo nhau chạy về Lạng Giang cũng bị những hổ tướng của Bình Định Vương là Lê Khơi và
Nguyễn Xí đem qn thiết kỵ đuổi theo truy kích và vây bắt để rồi kẻ dập đầu tạ lỗi, người qùy
gối đầøu hàng. Bình Định Vương, lấy nhân nghĩa để thu phục lòng người nên mở đường cho
Vương Thông dâng biểu về vua Tun Tơng nhà Minh để xin cầu hồ. Đến tháng chạp năm Đinh


Mùi (1427), Vương y lời hội ước, tha chết cho quân Minh, cấp cho thủy quân 500 chiếc thuyền và
giao cho bọn Phương Chính và Mã Kỳ quản lĩnh để dương buồm ngược về Bắc phương, và cùng
một lúc thả 2 vạn quân sĩ đã ra hàng cho Tham tướng nhà Minh là Mã Anh chấp lãnh, rồi đưa
qua sông Nhị Hà để lục tục kéo về Tầu cùng với chủ tướng Vương Thông đi đoạn hậu. Đuổi được
quân thù ra ngoài bờ cõi, toàn dân Việt đã hoan ca mở một kỷ nguyên mới, tự chủ cho giang
sơn.


Bình Ngơ Đại Cáo


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cơng thần Nguyễn Trãi viết bản "Bình Ngơ Đại Cáo" tại bờ sông Hồng, trong tư dinh Bồ Đề để
tuyên cáo với quốc dân rằng can qua nay đã hết, quốc gia bắt đầu một thời đại bình trị. Bản văn
viết từ năm 1427, cho tới nay đã trải qua gần 6 thế kỷ mà vẫn lưu truyền lại như là một áng văn
chương tuyệt tác, nói lên tinh thần bất khuất của người dân ViệtNgười ta chọn Nam quốc sơn hà,
Hịch tướng sĩ và Cáo bình Ngơ là 3 dấu mốc đánh dấu những chặng đường phát triển của chủ
nghĩa yêu nước trong văn học thượng kỳ trung đại. Ðặc biệt, phải đến cáo bình Ngơ, ý thức độc
lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề nhân nghĩa,.. mới thực sự phát triển
rực rỡ


I. VÀI VẤN ĐỀ CHUNG
1. Hoàn cảnh ra đời:


Cuối năm 1427, Vương Thông, tên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh ở Việt Nam, đã phải mở cửa
thành Ðông Quan đầu hàng. Cuộc kháng chiến 10 năm đã kết thúc vẻ vang. Thay mặt vua Lê,
Nguyễn Trãi viết bài cáo nhằm tổng kết quá trình kháng chiến và tuyên cáo thành lập triều đại
mới. 2. Về thể loại Cáo:


Nếu văn học động viên mọi người chiến đấu thì văn Cáo lại có ý nghĩa tuyên ngôn nhằm công bố
cho mọi người biết những chủ trương chính trị trọng đại của tồn dân tộc như việc xác lập hịa
bình, đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng vương triều mới.



Cáo viết bằng thể văn biền ngẫu, số câu chữ không hạn chế, văn phong mang tính chính luận
nên trang trọng, sắc bén, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.


Kết cấu của bài đại cáo bình Ngơ tn thủ đúng kết cấu của các tác phẩm Thang cáo (được chép
trong chương Thương Thư của sách Kinh Thư) và Vũ cáo hay đại cáo Vũ Thành (được chép trong
chương Chu thư của sách Kinh Thư).


3. Về tựa đề bài Cáo:


Những quan niệm khác nhau về ý nghĩa của chữ Ngơ trong Bình Ngơ đại cáo


- Ngơ: Một cách gọi theo thói quen của người Việt Nam thời đó để chỉ chung người trung Quốc.
- Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chương (tức Minh Thành tổ).


- Ngô: Một cách gọi của nhân dân để chỉ những tên giặc gian ác, tàn bạo.
II. Thuyết minh


1. Nêu luận đề chính nghĩa:


- Luận đề này được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa 3 yếu tố: Nhân nghĩa, dân và
nước:


+ Nhân nghĩa: điếu dân phạt tội, bênh vực cho kẻ khốn cùng, chống lại các thế lực phi nhân.
+ Dân: Dân trong tác phẩm là những người thuộc tầng lớp thấp nhất nhưng lại chiếm đa số
trong xã hội nơng nghiệp thời đó. Ðó là những dân đen, con đỏ, thương sinh, phu phen, manh
lệ, những người có vai trị lịch sử quan trọng, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng
đất nước.


+ Nước: Khái niệm nước bao gồm mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố
Văn hiến



Ðịa lý


Phong tục tập quán
Các triều đại chính trị
Hào kiệt


Truyền thống lịch sử vẻ vang


Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo về Nhân nghĩa, Dân, Nước đều xuất phát từ
chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống
và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Những quan niệm này, so với trước, đã có nhiều biến đổi, phát
triển do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử.


2. Vạch trần tội ác giặc:


Các nhà nghiên cứu xem đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp
của giặc Minh trong 20 năm trên mảnh đất Ðại Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

3. Tổng kết quá trình kháng chiến:


a. Hình ảnh của Lê Lợi buổi đầu kháng chiến


Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nưng phẩm chất tiêu biểu
nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước trong văn
học thời kỳ này thường có đặc điểm sau:


- Xuất thân bình thường:
Ta đây



Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
- Có tấm lịng căn thù giặc sâu sắc:
Ngẫm thù lớn há đội trời


Căm giặc nước thề không cùng sống


- Khở đầu gặp nhiều khó khăn nhưng ln có tinh thần vượt khó, kiên trì:
Trời thử lịng trao cho mệnh lớn


Ta gắng chí khắc phục gian nan
- Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân:


Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lịng phụ tử hịa nước sơng chén rượu ngọt ngào
- Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình:


Thế trận xuất kỳ lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều


- Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn


Lấy chí nhân mà thay cường bạo


Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước dám hy sinh quên
mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.


b. Miêu tả quá trình kháng chiến



- Ở đây, ta khơng tìm thấy những anh hùng cá nhân trong văn chương trung đại hay trong các
tác phẩm anh hùng ca của Hy Lạp cổ đại. Bài Cáo tập trung làm sáng rõ vai trò của một tập thể
anh hùng, những người mà trước kia văn học bác học chưa quan tâm đi sâu, khai thác


- Tuy nhiên, đối với tướng giặc, tác giả lại miêu tả đầy đủ, cụ thể từng gương mặt, họ tên, chức
tước và tư thế thất bại của từng tên một.


- Cách sử dụng liệt kê ngày tháng thể hiện rõ nhịp độ dồn dập của những trận chiến thắng.
4. Tun bố hịa bình, xây dựng vương triều mới:


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×