Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận môn quá trình sản xuất và lưu thông tư bản chủ nghĩa quan điểm của c mác về quan hệ sản xuất và quan hệ phân phối ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.01 KB, 24 trang )

Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Q trình phát triển của lịch sử đã chỉ ra rằng: phát triển sản xuất là cách thức
duy nhất để tạo nên sự phồn thịnh bền vững của mỗi quốc gia, trong đó q trình
tái sản xuất được xem là trung tâm của mọi hoạt động. Quá trình tái sản xuất xã hội
theo nghĩa rộng bao gồm bốn khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các
khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó sản xuất đóng vai trị quyết định,
các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất và cũng có tác động ngược trở lại với quá
trình sản xuất, đồng thời cũng có tác động qua lại với nhau. Trong guồng máy đó
phân phối là một khâu khơng thể thiếu được, nó nối liền sản xuất với tiêu dùng,
phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Hơn thế nữa, quan hệ phân phối
còn là một mặt của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ lợi ích của mỗi
thành viên và lợi ích của tồn xã hội. Sản xuất tạo ra những vật phẩm thích hợp với
nhu cầu, phân phối chia các sản phẩm đó theo những quy luật xã hội, nối tiếp đó là
quá trình trao đổi, phân phối các sản phẩm đã được phân phối theo những nhu cầu
cá biệt. Quá trình được kết thúc khi sản phẩm được tiêu dùng và lúc đó sản phẩm
thốt ra khỏi sự vận động mang tính kế thừa, trực tiếp trở thành đối tượng phục vụ
cho nhu cầu cá biệt và thoả mãn nhu cầu đó trong quá trình tiêu dùng.
Đối với Việt Nam, khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương,
1


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ



lợi nhuận, lợi tức... đã nảy sinh, địi hỏi phải có những cải cách thường xuyên, liên
tục để phù hợp với những nguyên lý kinh tế kinh tế thị trường cũng như những đòi
hỏi cấp thiết của xã hội đang đặt ra. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của nước ta khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Vì vậy việc nghiên cứu các quan điểm của
C.Mác về quan hệ sản xuất và quan hệ phân phối để vận dụng vào Việt Nam là hết
sức cấp thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Trong phạm vi môn học Quá trình sản xuất và lưu thơng tư bản chủ nghĩa,
học viên thực hiện tiểu luận với chủ đề: “Quan điểm của C.Mác về quan hệ sản
xuất và quan hệ phân phối. Ý nghĩa”. Quan điểm về quan hệ sản xuất và quan hệ
phân phối được Mác đề cập ở Chương LI, Phần thứ bảy, trong Quyển III (Tập 25)
của Bộ “Tư bản”.

2


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT, QUAN HỆ
PHÂN PHỐI
1. Quan hệ sản xuất
Đối với chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì “quan hệ sản xuất” là một trong những
khái niệm cơ bản, góp phần phản ánh cấu trúc và logic vận động của các hình thái
kinh tế - xã hội. Lênin cho rằng: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những
quan hệ sản xuất và đem những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực

lượng sản xuất thì ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”1.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất). Trong quá trình sản xuất nảy sinh nhiều mối quan hệ,
nhưng ở đây ta chỉ xét ba mối quan hệ cơ bản mà C.Mác coi đó là ba mặt của quan
hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt cơ bản sau đây:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: Nói lên rằng trong quá trình sản
xuất, người lao động đang sử dụng những tư liệu sản xuất đó của ai, và ai là người
có quyền định đoạt tư liệu sản xuất đó. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất đóng vai trị quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ
sản xuất.
- Quan hệ trong tổ chức quản lý và phân công lao động: Nói lên địa vị và vai
trị của các tập đồn khác nhau, nói lên sự trao đổi giữa các tập đoàn xã hội với
nhau. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, nhưng trong thực
tế quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân cơng lao động cũng có vai trị rất quan
trọng. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu có một phương
thức quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn có bước phát triển.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Là cách thức phân phối kết quả sản
xuất cho những quan hệ với quá trình đó, điều đó phụ thuộc vào quan hệ của họ đối
với tư liệu sản xuất, nhưng nếu phân phối cơng bằng sẽ thúc đấy q trình sản xuất
phát triển.
1

V.I.Lênin- Toàn tập, tập 4. Nxb tiến bộ Mát- xcơ va, 1974
3


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ


Ba mặt nói trên quan hệ hữu cơ với nhau, khơng tách rời nhau. Trong đó quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ
khác. Bản chất bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề tư liệu
sản xuất chủ yếu trong xã hội giải quyết như thế nào.
Quan hệ sản xuất có vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội. Khi quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo thành quy luật thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất phù hợp đã thúc đẩy xã hội loài người lần lượt phát triển qua năm
hình thái kinh tế - xã hội: Công xã nguyên thủy (Cộng sản nguyên thủy), Chiếm
hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa.
2. Quan hệ phân phối
Phân phối là phạm trù kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội trong
việc phân chia các nguồn lực, của cải xã hội. Phân phối là một mặt cơ bản của quan
hệ sản xuất (sở hữu - tổ chức quản lý - phân phối), đồng thời là một khâu quan
trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu
dùng). Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ phân phối cần được xem xét dưới
nhiều phương diện, gồm sự đa dạng của chủ thể phân phối, sự phong phú của khách
thể phân phối và phương thức phân phối.
Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ăngghen cho rằng:


Sự phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần t kinh tế chi phối, thì nó

sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi trên hết
trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển,
duy trì và thực hiện những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất”2.
Ta thấy rằng mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm cả một hệ thống
phức tạp các lợi ích mà trong đó lợi ích kinh tế đóng vai trị quyết định. Các lợi ích
kinh tế được quy định bởi quan hệ sản xuất cua mỗi chế độ xã hội, trong đó quan hệ

sở hữu với tư liệu sản xuất có vai trị chi phối hệ thống lợi ích kinh tế.
Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thực hiện thông qua quan
hệ phân phối. Khi phương thức sản xuất cịn phù hợp (lợi ích của giai cấp thống trị
2

Ph.Ăngghen: Chống Đuy – rich, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1960
4


