MƯỜI VỊ TƯỚNG GIỎI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI
********************************************
Sưu tầm và hoàn thiện :
Hồ Chí Dũng
Giáo viên Trường THCS Diễn Đoài-Diễn Châu-Nghệ An
Tháng 2 năm 1984,Hội đồng khoa học Vương quốc Anh đã tôn vinh 10 vị tướng
xuất sắc nhất thế giới qua mọi thời đại được lựa chọn từ 98 vị danh tướng xuất sắc
thế giới 25 thế kỉ qua.10 vị tướng xuất sắc nhất thế giới sau đó đã được đúc tượng
đồng đặt tại Viện bảo tàng Lịch sử quân sự Vương quốc Anh.
*************************
1 .Alexandros Đại Đế
(Macedonia)
Alexandros Đại Đế ( Megas Alexandros; tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm
323 TCN), cũng được biết đến như là Alexandros III, là vua của xứ Macedon
(336–323 TCN) và được xem là một trong những nhà chỉ huy quân sự thành công
nhất trong lịch sử, người đã chinh phục gần như toàn bộ thế giới mà ông biết
trước khi chết; ông thường được đứng trong cùng một danh sách với Napoléon
Bonaparte, Julius Caesar và Thành Cát Tư Hãn như là một trong những nhà chiến
lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tiếp sau sự thống nhất các thành bang Hy
Lạp cổ đại dưới sự cai trị của cha ông, Philip II xứ Macedon, (một việc
Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền phía nam Hy Lạp nổi loạn sau khi
Philip chết), Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Anatolia, Syria,
Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của
ông đến xa tận Punjab. Alexandros thực hiện một chính sách hòa hợp: ông đưa cả
những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay người Macedon) vào
chính quyền và quân đội của mình, ông khuyến khích hôn nhân giữa quân của
mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức các chiến dịch quân sự, Alexandros chết, có lẽ
là do sốt rét, thương hàn, hay viêm não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông
mở đầu cho nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng
đất xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân Alexander
sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và
không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi ông chết, những cuộc
chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một truyền thống văn học mà trong
đó ông xuất hiện như là một anh hùng huyền thoại theo truyền thống của Achilles.
**********************************
2 . Julius Ceasar
(La Mã/Roma cổ đại)
Sự nghiệp quân sự rất thành công của Caesar khiến ông đuợc xếp vào ngang hàng
với Alexander Đại đế, Hannibal, Thành Cát Tư Hãn và Napoléon Bonaparte. Mặc
dù ông cũng đã từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong
cuộc chinh phạt xứ Gaul), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng
khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành lũy ở
Alesia trong cuộc chiến xứ Gaul, chiến thắng đội quân đông đảo hơn rất nhiều của
Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân của vua Pharnaces ở Trận Zela.
Caesar chiến thắng dưới bất kỳ địa hình, thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào
tính kỷ luật cao của binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung
thành của binh lính dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tốt nhất (của La
Mã thời đó), và ông sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La Mã như máy
bắn đá, máy bắn tên và nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho lực lượng của ông
trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ luật và di chuyển rất nhanh (một vài tài liệu chép
rằng lực lượng của Caesar có thể di chuyển tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày).
Lực lượng của ông ước có khoảng hơn 40.000 bộ binh và rất nhiều kỵ binh, cùng
với một số đơn vị chuyên dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục
vụ. Caesar kể trong bản hối ký của ông rằng một số làng của người Gaul được xây
dựng trên dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công
những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào qua
các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và ông ngắt nó
đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như ngay lập tức.
