Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Chan dung cac ong vua trieu Nguyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.59 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>143 NĂM VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN (1802-1945)</b>


Triều Nguyễn - triều đại Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt
hơn 143 năm (1802-1845) với 13 đời vua Nguyễn. Thông thường các vua Nguyễn
sau khi mất, bài vị được đưa vào thờ tại Thế Miếu, có Miếu hiệu ứng với tên của các
đỉnh đồng đúc dưới thời Minh Mạng (1835), trừ các vua bị phế truất và các vua bị
Pháp đày ra khỏi nước. Riêng vua Dục Đức (phế đế) có Miếu hiệu Cung Tơn Huệ
Hồng đế là do con trai là vua Thành Thái truy phong, nhưng bài vị không được đưa
vào thờ tại Thế Miếu. Các vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân vào
năm 1959 đã được Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc làm lễ và đưa bài vị vào thờ tại Thế
Miếu.


Dưới đây là những ghi chép vắn tắt về 13 vua Nguyễn:
<b> 1.Vua Gia Long (1802-1819)* </b>


Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh (Anh), ngồi ra cịn có
tên là Chủng và Nỗn, con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân)
và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng
Giêng năm Nhâm Ngọ (8-2-1762).


Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn
do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân
khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn vào Nam. Từ đó ơng bơn tẩu
gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng để giành lại
vương quyền cho họ Nguyễn.


Năm 1792, vua Quang Trung mất, quân Tây Sơn ngày càng
yếu và quân Nguyễn ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân
Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận
Hóa.



Ngày 1-2-1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngơi Hồng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là
Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia
Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam .


Gia Long làm vua được 18 năm (1802-1819), mất vào ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ
Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Gia
Long được đưa vào thờ ở Thế Miếu và có Miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng đế.
Vua Gia Long có 31 người con (13 con trai và 18 con gái)


<b> 2. Vua Minh Mạng (1820-1840) </b>


Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, cịn có tên là Kiểu,
con thứ 4 của vua Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang (Thuận
Thiên Cao Hồng hậu). Ơng sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân
Hợi (25-5-1871) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

ngôi, nhà vua đã có nhiều cải cách quan trọng: cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập
các tỉnh (cả nước được chia làm 31 tỉnh); định lại quan chế, đặt mức lương bổng của
các quan tùy theo ngạch trật; thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục; khuyến
khích dân khai hoang lập ấp, sửa sang hệ thống giao thông, lập nhà Dưỡng tế ở các
tỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật, già cả không nơi nương tựa...
Đề cao Nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước là một trong những việc rất
được vua Minh Mạng chú trọng. Nhà vua cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kỳ thi
Hội và thi Đình (thời Gia Long chỉ có thi Hương).


Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt
Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, vua Minh
Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam.


Vua Minh Mạng mất ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (20-1-1841), hưởng thọ


được 50 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Minh Mạng được đưa vào thờ ở Thế Miếu với
Miếu hiệu Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.


Vua Minh Mạng có 142 người con (74 con trai, 68 con gái)
<b> 3. Vua Thiệu Trị (1841-1847) </b>


Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tơng, ngồi ra cịn có tên là Tuyền và
Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa (Tá Thiên Nhân
Hoàng hậu), sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16-6-1807) tại ấp Xn Lộc, phía
Đơng Kinh Thành Huế.


Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11-2-1841), làm vua
được 7 năm (1841-1847), mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (4-10-1847), hưởng
thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có
Miếu hiệu Hiến Tổ Chương Hoàng đế.


Vua Thiệu Trị có 64 người con (29 trai, 35 gái).
<b> 4. Vua Tự Đức (1848-1883) </b>


Vua Tự Đức có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, ngồi ra cịn
có tên là Thì. Ơng là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Phạm
Thị Hằng (Hoàng hậu Từ Dũ), sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ
Sửu (22-9-1829).


Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), làm
vua được 36 năm (1847-1883), mất ngày 16 tháng 6 năm Quý
Mùi (19-7-1883), hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà
vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Dực
Tơng Anh Hồng đế.



Vua Tự Đức không con, ông nhận 3 người cháu gọi bằng chú
làm con nuôi là: Nguyễn Phúc Ưng Chân (sau này là vua Dục
Đức); Nguyễn Phúc Ưng Đường (sau này là vua Đồng Khánh); Nguyễn Phúc Ưng
Đăng (sau này là vua Kiến Phúc).


<b> 5. Vua Dục Đức (1883, 3 ngày) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu
(11-2-1853). Năm 1869, lúc 17 tuổi được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên
là Ưng Chân, cho xây Dục Đức Đường để ở và giao cho Hoàng Quý Phi Vũ Thị
Duyên (sau này là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu) trông coi, dạy bảo.


Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, nhưng trong di chiếu có
đoạn viết: “... Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt,
tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn.
Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây.”
Lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này nên 3 ngày sau hai Phụ
chính Đại thần là Tơn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ Dục Đức theo
lệnh của Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu (mẹ vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu
(vợ vua Tự Đức).


Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu (Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở) thì Ưng
Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất. Ông mất ngày 6 tháng 9 năm
Giáp Thân (24-10-1884), thọ 32 tuổi.


Đến thời vua Thành Thái (con vua Dục Đức) vào năm 1892 đã truy tơn cha mình là
Cung Tơn Huệ Hồng đế.


Vua Dục Đức có 19 con (11 con trai và 8 con gái).
<b> 6. Vua Hiệp Hòa (1883, 4 tháng). </b>



Vua Hiệp Hòa tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật, cịn có tên là Thăng, con thứ 29 của
vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận, sinh ngày 24 tháng 9 năm Đinh
Mùi (1-1-1847).


Vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7
năm 1883, lấy niên hiệu là Hiệp Hịa.


Do có ý thân Pháp, vua Hiệp Hịa lên ngơi chưa được bao lâu thì bị triều đình Huế
phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi
(29-11-1883).


Dưới thời Thành Thái vào năm 1891, ông được truy phong là Văn Lãng Quận
vương.


Vua Hiệp Hịa có 17 người con (11 trai, 6 gái).
<b> 7. Vua Kiến Phúc (1883-1884) </b>


Vua Kiến Phúc tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con thứ 3 của Kiên Thái Vương
Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ưng Đăng sinh ngày 2 tháng Giêng
năm Kỷ Tỵ (12-2-1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức
nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.
Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được
đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng
thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) lúc mới 16 tuổi.


Sau khi mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu
hiệu là Giản Tơng Nghị Hồng đế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Vua Hàm Nghi tên là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, cịn có tên là Minh. Ông là con thứ 5


của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị


Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (3-8-1871).


Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân
(2-8-1884) Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua, đặt niên hiệu là
Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi.


Binh biến năm Ất Dậu (5-7-1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng
quần thần ra Tân Sở, phát hịch Cần Vương, phát động phong
trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi
nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 tháng 10 năm 1888,
tên Trương Quang Ngọc (người hầu của vua) bị Pháp mua
chuộc nên đem người bắt vua Hàm Nghi dâng cho Pháp.
Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13


tháng 1 năm 1889. Nhà vua sống ở đó cho đến lúc mất (4-1-1943), thọ 72 tuổi.
Vua Hàm Nghi có 3 người con (1 trai, 2 gái).


<b> 9. Vua Đồng Khánh (1886-1888) </b>


Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị, còn có tên là
Đường và Biện. Ơng là con trưởng của Kiên Thái Vương
Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, sinh ngày 12
tháng Giêng năm Giáp Tý (19-2-1864). Năm 1865 lúc được 2
tuổi, Ưng Thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho
bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.


Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân
Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên


ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.


Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bệnh và mất vào ngày
27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi.


Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu
hiệu là Cảnh Tơng Thuần Hồng đế.


Vua Đồng Khánh có 10 người con (6 trai, 4 gái).
<b> 10.Vua Thành Thái (1889-1907) </b>


Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lân, cịn có tên là
Chiêu, con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu
(Phan Thị Điểu), sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão
(14-3-1879).


Vua Đồng Khánh mất, triều đình Huế được sự đồng ý của
Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889
với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thối vị. Sau đó, ơng bị Pháp đưa đi an trí ở
Vũng Tàu. Năm 1916, ơng bị Pháp đem đi đày ở đảo Réunion (Châu Phi).


Năm 1947, ông được trở về sống ở Sài Gịn cho đến khi mất. Ơng mất ngày 9 tháng
3 năm 1955, thọ 77 tuổi.


Vua Thành Thái có 45 người con (19 trai, 26 gái).
<b>11. Vua Duy Tân (1907-1916) </b>


Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, cịn có tên là


Hoảng, con thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định,
sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19-9-1900).


Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đưa
Hồng tử Vĩnh San lên ngơi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới
được 8 tuổi.


Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua
Nguyễn. Tuy nhiên nhà vua lại là người chững chạc, có khí
phách của một bậc đế vương. Cũng như cha mình, vua Duy
Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Nhà vua đã cùng với
Thái Phiên, Trần Cao Vân... vạch định cuộc nổi dậy chống
Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua cùng Thái Phiên
và Trần Cao Vân trốn ra khỏi Kinh Thành. 3 ngày sau, vua Duy Tân bị Pháp bắt và
bị kết tội rồi đày sang đảo Réunion.


Nhà vua mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25-12-1945) trong một tai nạn máy
bay khi được 46 tuổi. Nhà vua được an táng tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo
M’Baiki, thuộc Cộng Hòa Trung Phi. Ngày 6 tháng 4 năm 1987, nhà vua được cải
táng trong khuôn viên của An Lăng (Lăng Dục Đức).


Vua Duy Tân có 5 người con (3 trai, 2 gái)
<b> 12. Vua Khải Định (1916-1925) </b>


Vua Khải Định tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, cịn có tên là Tuấn, con trưởng của
vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu), sinh ngày 1
tháng 9 năm Ất Dậu (8-10-1885).


Vua Đồng Khánh mất, Hồng tử Bửu Đảo cịn ít tuổi (4 tuổi)
nên không được chọn làm vua. Đến năm 1916, sau khi vua


Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion, triều đình Huế và
người Pháp mới lập Bửu Đảo lên ngôi vua vào ngày
18-5-1916, lấy niên hiệu là Khải Định.


Vua Khải Định ở ngơi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất
vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (6-11-1925), thọ 41 tuổi.
Sau khi chết, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu
và có Miếu hiệu là Hoằng Tơng Tun Hồng đế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b> 13. Vua Bảo Đại (1926-1945) </b>


Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, ngồi ra cịn có
tên là Thiển. Ơng là con độc nhất của vua Khải Định và bà
Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung), sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý
Sửu (22-10-1913).


Hoàng tử Vĩnh Thụy được đưa sang Pháp học lúc mới 10
tuổi, đến khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua
vào ngày 8 tháng 1 năm 1926, lấy niên hiệu Bảo Đại, đây là vị
vua cuối cùng của triều Nguyễn. Sau đó, ơng lại tiếp tục sang
Pháp học cho đến 8-9-1932 mới trở về Huế.


Vua Bảo Đại ở ngơi cho đến 30 tháng 8 năm 1945 thì làm lễ
thối vị tại Ngọ Mơn, giao chính quyền lại cho Chính phủ
Cách mạng Lâm thời.


Chế độ phong kiến chấm dứt, Bảo Đại sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua
lưu vong ở đó. Ơng mất ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại Pháp.


</div>


<!--links-->

×