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

cịn phù hợp với lợi ích của xã hội) thì người ta cịn bằng lịng với sự phân phối của
xã hội. Nhưng khi nó thối trào thì khơng cịn điều kiện để tồn tại phân phối bởi
phân phối khi đó đã khơng cịn là cơng cụ đảm bảo cho sự công bằng xã hội, bất
công ngày càng sâu sắc dẫn đến đấu tranh xã hội và cuối cùng là một phương thức
sản xuất mới ra đời. Như vây quan hệ phân phối mang tính lịch sử và thước đo mức
độ tiến bộ của một hình thái xã hội. Nó chỉ có thể thay đổi khi quan hệ sản xuất đẻ
ra quan hệ phân phối đó mất đi - đó là thơng qua cách mạng xã hội. Bởi trong mỗi
hình thái kinh tế thì quan hệ phân phối giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế và đến khi nào nó khơng thể giải quyết được nữa thì tất yếu sẽ bị thay thế bằng
hình thức phân phối khác cho phù hợp.
II. QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ
PHÂN PHỐI
Khoa kinh tế chính trị tư sản coi các quan hệ phân phối là những quan hệ tự
nhiên, vĩnh viễn, bắt nguồn từ các quy luật bất di bất dịch của sản xuất. Nếu khoa
kinh tế chính trị tư sản thừa nhận sự phát triển của các quan hệ phân phối, thì bao
giờ nó cũng coi các quan hệ sản xuất là những quan hệ vĩnh viễn và bất di bất dịch.
C.Mác đưa ra quan điểm cho rằng, tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ

sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Mác viết: “Như vậy, giá trị mới do lao động
mới hàng năm thêm vào – do đó, cả bộ phận sản phẩm hàng năm biểu hiện giá trị
ấy, có thể rút ra và tách khỏi tổng sản phẩm - được phân giải thành ba bộ phận
mang ba hình thái thu nhập khác nhau, những hình thái ấy chỉ ra rằng một bộ
phận của giá trị ấy là thuộc về hay rơi vào tay người sở hữu sức lao động, một bộ
phận khác – về kẻ sở hữu tư bản, một bộ phận thứ ba – về kẻ sở hữu ruộng đất.
Cho nên, đó là những quan hệ hay những hình thức phân phối, vì chúng biểu hiện
các tỷ lệ theo đó tổng giá trị mới sáng tạo ra được phân phối giữa những người sở
hữu những nhân tố sản xuất khác nhau”3.
Khi ta xét nó trong mối quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ
sản xuất quyết định. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế
3

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 25, trang 632
5


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

đó và trong xã hội ln tồn tại mối quan hệ qua lại giữa sản xuất và sản phẩm. Bản
thân của phân phối là sản phẩm của nền sản xuất. Cơ cấu của phân phối hoàn toàn
do cơ cấu của sản xuất quyết định.
Mác chỉ ra rằng: “các quan hệ sản xuất tương ứng với phương thức sản xuất
đặc thù nhất định trong lịch sử; các quan hệ phân phối, về thực chất cũng đồng
nhất với các quan hệ sản xuất, là mặt sau của quan hệ sản xuất, thành thử cả hai
đều cùng chung một tính chất lịch sử nhất thời ấy”4.
Sự phân tích khoa học về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chứng minh
rằng đó là một phương thức sản xuất loại đặc thù, có tính xác định lịch sử đặc biệt;

rằng cũng như mỗi một phương thức sản xuất nhất định khác, nó giả định một trình
độ nhất định của các lực lượng sản xuất xã hội và những hình thái phát triển của
chúng, coi đó là điều kiện lịch sử của nó; bản thân điều kiện ấy là kết quả lịch sử và
là sản phẩm của một q trình trước đó và phương thức sản xuất mới xuất phát từ
quá trình này như từ cái cơ sở nhất định của nó; rằng các quan hệ sản xuất tương
ứng với phương thức sản xuất đặc thù lịch sử nhất định ấy, - các quan hệ trong đó
con người bị đặt vào, trong q trình đời sống xã hội của họ, trong việc sản xuất ra
đời sống xã hội của họ, - cũng mang một tính chất đặc thù, lịch sử và nhất thời;
cuối cùng, sự phân tích ấy chỉ ra rằng các quan hệ phân phối về thực chất cũng
đồng nhất với các quan hệ sản xuất ấy, rằng chúng cấu thành mặt sau của các quan
hệ sản xuất ấy, thành thử cả hai đều cùng có chung một tính chất lịch sử nhất thời
ấy
Nếu ta chỉ hiểu rằng phân phối được biểu hiện là phân phối sản phẩm tiêu
dùng cho cá nhân và các thành viên trong xã hội thì dường như phân phối đã cách
xa với sản xuất và tựa như là độc lập với sản xuất. Nhưng trước khi phân phối là
phân phối sản phẩm thì nó đã xuất hiện ngay trong q trình sản xuất ( đó là phân
phối các nguồn lực đầu vào, các yếu tố của sản xuất) và đặc biệt nó cịn tham gia
trực tiếp trong việc phân phối các thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác
nhau. Như vậy phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối trước đó,
4

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 25, trang 633-634
6


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và quyết định trong

cơ cấu sản xuất.
Xem xét sản xuất độc lập với phân phối đó thì rõ ràng là mơ hồ bởi thực chất
phân phối đã nằm ngay trong q trình sản xuất, cịn phân phối sản phẩm được coi
là bề nổi và là biểu hiện quan trọng nhất của phân phối. Và điều quan trọng, chúng
ta phải thấy được nó khơng hồn tồn tách rời với sản xuất.
“Trong khi xem xét các quan hệ phân phối, người ta xuất phát trước hết từ
việc một sự kiện khơng có thật là sản phẩm hàng năm được phân chia thành tiền
công, lợi nhuận và địa tơ”5. Nhưng sự kiện sẽ khơng đúng nếu được trình bày theo
cách đó. Sản phẩm được phân chia, một mặt, thành tư bản và mặt khác, thành thu
nhập. Một trong những thu nhập này – tiền công – bao giờ cũng chỉ mang hình thái
thu nhập, tức là thu nhập của cơng nhân, sau khi đã đối lập với chính người cơng
nhân ấy dưới hình thái tư bản. Các điều kiện lao động đã được sáng tạo ra và các
sản phẩm của lao động nói chung đều đối lập với những người sản xuất trực tiếp
với tư cách là tư bản, điều đó ngay từ đầu đã bao hàm một tính chất xã hội nhất
định của các điều kiện vật chất của lao động đối với cơng nhân, do đó, đã bao hàm
một mối quan hệ nhất định giữa những công nhân này với những kẻ sở hữu các
điều kiện lao động ấy và với các công nhân khác ngay trong sản xuất. Đến lượt nó,
sự chuyển hóa các điều kiện lao động thành tư bản lại bao hàm việc tước đoạt
ruộng đất của những người sản xuất trực tiếp, và do đó, bao hàm một hình thái nhất
định của quyền sở hữu ruộng đất.
Nếu một bộ phận của sản phẩm khơng chuyển hóa thành tư bản, thì bộ phận
kia sẽ khơng mang hình thái tiền cơng, lợi nhuận và địa tô. Mặt khác, nếu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa giả định phải có cái hình thái xã hội nhất định ấy
của các điều kiện sản xuất, thì nó cũng khơng ngừng tái sản xuất ra hình thái ấy.
Khơng những nó sản xuất ra sản phẩm vật chất, mà nó cịn khơng ngừng tái sản
xuất ra các quan hệ sản xuất trong đó các sản phẩm này được sản xuất ra; do đó, nó
cũng tái sản xuất ra các quan hệ phân phối tương ứng.
5

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 25, trang 634

7


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

Cố nhiên, người ta có thể nói rằng bản thân tư bản (kể cả quyền sở hữu ruộng
đất là cái đối lập với nó) cũng đã giả định một sự phân phối rồi; công nhân bị tước
đoạt mất điều kiện lao động, những điều kiện lao động ấy bị tập trung vào tay một
số ít cá nhân, cịn những cá nhân khác thì có quyền độc chiếm ruộng đất; tóm lại,
đó là những quan hệ đã được nghiên cứu trong chương nói về tích lũy ban đầu (“Tư
bản”, quyển I, chương XXIV). Nhưng sự phân phối này hoàn toàn khác với cái mà
chúng ta hiểu qua danh từ quan hệ phân phối, khi người ta gán cho những quan hệ
phân phối này một tính chất lịch sử, đối lập với các quan hệ sản xuất. Chúng ta hiểu
đó là những tư cách khác nhau của các cá nhân để được hưởng một phần sản phẩm
thuộc về tiêu dùng cá nhân. Trái lại, các quan hệ phân phối ấy là cơ sở của những
chức năng xã hội đặc thù, những chức năng này – trong khuôn khổ của bản thân
quan hệ sản xuất – rơi vào tay một số người đảm nhiệm sản xuất nhất định, đối lập
với những người sản xuất trực tiếp. Những chức năng ấy đem lại cho các điều kiện
sản xuất và những đại biểu của chúng một phẩm cách xã hội đặc thù. Chúng quyết
định tồn bộ tính chất và sự vận động của sản xuất.
Có hai nét đặc trưng làm cho người ta phân biệt ngay từ đầu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa:
Thứ nhất, nó sản xuất ra sản phẩm của nó với tư cách là hàng hóa. Điều phân
biệt nó với các phương thức sản xuất khác, không phải là việc sản xuất ra hàng hóa;
cái phân biệt nó với các phương thức sản xuất khác là: đối với các sản phẩm của nó
sự tồn tại của chúng với tư cách hàng hóa là nét có tính chất chi phối và quyết định.
Điều đó trước hết bao hàm việc bản thân người công nhân chỉ xuất hiện với tư cách
là kẻ bán hàng hóa, tức với tư cách là cơng nhân làm thuê tự do, và do đó, lao động

biểu hiện thành lao động làm thuê nói chung. Căn cứ vào sự trình bày từ trước cho
đến nay về vấn đề này, thì khơng cần phải chứng minh một lần nữa xem mối quan
hệ giữa tư bản và lao động làm th quyết định tồn bộ tính chất của phương thức
sản xuất ấy là như thế nào. Những người đảm nhiệm chủ yếu của bản thân phương
thức sản xuất ấy, tức là nhà tư bản với công nhân làm thuê, tự bản thân họ, chẳng
8


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

qua chỉ là sự thể hiện, sự nhân cách hóa của tư bản và lao động làm thuê; đó là
những tính chất xã hội nhất định mà q trình sản xuất xã hội đã đem lại cho các cá
nhân; họ là sản phẩm của các quan hệ sản xuất xã hội nhất định ấy.
Tính chất 1) của sản phẩm với tư cách là hàng hóa, và 2) của hàng hóa với tư
cách là sản phẩm của tư bản, cũng đã bao gồm tồn bộ các quan hệ lưu thơng,
nghĩa là một quá trình xã hội nhất định mà sản phẩm phải trải qua và trong suốt q
trình đó, sản phẩm ấy mang những tính chất xã hội nhất định; tính chất nói trên
cũng bao gồm những quan hệ cụ thể nhất định giữa những người đảm nhiệm sản
xuất, những quan hệ này quyết định việc làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm của họ
và việc lại chuyển hóa sản phẩm ấy thành tư liệu sinh hoạt, hoặc thành tư liệu sản
xuất. Nhưng ngay cả khi không kể đến điều đó, thì tồn bộ sự quy định của giá trị
và việc giá trị điều tiết toàn bộ nền sản xuất đều phát sinh từ hai tính chất đặc trưng
đã nói trên đây, tức là tính chất của sản phẩm với tư cách là hàng hóa hay tính chất
của hàng hóa với tư cách là hàng hóa được sản xuất ra theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Trong hình thái hồn toàn đặc biệt này của giá trị, một mặt, lao động chỉ có giá trị
với tư cách là lao động xã hội; mặt khác, việc phân phối lao động xã hội đó, sự bổ
sung lẫn nhau của các sản phẩm lao động, sự trao đổi chất giữa các sản phẩm của
lao động đó, sự phụ thuộc của lao động ấy vào bộ máy xã hội, sự gắn chặt nó vào

trong bộ máy ấy, - tất cả những việc đó đều phó mặc cho những nguyện vọng ngẫu
nhiên và triệt tiêu lẫn nhau của các nhà sản xuất tư bản chủ nghĩa cá biệt. Bởi vì
những nhà sản xuất tư bản chủ nghĩa này chỉ đối diện với nhau với tư cách là
những người sản xuất hàng hóa, mỗi người trong bọn họ đều tìm cách bán hàng hóa
của mình càng đắt càng hay (và bản thân việc sản xuất cũng hình như chỉ do sự tùy
tiện của họ điều tiết), cho nên quy luật nội tại chỉ biểu hiện ra thông qua việc cạnh
tranh giữa họ với nhau và qua áp lực của họ đối với nhau, nhờ đó mà những sự
chênh lệch sẽ triệt tiêu lẫn nhau. Ở đây, quy luật giá trị chỉ tác động như một quy
luật nội tại, đối lập với những người đảm nhiệm sản xuất như là một quy luật tự
9


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

nhiên mù qng; nó mở đường cho sự thăng bằng xã hội của nền sản xuất giữa
những biến động ngẫu nhiên của nền sản xuất ấy.
Hơn nữa, trong hàng hóa, và hơn nữa trong hàng hóa với tư cách là sản phẩm
của tư bản, đã bao hàm sự vật hóa những tính quy định xã hội của sản xuất và sự
chủ thể hóa các cơ sở vật chất của sản xuất, tức là những cái nói lên nét đặc trưng
của toàn bộ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, điều khác nhau có tính chất đặc thù của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, là: sản xuất ra giá trị thặng dư với tư cách là mục đích trực tiếp và động
cơ quyết định việc sản xuất. Tư bản chủ yếu lại sản xuất ra tư bản: nhưng nó chỉ
làm được như thế trong chừng mực nó sản xuất ra giá trị thặng dư. Trong khi
nghiên cứu về giá trị thặng dư tương đối, và sau đó, sự chuyển hóa giá trị thặng dư
thành lợi nhuận, chúng ta đã thấy rằng phương thức sản xuất đặc trưng của thời kỳ
tư bản chủ nghĩa đã được xây dựng trên cơ sở đó như thế nào, phương thức đó là
hình thái đặc thù của sự phát triển những lực lượng sản xuất xã hội của lao động,

nhưng đối với cơng nhân thì những lực lượng ấy lại mang hình thái những lực
lượng độc lập của tư bản, và vì vậy nên đối lập trực tiếp với sự phát triển của bản
thân người cơng nhân. Sản xuất vì giá trị và giá trị thặng dư, như chúng ta đã thấy
trong sự trình bày tiếp đó, bao hàm khuynh hướng không ngừng rút ngắn thời gian
lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, nghĩa là để giảm giá trị của nó xuống
dưới mức trung bình xã hội hiện có ở từng lúc nhất định. Khuynh hướng rút chi phí
sản xuất đến mức tối thiểu của nó đã trở thành đòn bẩy hết sức mạnh mẽ để tăng
sức sản xuất xã hội của lao động; nhưng sự tăng lên ấy lại chỉ biểu hiện ra ở đây
thành sự tăng lên không ngừng của sức sản xuất của tư bản.
Quyền lực mà nhà tư bản có được trong q trình sản xuất trực tiếp với tư
cách là tư bản nhân cách hóa, chức năng xã hội mà hắn đảm nhiệm với tư cách là
người chỉ đạo và người chủ của sản xuất, về bản chất khác với quyền lực dựa trên
nền sản xuất do nô lệ, nông nô, v.v. tiến hành.
Trong khi trên cơ sở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tính chất xã hội của sản
xuất đối lập với đông đảo những người sản xuất trực tiếp dưới hình thái một quyền
10


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

lực điều tiết nghiêm ngặt và một bộ máy xã hội của quá trình lao động được tổ
chức theo một chế độ đẳng cấp hoàn chỉnh, – song những kẻ nắm quyền lực ấy chỉ
sử dụng nó với tư cách là sự nhân cách hóa các điều kiện lao động đối lập với bản
thân lao động, chứ không phải với tư cách là những lãnh chúa chính trị hoặc những
lãnh chúa thần quyền như trong các hình thái sản xuất trước kia, – giữa chính ngay
những kẻ nắm quyền lực ấy, tức là giữa bản thân các nhà tư bản là những người chỉ
đối diện với nhau với tư cách là những kẻ sở hữu hàng hóa, lại ngự trị một tình
trạng hồn tồn vơ chính phủ, trong đó mối quan hệ xã hội của nền sản xuất chỉ bộc

lộ ra dưới hình thái một quy luật tự nhiên có sức mạnh áp đảo đối lập với ý chí của
cá nhân.
Nếu một bộ phận của giá trị (sản phẩm) biểu hiện thành giá trị thặng dư, còn
giá trị thặng dư ấy biểu hiện thành lợi nhuận (địa tô), thành thu nhập của nhà tư
bản, thành của cải phụ thêm do hắn chi phối và thuộc về tay hắn, thì đó chỉ là vì
người ta đã giả định trước lao động dưới hình thái lao động làm thuê và các tư liệu
sản xuất dưới hình thái tư bản; do đó, chỉ là vì cái tính chất xã hội đặc thù ấy của
hai nhân tố cơ bản đó của sản xuất. Chỉ vì một bộ phận giá trị biểu hiện thành lợi
nhuận của hắn, nên các tư liệu sản xuất phụ thêm nhằm mở rộng tái sản xuất và cấu
thành một bộ phận lợi nhuận của nhà tư bản mới biểu hiện thành tư bản mới phụ
thêm, và việc mở rộng q trình tái sản xuất nói chung mới biểu hiện thành q
trình tích lũy tư bản chủ nghĩa.
Mặc dù hình thái của lao động với tư cách là lao động làm th có tác dụng
quyết định đối với hình thái của tồn bộ q trình và đối với phương thức đặc thù
của bản thân nền sản xuất, nhưng giá trị lại không phải do lao động làm thuê quyết
định. Trong việc quy định giá trị, thì vấn đề là thời gian lao động xã hội nói chung,
là lượng lao động mà nói chung xã hội có thể sử dụng được, và cái phần mà các sản
phẩm khác nhau thu hút lượng lao động đó sẽ quyết định một cách tương ứng tỷ
trọng xã hội của mỗi sản phẩm ấy. Đương nhiên, cái hình thái nhất định trong đó
thời gian lao động xã hội thể hiện ra trong giá trị của hàng hóa với tư cách là nhân
11


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

tố quyết định giá trị của hàng hóa, chỉ gắn liền với hình thái của lao động với tư
cách là lao động làm thuê và với hình thái tương ứng của các tư liệu sản xuất với tư
cách là tư bản, trong chừng mực mà trên cơ sở ấy nền sản xuất hàng hóa đã trở

thành hình thái phổ biến của sản xuất.
Nhưng chúng ta hãy xem bản thân cái mà người ta gọi là quan hệ phân phối.
Tiền công giả định lao động làm thuê, lợi nhuận giả định tư bản. Do đó, những hình
thái phân phối nhất định ấy giả định tính chất xã hội nhất định của các điều kiện
sản xuất và giả định những quan hệ xã hội nhất định giữa những người đảm nhiệm
sản xuất. Vậy, quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một quan hệ sản
xuất lịch sử nhất định.
Xét về lợi nhuận: Hình thái nhất định này của giá trị thặng dư giả định rằng sự
sáng tạo ra các tư liệu sản xuất mới được tiến hành dưới hình thái sản xuất tư bản
chủ nghĩa, do đó, đây là một quan hệ chi phối việc tái sản xuất, mặc dù nhà tư bản
cá biệt tưởng tượng rằng hắn có thể tiêu xài tồn bộ lợi nhuận của hắn với tư cách
là thu nhập. Thế nhưng trong việc này hắn vấp phải những giới hạn đặt ra trước mặt
hắn dưới hình thái quỹ bảo hiểm và quỹ dự trữ, quy luật cạnh tranh, v.v, những giới
hạn này trong thực tiễn đã chứng minh cho hắn thấy rằng lợi nhuận không phải đơn
thuần là một phạm trù phân phối sản phẩm dành cho tiêu dùng cá nhân. Hơn nữa,
toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là do giá cả sản phẩm điều tiết. Nhưng
giá cả sản xuất có tác dụng điều tiết lại được điều tiết bởi việc san bằng các tỷ suất
lợi nhuận và việc phân phối tư bản một cách tương ứng vào các ngành sản xuất xã
hội khác nhau. Như vậy, lợi nhuận không biểu hiện ra ở đây thành một nhân tố chủ
yếu của việc phân phối sản phẩm, mà lại biểu hiện thành một nhân tố chủ yếu của
bản thân việc sản xuất sản phẩm, thành một nhân tố phân phối tư bản và lao động
cho các ngành sản xuất khác nhau. Việc phân chia lợi nhuận thành lợi nhuận doanh
nghiệp và lợi tức biểu hiện ra là việc phân phối cùng một khoản thu nhập. Nhưng
trước hết sự phân chia đó phát sinh từ sự phát triển của tư bản với tư cách là giá trị
tự tăng lên, sáng tạo ra giá trị thặng dư, từ hình thái xã hội nhất định đó của
12


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN


Văn Cơng Vũ

qtrình sản xuất có tác dụng chi phối. Nó đẻ ra tín dụng và các cơ quan tín dụng,
do đó, nó đẻ ra hình thái tương ứng của sản xuất. Trong lợi tức, v.v., những cái gọi
là hình thái phân phối gia nhập vào giá cả với tư cách là yếu tố sản xuất có tính chất
quyết định.
Đối với địa tơ: người ta có thể tưởng rằng nó chỉ là một hình thái phân phối
đơn thuần, vì quyền sở hữu ruộng đất, tự bản thân nó, khơng đảm nhiệm một chức
năng nào, hay ít nhất là khơng đảm nhiệm một chức năng bình thường nào, trong
bản thân quá trình sản xuất. Nhưng sự việc: 1) địa tô giới hạn trong cái phần trội ra
ngồi lợi nhuận trung bình, và 2) địa chủ bị truất mất vai trò của hắn là người lãnh
đạo và chi phối quá trình sản xuất và do đó, tồn bộ q trình sinh hoạt xã hội, để
chỉ còn là một kẻ đơn thuần cho thuê đất, một kẻ cho vay nặng lãi về ruộng đất và
một kẻ thu tơ đơn thuần, - sự việc đó là một kết quả lịch sử đặc thù của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ruộng đất mang hình thái quyền sở hữu ruộng đất
là một tiền đề lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc quyền sở
hữu mang những hình thái cho phép nơng nghiệp có thể kinh doanh theo phương
thức tư bản chủ nghĩa là sản phẩm của tính chất đặc trưng của phương thức sản
xuất đó. Trong những hình thái xã hội khác, người ta cũng có thể gọi thu nhập của
địa chủ là địa tô. Nhưng địa tô này khác về căn bản với địa tô trong phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cho nên, cái gọi là những quan hệ phân phối phù hợp với những hình thái xã
hội đặc thù nhất định trong lịch sử, của quá trình sản xuất, và với các quan hệ được
xác lập giữa người với người trong quá trình tái sản xuất ra đời sống của con người,
và chúng phát sinh từ những hình thái và những quan hệ ấy. Tính chất lịch sử của
các quan hệ phân phối ấy là tính chất lịch sử của các quan hệ sản xuất mà các quan
hệ phân phối chỉ biểu hiện có một mặt thơi. Sự phân phối tư bản chủ nghĩa khác với
các hình thái phân phối phát sinh từ các phương thức sản xuất khác, và mỗi hình
thái phân phối đều biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương
ứng với hình thái phân phối ấy và đã đẻ ra hình thái phân phối ấy.

13


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

“Quan điểm cho rằng chỉ riêng các quan hệ phân phối mới có tính chất lịch
sử, cịn các quan hệ sản xuất thì hồn tồn khơng có, - quan điểm ấy, một mặt, chỉ
là quan điểm của sự phê phán mới phơi thai, cịn rụt rè đối với khoa kinh tế chính
trị tư sản. Nhưng mặt khác, nó lại dựa trên một sự lẫn lộn và đồng nhất hóa quá
trình sản xuất xã hội với quá trình lao động đơn thuần, chẳng hạn như quá trình
lao động mà ngay một người bị đặt vào một hồn cảnh cơ lập giả tạo, không nhận
được một sự giúp đỡ nào của xã hội, sẽ phải tiến hành. Trong chừng mực quá trình
lao động chỉ là một quá trình giữa con người với tự nhiên, thì các yếu tố giản đơn
của nó vẫn giống nhau đối với tất cả các hình thái phát triển của xã hội”6.
Mác viết: “Nhưng mỗi một hình thái lịch sử nhất định của quá trình ấy lại
phát triển hơn nữa các cơ sở vật chất và các hình thái xã hội của nó. Sau khi đạt
đến một trình độ chín muồi nhất định, thì hình thái lịch sử ấy sẽ bị lột bỏ đi để
nhường chỗ cho một hình thái cao hơn. Một cuộc khủng hoảng như thế sẽ nổ ra,
khi mà sự mâu thuẫn và đối lập giữa một bên là các quan hệ phân phối, - và do đó,
cái hình thái lịch sử nhất định của các quan hệ sản xuất tương ứng với chúng, - và
một bên là các lực lượng sản xuất, khả năng sản xuất và sự phát triển của các
nhân tố sản xuất, đã trở nên sâu rộng hơn. Lúc đó, nổ ra sự xung đột giữa sự phát
triển vật chất của nền sản xuất xã hội và hình thái xã hội của nó”7.
III. Ý NGHĨA QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VÀ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG
1. Ý nghĩa quan điểm của Mác và sự vận dụng của Đảng ta
Quan điểm của C.Mác về quan hệ sản xuất và quan hệ phân phối có ý nghĩa
quan trọng khơng chỉ ở thời đại của Mác mà đến nay vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa.
Theo Mác, các quan hệ sản xuất tương ứng với các phương thức sản xuất trong lịch

sử; đồng thời Mác khẳng định, các quan hệ phân phối, về thực chất đồng nhất với
các quan hệ sản xuất. Vận dụng quan điểm này, chúng ta có thể áp dụng trong việc
hồn thiện và phát huy vai trò của quan hệ sản xuất và quan hệ phân phối trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6
7

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 25, trang 642
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 25, trang 642
14


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

Với quan điểm của C.Mác về quan hệ sản xuất và quan hệ phân phối, một lần
nữa lý luận về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất càng trở nên chặt chẽ. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội phát triển dựa
trên một phương thức sản xuất nhất định, là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất
ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực thúc đẩy sự thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
mới. Phương thức sản xuất mới ra đời tạo tiền đề vật chất cần thiết cho sự thay thế
hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ cao hơn.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, sự thừa nhận
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với việc thừa nhận
sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế có nguồn gốc sở hữu khác nhau, tuân thủ các quy
luật thị trường. Quan hệ phân phối trong việc phân chia nguồn lực, yếu tố sản xuất,
của cải và thu nhập, cơ hội tiềm năng giữa nhiều chủ thể mang tính đa chiều và phụ

thuộc lẫn nhau. Một tất yếu hiện hữu là sự chênh lệch thu nhập cũng như cơ hội
phát triển giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường, khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội trở nên rộng hơn trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, cơ chế
phi thị trường cũng cần được hồn thiện để bảo đảm cơng bằng xã hội ở mức có thể
cho những đối tượng yếu thế, thiệt thịi trong q trình phát triển.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: Hoàn thiện quan hệ phân phối hiện nay phải
dựa trên mục tiêu xây dựng xã hội của Việt Nam trong tương lai. "Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;...". Hơn nữa, việc
điều chỉnh quan hệ phân phối hiện nay cần thỏa mãn những u cầu và nội dung
của mơ hình kinh tế mà Việt Nam đang xây dựng: "nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
15


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

Đảng Cộng sản; vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường
được vận hành đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực
nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đơi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh".
Xuất phát từ mục tiêu chiến lược và mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa như vậy, hoàn thiện quan hệ phân phối phải tương thích với quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại. Phân phối bảo đảm sự hài

hịa lợi ích giữa các chủ thể và nhóm lợi ích trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm
tiền đề kinh tế - kỹ thuật cho quá trình tái sản xuất xã hội và tái sản xuất sức lao
động. Khi đó, "Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát
triển".
Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định nhiều hình thức phân phối phù hợp nền kinh tế thị trường và yếu tố định
hướng xã hội chủ nghĩa, "thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội". Khi năng suất lao
động xã hội còn thấp nên của cải chưa thể "tuôn trào như nước", lao động chưa trở
thành nhu cầu "số một" mà vẫn là hoạt động mưu cầu kiếm sống thiết yếu của con
người. Hiện nay, mỗi thành viên bình thường trong xã hội bắt buộc phải lao động
và sự hưởng thụ của họ được phân phối theo sự đóng góp sức lao động về số lượng
và chất lượng. Phân phối thông qua các quỹ an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là tất
yếu trong điều kiện Việt Nam. Nó bảo đảm mức bình đẳng có thể cho những nhóm
người dễ bị tổn thương và yếu thế trong xã hội. Bên cạnh đó, dưới tác động của các
quy luật thị trường, sự đóng góp nguồn lực vào q trình sản xuất, kinh doanh có
vai trị quan trọng trong việc tạo ra của cải xã hội thỏa mãn lợi ích cá nhân và xã
hội. Do đó, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác như trí tuệ, tài sản, đất đai, tư
16


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

liệu sản xuất, v.v.. cũng là một căn cứ quan trọng trong việc thực hiện phân phối
hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường, việc phân phối cơ hội phát triển cần được nhìn
nhận một cách thiết thực xuất phát từ sự linh hoạt, năng động của nhiều chủ thể

kinh tế, sự đa dạng của quan hệ giao dịch, trao đổi. Biết vận dụng triệt để cơ hội
phát triển là tiền đề khẳng định năng lực thành đạt của từng chủ thể tham gia thị
trường. Khả năng biến "giấc mơ" thành hiện thực chỉ đến với những chủ thể kinh tế
có năng lực, tri thức và tận dụng đúng các quy luật trên sân chơi thị trường. "Phát
huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản
thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị
trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng,
lành mạnh và văn minh". Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: "Tạo cơ hội
bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các
phúc lợi xã hội".
Như vậy, việc nhận thức và hoàn thiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới nhằm "thực hiện có hiệu
quả tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng
chính sách phát triển". Hồn thiện quan hệ phân phối sẽ góp phần hồn thiện quan
hệ sản xuất trong mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong những thập niên tới.
2. Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và phát huy vai trò của quan
hệ sản xuất và quan hệ phân phối trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta
2.1. Về quan hệ sản xuất
Thứ nhất, việc xây dựng quan hệ sản xuất ở nước ta phải xuất phát từ thực
trạng kinh tế - xã hội của đất nước, từ nhận thức tính quy luật từ nền sản xuất nhỏ
lên nền sản xuất lớn và những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.

17


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN


Văn Cơng Vũ

Thứ hai, trong xây dựng hồn thiện quan hệ sản xuất mới cần chú trọng cả ba
mặt: Chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối:
- Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng cịn tồn tại các hình thức sở hữu
khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải
thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập
và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững
chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà khơng tính đến hiệu quả như trước đây.
- Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế
thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những
mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và
tồn thể nhân dân.
- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa
dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực
kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển.
Thứ 3, phải duy trì tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường nước ta, tức là phải thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với phát triển
văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ đạo

18


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con
người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Đây cũng chính là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Về quan hệ phân phối
Thứ nhất, xây dựng môi trường phân phối phù hợp tạo động lực phát triển.
Môi trường thực hiện quan hệ phân phối bị chi phối bởi các tác nhân chủ quan
từ cơ quan quản trị và các tác nhân khách quan từ cơ chế thị trường. Đối với nhóm
tác nhân thứ nhất, việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng thành những luật lệ,
quy định, quy tắc phân phối là tiền đề quyết định sự lành mạnh của môi trường
phân phối.
Hệ thống pháp luật đầy đủ và thống nhất bảo đảm cơ sở cho tất cả các chủ thể
kinh tế tự do sáng tạo và tạo thu nhập theo đúng năng lực của mình, được phân
phối hợp pháp những thành quả chính đáng của mình. Họ có quyền hưởng những
thu nhập chính đáng từ tài sản, tiền bạc và trí tuệ của mình, được quyền huy động
các nguồn lực hay phát huy các cơ hội phát triển phục vụ lợi ích của mình.
Thứ hai, tận dụng những ưu thế cơ chế của thị trường - khuyến khích làm
giàu hợp pháp.
Nhóm tác nhân thứ hai liên quan tới môi trường thực hiện quan hệ phân phối
là cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, phân phối cần tuân thủ những

nguyên tắc, quy luật vốn có của thị trường như cạnh tranh, quy luật giá trị, tối ưu
hóa lợi nhuận. Việc phân phối được thực hiện dựa theo năng lực và đóng góp thơng
qua tín hiệu thị trường. Mỗi chủ thể thơng thái trong việc tận dụng cơ hội để tối ưu
hóa lợi ích riêng, như khả năng phân tích và dự báo các thông tin thị trường, đưa ra
các quyết định lựa chọn và đầu tư phù hợp, quản trị hiệu quả trong hoạt động, v.v..
Trên cơ sở đó, các chủ thể có thể "làm giàu hợp pháp", linh hoạt và sáng tạo làm
những gì pháp luật khơng cấm.
19


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

Phân phối thu nhập bị chi phối tương tác của hệ thống thị trường, chẳng hạn
thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường hàng hóa và dịch
vụ, v.v.. Thơng qua đó, các nguồn lực được phân bổ hiệu quả giữa các ngành, lĩnh
vực khác nhau, thu nhập được phân phối gắn với hiệu quả của từng loại yếu tố sản
xuất. Như vậy, việc phân phối thu nhập diễn ra cơng bằng theo tín hiệu thị trường
hiệu quả, phù hợp với mức đóng góp của các nguồn lực “đầu vào” hay yếu tố sản
xuất vào quá trình tạo ra của cải xã hội.
Vì vậy, việc xây dựng đồng bộ hệ thống các loại thị trường và hoàn thiện từng
loại thị trường là yêu cầu thiết thực, góp phần hồn thiện nền kinh tế thị trường nói
chung và quan hệ phân phối phù hợp nói riêng trong giai đoạn phát triển tiếp theo ở
Việt Nam.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế phi thị trường bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ phân phối có vai trị quan trọng trong
việc bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Trước hết, trong giai đoạn phát triển tới,
Việt Nam cần củng cố hệ thống an sinh xã hội nhằm nâng cao phúc lợi và sự bảo vệ
cho các cộng đồng dân cư, nhất là nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; hoàn thiện hệ

thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, đa dạng hóa các hình
thức cứu trợ xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ công thiết yếu, như giáo dục, y
tế, kết cấu hạ tầng, v.v.. cần được phát triển đầy đủ nhằm bảo đảm cho mọi thành
viên trong xã hội được tiếp cận và thụ hưởng đầy đủ.
Đẩy mạnh hoạt động giảm nghèo bằng những cơ chế mới thích hợp và thu hút
nhiều cá nhân, tổ chức nhà nước và phi chính phủ trong và ngồi nước tham gia.
Điều cơ bản nhất đối với người nghèo, khó khăn là sự trợ giúp (tài chính và cơ chế)
để họ nâng cao năng lực tự vươn lên, thích nghi với cơ chế thị trường và biết cách
tồn tại độc lập.
Nhà nước cần hồn thiện chế độ và chính sách tiền lương, tiền công phù hợp
với sự linh hoạt của thị trường trong các đơn vị sử dụng lao động khác nhau. Một
trong các yêu cầu căn bản về phương diện này là tiền công/tiền lương phải bảo đảm

20


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

tính tất yếu của q trình tái sản xuất, tức là đủ để mua tư liệu sinh hoạt nuôi sống
các thành viên gia đình người lao động trong nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, tạo sự bình đẳng về cơ hội cho mỗi cá nhân trong xã hội.
Cơ hội trong nền kinh tế thị trường là tiền đề quan trọng quyết định tới thu
nhập, khả năng cống hiến và hưởng thụ của mỗi chủ thể xã hội (cá nhân, tập thể, tổ
chức, cộng đồng) trong tương lai. Tạo sự bình đẳng về cơ hội có thể tạo ra mức độ
bình đẳng nhất định trong phân phối đối với mỗi chủ thể xã hội tham gia q trình
phát triển nói chung.
Một u cầu mang tính ngun tắc trong q trình phát triển, các chủ thể tham
gia không phân biệt chủng tộc, giới tính, giai cấp, nguồn gốc xuất thân đều có cơ

hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực và yếu tố quy định sự phát triển, tự chủ lựa
chọn các lĩnh vực/kỹ năng hoạt động có ích. Tất yếu họ phải được nhận các kết quả
tương xứng theo năng lực của bản thân và khả năng làm chủ quá trình phát triển.
Khi đó, sự chênh lệch về thu nhập và suy đến cùng là mức độ hưởng thụ của mỗi
chủ thể hoàn toàn phụ thuộc vào sự nỗ lực cá nhân, tức là ai đủ năng lực hiện thực
hóa cơ hội (chẳng hạn, biết nắm bắt cơ hội sản xuất, kinh doanh, sáng tạo ra ý
tưởng kinh doanh độc đáo, nhạy bén xử lý thơng tin...) người đó phải được hưởng
thụ cao hơn. Như vậy, quá trình phát triển là q trình hồn thiện bản thân chủ thể
và cạnh tranh liên tục vì cơ hội tốt hơn. "Coi trọng việc phân phối các cơ hội (và
năng lực hiện thực hóa các cơ hội) cơng bằng, coi đây là hướng quan trọng nhất,
xét về dài hạn, để tạo ra một sự phân phối các kết quả đầu ra hay thu nhập một cách
công bằng"(9).
Thực hiện công bằng về cơ hội đạt được khi có đầy đủ các hệ thống pháp lý,
quy tắc, quy định và những tiền đề vật chất - kỹ thuật thuận lợi cho phép các chủ
thể biến cơ hội thành hiện thực.
Cơ sở pháp lý bảo đảm cho các chủ thể quyền lợi và nghĩa vụ trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Mọi chủ thể tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, các
nguồn lực cơng, cơ hội sản xuất, kinh doanh và thành tựu phát triển. Sự tiếp cận
bình đẳng đồng nghĩa với việc tạo cơ hội ngang nhau cho tất cả các chủ thể tận
21


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Công Vũ

dụng nguồn lực xã hội và tư nhân, tạo thu nhập cho bản thân theo cách riêng trên
thị trường. Điều này địi hỏi từng chủ thể phát huy tính sáng tạo và độc lập trong
việc tối ưu hóa lợi ích của mình trên cơ sở tận dụng cơ hội chung trong nền kinh tế
thị trường.

Những tiền đề vật chất - kỹ thuật thuận lợi cho phép các chủ thể biến cơ hội
thành hiện thực là điều kiện đủ trong việc tạo lập sự bình đẳng về cơ hội. Chẳng
hạn, khả năng tiếp cận giáo dục ở vùng núi cao sẽ khó khăn hơn vùng đồng bằng,
đơ thị. Hiển nhiên, những người ở vùng khó khăn sẽ bất lợi hơn nâng cao trình độ,
năng lực hiện thực hóa các cơ hội phát triển. Xuất phát từ đó, việc tạo sự bình đẳng
về cơ hội cần có những giải pháp tổng hợp và sự can thiệp vĩ mô của Nhà nước.
Thứ năm, nâng cao hiệu lực các cơng cụ, chính sách trong điều tiết phân phối
và phân phối lại.
Những công cụ, chính sách đắc lực điều tiết quan hệ phân phối và phân phối
lại là thuế, tài chính - tiền tệ, thu nhập - việc làm, sở hữu đất đai, tài sản, thừa
kế,v.v..
Sự can thiệp này cần được thực thi bằng những hệ thống công cụ đồng bộ và
hiệu lực cao bảo đảm quan hệ phân phối và phân phối lại diễn ra một cách minh
bạch, lành mạnh, tạo động lực cho q trình phát triển như đã phân tích ở các mục
trên.
Các chính sách định hướng phân phối lại thu nhập, của cải hay tài sản cần
được cân nhắc từ nhiều góc độ: một mặt, chúng tạo mơi trường minh bạch và điều
kiện công bằng cho các chủ thể xã hội; mặt khác, chúng có khả năng ngăn chặn
những hành vi vi phạm pháp luật, quy tắc phân phối dẫn tới tình trạng bất bình
đẳng trong xã hội tương lai.
Thứ sáu, xử lý cương quyết và nghiêm minh các hành vi phân phối bất hợp
pháp.
Cơng bằng trong phân phối địi hỏi sự quản trị hiệu lực cao của nhà nước pháp
quyền. Phân phối bảo đảm cho sự làm giàu chính đáng cần được thể chế hóa bằng
các cơng cụ quản trị công, đồng thời những hành vi phân phối bất hợp pháp bất
luận đối tượng vi phạm đó là ai, phải bị trừng trị nghiêm và công khai theo pháp
22


Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN


Văn Cơng Vũ

luật. Chính điều này mới tạo ra sự bình đẳng cho mọi chủ thể thực hiện phân phối
lành mạnh, phù hợp với những đóng góp tương xứng theo năng lực.
Những hành vi phạm pháp tìm mọi cách, mọi giá, mọi thủ đoạn để mưu cầu
lợi ích riêng, vi phạm lợi ích chung là khơng thể chấp nhận trong xã hội và phải bị
nghiêm trị công khai theo luật pháp. Cộng đồng xã hội không thể chấp nhận những
vụ xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật không nghiêm minh, qua loa và hình
thức. Rõ ràng, điều cần thiết để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với quan hệ
phân phối là nâng cao hiệu lực của bộ máy quản trị công. "Tạo môi trường pháp lý
và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển,
các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, cơng khai,
minh bạch, có trật tự, kỷ cương".

KẾT LUẬN
Trong bất kỳ một hình thái kinh tế chính trị nào, phân phối đều chiếm một vị
trí quan trọng khơng thể thiếu được trong nền sản xuất xã hội, hơn thế nữa phân
phối còn thể hiện bản chất của chế độ xã hội, thể hiện sự phù hợp tương ứng với
quan hệ sản xuất. Phân phối tác động trực tiếp đến mọi ngành, mọi đơn vị kinh
doanh, mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó trong thời kỳ quá độ Nhà nước ta cần
phải biết sử dụng quan hệ phân phối như một công cụ đắc lực để tác động đến sự
phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bằng chính sách huy động, phân
phối đúng đắn và chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý, nhà nước có thể hướng
dẫn, kích thích các thành viên trong xã hội, các đơn vị kinh doanh không ngừng
học hỏi, áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, qua đó
từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần nâng cao
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

23



Tiểu luận Q trình sản xuất và lưu thơng TBCN

Văn Cơng Vũ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, tập 25, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
[3] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006
[4] Ph.Ăngghen: Chống Đuy – rich, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1960
[5] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 4, Nxb tiến bộ Mát-xcơ-va, 1974
[6] Website: khotrithucso.com

24



×