****************************
3. Hannibal
(Carthage thuộc Ai Cập cổ đại)
Hannibal, 1 tướng trẻ 25 tuổi trở thành tổng chỉ huy quân Carthage ở TBN. Lúc
đầu, Hannibal cho phép người Saguntum sử dụng các bến cảng rộng lớn để tránh
xung đột với La Mã. Nhưng Saguntum với giúp đỡ của người đồng minh La Mã,
bắt đầu chơi trò chính trị với các thành phố TBN khác. Bỏ qua những đe dọa trực
tiếp từ La Mã, Hannibal tấn công và chiếm giữ Saguntum. La Mã cố gắng thu xếp
vấn đề này bằng con đường ngoại giao. Họ yêu cầu Carthage cách chức Hannibal
và đưa ông này đến Rome. Chiến tranh Punic lần 2 nổ ra năm 218 trước cn khi
Carrthage khước từ yêu cầu này. Nhưng lần này, La Mã phải đối mặt với 1 địch
thủ đáng sợ. Trong thời gian sau cuộc chiến lần 1, Carthage đã tạo ra 1 đội quân
hùng mạnh. Hannibal đã đưa đội quân này đi dọc Châu Âu và tháng 9 năm 218,
ông đưa quân Carthage vượt dãy Alpes bắt đầu cuộc xâm lược Italy. Dù mệt mỏi
vì quãng đường vận động chiến, Hannibal vẫn ngay lập tức đập tan quân La Mã ở
phía bắc Italy. Chiến thắng ngoạn mục này đã khiến nhiều chiến binh du mục
Gaul gia nhập đoàn quân của Hannibal nâng tổng số quân của ông lên trên 50000.
Chiến thắng của Hannibal trước người La Mã được đảm bảo bằng việc thuyết
phục các đồng minh của La Mã và sát nhập nhiều thành phố vào Carthage.
Người La Mã hiểu rằng họ không thể đánh bại Hannibal. Tuyệt vọng, La Mã trao
quyền cho nhà độc tài Quintus Fabius Maximuss. Fabius ra lệnh tránh chiến tranh
trực diện bằng mọi giá, chỉ đánh du kích cho tới khi quân Carthage suy yếu đủ để
tấn công trực diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận Can) năm 216
trước cn, Fabius đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân này ngay lập
tức bị Hannibal tiêu diệt hoàn toàn, đây là thất bại lớn nhất Rome từng trải qua.
Các đồng minh phía Nam Italy của La Mã chạy sang phía Hannibal, toàn bộ
Sicily trở thành đồng minh của Carthage. Thêm vào đó, vua Philip V xứ
Macedon, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy Lạp cũng ngả theo Hannibal và
bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã năm 215 trước cn. Tình hình gần như
tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius không còn dũng khí đối đầu với Hannibal.
Hannibal đưa quân đội vòng quanh Italy mà không còn bất cứ sự chống cự nào.
Tuy nhiên, Hannibal không có đủ lực lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ
ạt các thành phố như Rome. Tất cả những gì ông có thể làm là đi khắp các miền
nông thôn Italy và tàn phá nó.
La Mã quyết định tấn công hậu phương của Hannibal. Biết rằng Hannibal phụ
thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực và vật lực từ TBN, La Mã trao cho Publius
Cornelius Scipio (237-183 trước cn), 1 thiên tài về chiến lược chức Thống đốc
Tây Ban Nha, 1 hành động không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao giờ là
quan chấp chính. Scipio, sau này được gọi bằng cái tên Scipio Africanus vì chiến
thắng của ông trước người Carthage trên đất Châu Phi, đã nhanh chóng chinh
phục toàn bộ TBN. Đến lúc này, Hannibal bị mắc cạn trên đất Italy. Sau đó,
Scipio đưa quân vào Châu Phi và buộc người Carthage phải đề nghị Rome 1 hiệp
ước hòa bình. Một phần của hiệp ước này là Hannibal phải rời khỏi bán đảo Italy.
Hannibal là 1 trong những danh tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Trong
suốt cuộc chiến tranh với La Mã, ông không hề thua 1 trận nào. Dù vậy ông vẫn
buộc phải rút lui. Và dù thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong
cuộc chiến tranh này. Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần
và thêm 1 lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 trước cn, Hannibal và
Scipio giao chiến ở At Zama phía bắc Châu Phi và tại đây Hannibal nếm chiến bại
đầu tiên. Carthage bị đưa xuống thành 1 bang độc lập. La Mã lúc này kiểm soát
toàn bộ miền tây Địa Trung Hải bao gồm cả khu vực Bắc Phi.
Cuộc chiến này mang đến cho La Mã những kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối
mặt với những thất bại hiển nhiên trước một địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã
chiến thắng những kẻ thù vượt trội này. Tính cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc
chiến tuyệt vọng này đã xuyên suốt phần còn lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh
Punic lần 2 đưa La Mã từ 1 quyền lực có tính khu vực trở thành 1 đế chế trên toàn
thế giới. Với việc Philip V của Macedon bắt tay với Hannibal tiến hành chiến
tranh chống lại Rome, La Mã chuyển hướng chiến tranh về phía đông trước tiên
xâm chiếm Macedon và sau đó là các vương quốc Hi Lạp khác. Kết quả cuối cùng
của chiến tranh Punic lần 2 là sự thống trị thế giới của La Mã.
***************************
4 . Thành Cát Tư Hãn
(Mông Cổ)
Ðoàn quân Mông Cổ
Thời Trung cổ, nước Mông Cổ, xét về dân số, chỉ là một nước nhỏ, nhưng họ đã
làm rung chuyển thế giới
thời đó vì họ có những thủ lãnh xuất chúng với một đạo kị binh thiện chiến giỏi
cỡi ngựa, giỏi cung tên và vô cùng tàn ác, " nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cây cỏ
cũng hết sống ".
Thành Cát Tư hãn
Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự xuất hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin
1162-1227), sau này lấy danh hiệu là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa
nắm được quyền hành, Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh, theo đuổi mộng
bá chủ:
- 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau nàỵ
- 1211-1215: chinh phục nước Kim (Chin), vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm
thủ đô Bắc Kinh của người Kim. Sau
này, nước Kim sát nhập vào nước Tầụ
- 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đó là Khwarezmian empire của
Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư,
Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan.
- 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư Hãn quân Mông tiến sang Âu châu, chiếm
toàn vùng Caucasus, vượt sông Don, tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ
sông Dnieper. Ông hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mông, nhưng
đã bị Subotai và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng Chepe bị
bệnh chết, Subotai triệt thoái trên con đường dài 4000 dặm để bắt tay với đoàn
quân trung ương.
- 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogedei làm người nối nghiệp, rồi
chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng
phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên kết với
nhau chống lại quân Mông Cổ.
- 1227: Thành Cát Tư Hãn chết. Ogedei đại hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con
là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha.
- 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea).
- 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan đánh chiếm Tây Tạng.
- 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc
khắp vùng phía Bắc nước Nga .
- 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.
- Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước
Hung.
- Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và dòng tu Hiệp sĩ Ðức
(Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên
minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ông.
- Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào nước Ý, vượt qua thành Venice và Treviso,
đồng thời ngược lên sông Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei chết.
Theo luật, các anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mông Cổ để bầu chọn vị
đại hãn mớị. Nhờ thế mà Âu châu thoát được họa diệt vong. Vậy mà trên đường
triệt thoái, quân Mông Cổ còn đủ thì giờ để làm cỏ hai nước Bulgaria và Serbia.
- Năm 1246, con của Ogatai là Kuyuk được chọn làm đại hãn. Dưới thời ông, Ðức
giáo chủ Innocent IV gửi đặc phái viên là thầy John di Piano Carpini, dòng
Phanxicô, tới các thủ lãnh Mông Cổ để tìm hiểu ý đồ của họ ở Âu
châu. Mới nắm quyền được ít lâu, còn đang lưỡng lự nên trở lại chinh phục Âu
châu trước hay tiến xuống phía Nam để chiếm trọn nước Trung hoa trước, thì
Kuyukchết vào năm 1248. Mangu, tức Mông Kha đại hãn và em là Kublai, tức
Hôt Tât Liệt đại hãn
- 1251: Một người cháu nội khác của Thành Cát Tư Hãn là Mangu (còn viết là
Mengke, ta gọi là Mông Kha) lên ngôi đại hãn. Mông Kha quyết định thôn tính Á
châu, đặc biệt là nước Trung Hoa trước. Nước Trung Hoa thời đó chia làm Bắc
Tống và Nam Tống. Mông Kha nắm quyền thống soái nhưng lại giao trọng trách
cho người em kiệt xuất đó là Hốt Tất Liệt (Kublai).
- Mông Kha sai một người em khác là Hulagu trở lại thôn tính Ba Tư bao trùm
khắp miền Ðông Nam Á châụ Ðồng thời khuyến khích người em họ là Batu
khống chế khắp vùng Ðông Âu, toả lên Ba lan, Lithuania và Esthonia, rồi xuống
Serbia và Bulgaria một lần nữa.
- 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân Nam, từ đó phái một đạo quân mở
cuộc xâm lăng bờ cõi nước ta lần
thứ nhất vào năm 1257.
- 1259: Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt (Kublai) lên ngôi đại hãn vào năm 1260.
Lúc ấy đế quốc Mông Cổ trải rộng từ toàn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu Á, từ
vùng thủ đô Moscow của nước Nga xuống biển Ðen, xuống Baghdad (Iraq) và
Iran ngày naỵ
- Nhận được tin Mông Kha chết, người em là Mangu đang chiếm đóng vùng
Mesopotamia và Syria phải về Mông Cổ để bầu đại hãn mới. Trong khi ông vắng
mặt thì, năm 1260, đạo quân của ông đã bị tướng Baibars (thuộc triều đại
Mameluk cai trị Ai Cập và Syria) đánh bại trong trận Aint Jalut, gần thành
Nazareth. Chiến công của Baibars có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chứng minh
đoàn quân bách chiến bách thắng Mông cổ suốt 70 năm không phải là không thể
đánh bại,dấu hiệu suy thoái đã biểu hiện và toàn Âu châu sẽ thoát nạn Mông Cổ.
- 1268-1279: Hốt Tất Liệt không nuôi ý chí chinh phục thế giới như các đại hãn
tiền nhiệm, ông dốc hết khả
năng để chinh phục toàn cõi Trung Hoa trong một chiến dịch dài ngót mười năm.
Năm 1263, ông rời kinh đô từ
Karakorum về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh
Quảng Ðông, Hốt Tất Liệt đã đánh bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà Tống là
Lục Tú Phu phải cõng vua nhảy xuống biển để cùng tử tiết, từ đó Hốt Tất Liệt cai
trị toàn cõi Trung Hoa, xưng là hoàng đế, lập ra nhà Nguyên (Yuan Dynasty). Từ
đây ta gọi họ là quân Nguyên Mông.
-Dòm ngó Nhật Bản:
Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân. Nguyên Mông sang đánh nước Nhật.
Nhưng " nhờ Trời ", cả hai lần chiến thuyền của quân Nguyên Mông đều bị bão
táp đánh chìm vô số, phải quay về.
- 1292-1293: Với tay xuống mãi đảo Java (Nam Dương), nhưng không ở lại được.
- Ðặc biệt nhất là ba lần quân Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi Việt Nam vào các
năm 1257,1284 và 1287. Cả ba lần xâm lăng đều chuốc lấy thảm bại.
**************************
5 . Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
(Việt Nam)
Trần Quốc Tuấn (1228-1300) là một danh nhân quân sự cổ kim của thế giới.
Ngay từ nhỏ, Trần Liễu đã kén những thầy giỏi dạy cho Quốc Tuấn, ký thác cho
con hội đủ tài võ, mong trả mối thù sâu nặng năm nào.
Lớn lên Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh, xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn
lẫn võ. Trong đời mình Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, ba lần nạn nước.
Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùnh cứu nước. Ông luôn
đặt lợi nước lên trên thù nhà, vun trồng cho khối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần,
tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn trượng đủ sức đè bẹp quân thù. Trong lần quân
Nguyên sang xâm lược lần thứ ha, thấy rõ ngành trưởng, ngành thứ xung khắc,
giữa ông và Trần Quang Khải không chung sức chung lòng thì kẻ thù có lợi chỉ có
thể là quân giặc. Bởi vậy, Quốc Tuấn đã chủ động giao hảo hòa hiếu với Trần
Quang Khải, tạo nên sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo
đánh thắng quân Nguyên hùng mạnh.
Chuyện kể rằng, một lần ở biển Đông, Quốc Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải
sang thuyền mình trò chuyện chơi cờ và sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa