Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

hà tĩnh ngày 30 tháng 10 năm 2009 kính gửi thaolamdantri com vn tôi viết bài này trên cơ sở tham khảo một số ý kiến hiện nay của các tác giả xin gửi để đồng chí cùng tham khảo thấy gì qua cách dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.38 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Hà Tĩnh, ngày 30 tháng 10 năm 2009
Kính gửi:


Tôi viết bài này trên cơ sở tham khảo một số ý kiến hiện nay của các tác giả, xin gửi để đồng chí
cùng tham khảo.


<b>Thấy gì qua cách dạy văn của người Mĩ,</b>


<b>cách ra đề của người Trung Quốc?</b>



Sau khi tìm hiểu cách dạy, cách học của người Mĩ qua bài Cô bé Lọ Lem <i>(của nhà văn Pháp</i>
<i>Charles Perrault ) tìm hiểu cách ra đề của người Trung Quốc 2 năm gần đây, tơi rút ra được một</i>
số bài học bổ ích, thiết thực sau đây xin được trao đổi cùng đồng nghiệp:


<b>1-</b> <b>Về cách dạy:</b>


Giáo viên chúng ta hiện nay vẫn cịn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một
chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà
giáo viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh
nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng
đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho người học con
đường tích cực chủ động để thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến
hành như một giờ diễn thuyết, thậm chí giáo viên cịn đọc chậm cho học sinh chép lại những gì
có sẵn ở giáo án. Giờ học tác phẩm văn chương vì thế vẫn chưa thu hút được sự chú ý của người
học.


Thầy giáo trong tiết dạy bài Cô bé Lọ Lem thật nhẹ nhàng, thoải mái. Chỉ đọc phần tường
thuật ghi chép qua tiết dạy thôi tơi đã thấy thích thú. Thích ở cách dẫn dắt học sinh tiếp cận bài
giảng một cách tự nhiên, không áp đặt. Họ cùng học sinh hội thoại ( Cả tiết d ạy bài Cô bé Lọ
Lem GV chỉ nêu 12 câu hỏi ) nhưng HS đủ nắm được thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm. Tình
tự tiết giảng được thực hiện hết sức linh hoạt, GV đưa HS đi từ khám phá này đến khám phá
khác không nhàm chán, luôn bất ngờ với các em. Qua trao đổi một cách tự nhiên giữa giáo viên


và học sinh các bài học làm người được rút ra một cách nhẹ nhàng phù hợp với tâm sinh lí của
học sinh, khơng áp đặt khiên cưỡng chút nào. Trong q trình trị chuyện, đàm thoại, học sinh
được tơn trọng, khuyến khích, tự do thoải mái phát biểu chính kiến của mình. Qua tiết dạy, tình
cảm, ý chí tích cực ln được bồi đắp cho học sinh. Đó là ý chí vươn lên vượt qua hồn cảnh,
vượt qua chính mình, tự chịu trách nhiệm, ý thức chấp hành giờ giấc; là sự cảm thơng, lịng vị
tha đối với người khác, sự quý trọng tình bạn,…


Có người cho rằng dạy như thế là chưa đúng đặc trưng bộ mơn văn. Theo tơi hồn tồn
ngược lại như thế. Trước hết phải nói giáo viên dạy bài này đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ
<i>bài này ở nhà. Dạy truyện ngắn họ đã yêu cầu học sinh nắm được 3 yếu tố quan trọng đó là: tóm</i>


<i>tắt tác phẩm, nhân vật, các chi tiết tiêu biểu. Từ đó qua đàm thoại gợi mở giáo viên đã dẫn dắt</i>


các em tìm ra bài học một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.


<b> Theo tôi, chúng ta cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải từng</b>


bước chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thụ kiến thức một chiều sang phương pháp dạy
học mới, trong đó học sinh dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh bài
văn, tự rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa. Có như
vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người “đồng sáng tạo” với tác giả.


Tôi tin chắc rằng, nếu chúng ta dạy được như thế, học sinh chẳng những thoải mái mà
cịn rất thích học văn. Học sinh sẽ có hứng thú, tập trung chú ý tích cực tham gia xây dựng bài,
sáng tạo trong quá trình học tập. Sau này ra cơng tác nhất định họ sẽ hướng về ánh sáng, trọng lẽ
phải, trọng tình bạn, tình người, chủ động trong cuộc sống...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>2- Về cách ra đề:</b>


Người Trung Quốc ra đề không rập khuôn, cứng nhắc. Khơng như ta học gì thì ra đề, thi nấy.


<i>Cuối năm thi TN, CĐ ĐH ln có hạn chế chương trình: “Chủ yếu kiến thức nằm ở lớp cuối</i>


<i><b>cấp” bài nào chưa học thì khơng được ra đề vào bài đó. Giáo viên nào ra đề ngồi các văn bản</b></i>


<i>đã học sẽ bị khiển trách, kỉ luật, học sinh có khi ghi cả vào bài làm của mình câu: bài này em</i>


<i>chưa đ ược học. Quay đi quẩn lại chỉ có mấy văn bản đã học mà khai thác, mấy kiểu bài quen</i>


thuộc mà làm, thật là nhàm chán. Dạng đề “truyền thống” thường kèm theo những “mệnh lệnh”,
gợi dẫn về thao tác lập luận như: “hãy chứng minh…”, ( hãy làm sáng tỏ...) “hãy phân tích…”,
( Em hiểu…) “hãy giải thích…”, “hãy bình luận”…; hoặc phương thức biểu đạt như: “hãy phát
biểu cảm nghĩ”…, “hãy kể…”. Từ đó nạn văn mẫu, học tủ, luyện thi nhiêu khê ra đời.


GS Phan Trọng Luận đã đánh giá: "Cái dở nhất của đề thi Văn hiện nay là chủ yếu nhắm đến
khâu tái hiện kiến thức theo kiểu "nhớ lại" chứ không chú ý đến vận dụng kiến thức của học
sinh", "quanh đi quẩn lại cũng chỉ có mấy kiểu đề với mấy chủ điểm quen thuộc: khơng bình
giảng thì phân tích, khơng phân tích thì chứng minh, khơng chứng minh thì cao hơn là bình luận.
Trở đi trở lại cũng chỉ có mấy bài thơ, mấy đoạn trích quen thuộc".


Đề của người Trung Quốc ra luôn mở ra một chân trời sáng tạo cho học sinh. Học sinh được
cởi trói trong cách nghĩ. Từ cách đặt tiêu đề cho bài viết của mình đến tự do bày tỏ quan điểm,
hướng khai thác, cách cảm thụ, cách chọn thể loại để viết. (một vài đề trừ thể thơ ca) Họ chỉ hạn
chế số chữ tối đa, hoặc tối thiểu cho một bài viết. (Thông thường là phải xấp xỉ hoặc trên 800
chữ cho một bài viết). Nội dung đề cũng rất mở, mở ra một không gian rộng lớn để phát huy tính
tự do sáng tạo của học sinh. Văn học thực sự bước ra khỏi tháp ngà để đi vào hoà nhập với cuộc
sống hiện thực. Đề ra ở Trung Quốc ít khi lấy ở các bài đã được thầy dạy trên lớp, trong chương
trình năm học, cấp học nào. Đề của họ ra dựa trên trình độ, vốn hiểu biết của học sinh về văn học
sử, lí luận văn học, kiểu bài, tác giả, tác phẩm … đã được giáo viên ở cấp học đó cung cấp. Đề
của họ khơng thuần t kiểm tra tái hiện kiến thức, mà chủ yếu kiểm tra sự sáng tạo của học
sinh; kích thích học sinh tìm ý tưởng, mạnh dạn phát biểu chính kiến của mình. Các đề nghị luận


văn học hầu hết không ra về các tác giả nằm trong chương trình, đề nghị luận chính trị đều lấy từ
thực tế của cuộc sống cả.


Đề ra dưới đây ở Trung Quốc các em HS có thể chọn văn miêu tả, văn chứng minh, phân
tích hoặc văn nghị luận để làm bài.


<b> ( Thử tìm hiểu đề văn ra năm 2009) </b>


<i>Đọc đề bài dưới đây:</i>


<i>“Tế vũ thấp y khan bất kiến. Nhàn hoa lạc địa thính vơ thanh (tạm dịch: Mưa mong manh thấm </i>
<i>áo nhìn khơng tỏ. Hoa rụng đất nhẹ nhàng nghe không thấu) là câu thơ trích trong bài Biệt </i>
<i>Nghiêm Sĩ Nguyên (tạm dịch: Tặng Nghiêm Sĩ Nguyên khi từ biệt ) của nhà thơ đời Đường Lý </i>
<i>Trường Khanh.</i>


<i>Có những lý giải khác nhau như sau về bài thơ: </i>
<i><b>1/ Đây là bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân. </b></i>


<i><b>2/ “Mưa mong manh”, “cánh hoa rụng” đặc tả nỗi cô đơn không người thấu hiểu. </b></i>


<i>3/ “Nhìn khơng tỏ”, “nghe khơng thấu” khơng chỉ thái độ sống buông xuôi, mà thể hiện cách xử</i>
<i>thế không màng danh lợi. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i> Bằng cảm nhận của riêng mình về hai câu thơ, anh /chị hãy viết một bài văn theo những yêu</i>
<i>cầu sau:</i>


<i>1. Đề bài tự đặt.</i>


<i>2. Thể thức hành văn không giới hạn.</i>
<i>3. Bài văn không dưới 800 chữ.</i>



Nên nhớ tác giả Lý Trường Khanh chỉ được chọn giới thiệu trong sách giáo khoa cấp I qua
một bài thơ khác của ông. Hơn nữa, Lý Trường Khanh không phải là một tác gi i ng
quen thuc nổi tiếng và tiêu biểu nh Lý Bạch, Đỗ Phủ.


Các em thí sinh mười mấy tuổi liệu có thể trong một thời gian ngắn thông hiểu câu thơ được
viết từ nghìn năm trước, nắm bắt được cái thần của bài thơ mình chưa từng đọc qua? Liệu có thể
<i>giải thích “mưa nhỏ”, “hoa rụng” có nội hàm gì? Ai oán, u sầu hay tươi đẹp mộng mơ ở đâu? Ở</i>
ta GS Nguy ễn Khắc Phi và nhóm cộng sự mớí đưa mấy bài thơ Tứ tuyệt Đường luật vào
chương trình THCS mà có người đã chỉ trích các nhà soạn sách giáo khoa đưa nó vào là xa lạ,
khó hiều với học sinh thời nay mới 13-14 tuổi đầu.


Người ra đề trên đã chỉ hẳn cho học sinh bốn hướng đi, bốn cách lý giải này đều đúng (vì thế
đáp án cơng bố sau đó cho học sinh cũng có bốn phần). Học sinh chỉ cần tự chọn cho mình một ý
để phát triển mở rộng bài viết. Nếu chỉ đơn thuần phân tích từ hai câu thơ này (không sử dụng
các dẫn chứng từ các bài thơ khác), với lý giải (1) học sinh có thể sử dụng lối văn miêu tả, tả
cảnh mùa xuân đẹp, hấp dẫn lịng người, từ đó có thể tán dương vẻ đẹp mùa xuân như biểu tượng
một xã hội.


Những học sinh nào chọn ý (2), (3) có thể sử dụng văn chứng minh và phát biểu cảm nghĩ để
so sánh và đối chiếu quan niệm sống, giá trị biểu cảm, cách nhìn giữa xưa và nay. Những học
sinh nào chọn cảm nhận (4) có thể dùng văn nghị luận để làm.


Như thế, đề thi văn này đưa ra hai câu thơ tuy rất xa lạ với học sinh nhưng nó hồn tồn là
một đề mở. Chỉ trong một đề thi thơi mà đã đưa ra cho học sinh chọn bốn cách viết với nội dung
<i>khác nhau. Từng học sinh có thể chọn cách thức hành văn thuộc sở trường của mình (văn tả, văn</i>


<i>phát biểu cảm nghĩ, văn phân tích hay văn nghị luận) để phát huy bút lực, khả năng của mình.</i>


Một đề văn thật là tơn trọng tự do học sinh.



Ở nước ta trước đây ai ra đề thi nằm ngồi ch ương trình thì bị coi là ra lạc đề, sai đề, thậm
chí sẽ bị báo chí chỉ trích, bị ngành kỉ luật. Ai dám ra đề văn miêu tả cho học sinh THPT, ra về
một văn bản, văn học cổ chưa học trong chương trình như đề trên ở Trung Quốc?


Nói vậy chứ gần đây ở nước ta cũng đã xuất hiện một số đề dạng mở, nhưng GV bậc
phổ thông hầu như vẫn chưa quen với dạng đề này. Những nỗi “ám ảnh” về dạng đề truyền
thống vẫn còn khá dai dẳng trong một bộ phận khơng ít ở giáo viên chúng ta hiện nay. Do đó,
trước sự xuất hiện của những câu hỏi “mở” trong đề thi ở những kỳ thi có tính chất quan trọng,
đã xuất hiện những ý kiến thái độ khác nhau. Nhiều giáo viên, học sinh tỏ ra thích thú, háo hức.
Một số khác lại tỏ ra ngỡ ngàng, lúng túng, băn khoăn. Thậm chí, cịn có những phản ánh cho là
“đề thi lạ”, “đề thi khó” hay “đề thi có vấn đề”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khó khăn cho học sinh khi làm bài. Học sinh khó xác định đúng trọng tâm yêu cầu của đề cũng
như không biết nên bắt đầu viết từ đâu. Thực ra, trong chương trình SGK mới, từ cấp THCS, đề
thi theo dạng “mở” đã được học sinh tiếp cận. Chẳng hạn: SGK Ngữ văn 6, tập 1, trang 47 nêu
một số đề: “Ngày sinh nhật của em”, “Kỷ niệm ngày thơ ấu”; SGK Ngữ văn 7, tập 1, trang 88
cũng giới thiệu một số đề: “Loài cây em yêu”, “Vui buồn tuổi thơ”; SGK Ngữ văn 8, tập 1, trang
37, dạng đề “mở” lại tiếp tục xuất hiện: “Tơi thấy mình đã khơn lớn”, “Người ấy sống mãi trong
lịng tơi”. Tương tự, SGK Ngữ văn 9, tập 1, trang 42 cũng có các đề: “Một nét đặc sắc trong di
tích, thắng cảnh quê em”, “Cây lúa Việt Nam”… Những kiểu đề “mở” như trên cũng đã xuất
hiện trong chương trình SGK ở các lớp bậc THPT. Đến năm học 2008 – 2009 vừa qua, học sinh
<i>lớp 12 đã được học chương trình SGK bộ mới. Như vậy, việc học sinh “chưa quen” còn “bỡ</i>


<i>ngỡ” với dạng đề “mở” phải chăng là do giáo viên chưa cho học sinh “làm quen” hay là do chính</i>


<i>giáo viên “chưa quen” với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá?! Chúng ta nh</i>ững giáo viên văn, tại
thời điểm này về ý thức nhất thiết phải đoạn tuyệt với lối ra đề văn truyền thống.


Đổi mới việc ra đề thi phải được tiến hành song song, đồng bộ với việc đổi mới phương


pháp dạy - học văn trong nhà trường. Phải xem việc đổi mới cách dạy và cách học văn là gốc để
tạo ra cái nền vững chắc cho việc đổi mới đề thi. Và khi đề thi đã đổi mới, thì nó lại có tác dụng
trở lại củng cố cách dạy và cách học văn mới.


<i> Tr ước mắt chúng ta phải tạo ra những "bước đệm" để học sinh quen dần với cách dạy - học</i>
mới, thích ứng với những đề kiểm tra và cách đánh giá mới, từ đó sẽ có thể tiếp nhận dễ dàng,
không bỡ ngỡ trước những đề văn mới, hơn thế cịn thích thú với những đề văn này.


Cuối cùng tôi mong ng ười GV phải thật sự nhiệt tâm với nghề và học trị phải chủ động thì
mới nói đến đổi mới được. Đổi mới cách dạy, cách ra đề chỉ là ý muốn chủ quan của người thầy,
của ngành GD, chỉ giải quyết được phần ngọn, thiếu tính bền vững. Thiết nghĩ khi thầy hãy cịn
lo miếng cơm manh áo nhiều hơn lo cho giờ dạy thì đổi mới có thực hiện được cũng chỉ dừng lại
ở các giờ dạy thao giảng mà thôi. Xét về cội nguồn theo tôi đổi mới trước hết phải đổi mới tư
duy của chính những nhà lãnh đạo giáo dục, của cơ chế chính sách của Nhà nước thì mới đổi
<i>mới được tư duy của người dạy và người học. Giáo dục là quốc sách hàng đầu thì giáo dục phải</i>
ni sống nhiệt tâm của thầy bằng chính ngân sách xứng tầm với cái quốc sách đó. Có như thế
sau giờ dạy trên lớp thầy có thời gian dành cho nghiên cứu và chuẩn bị cho bài giảng chứ không
<i>phải lo làm thêm việc ngồi giờ để kiếm sống, vì “Cơm áo không đùa với cả nhà sư… phạm”.</i>


<b>Bài tường thuật để tham khảo.</b>


<b>Giáo viên Mĩ dạy bài Chuyện Cô bé Lọ Lem.</b>


Trước tiên thầy gọi một học sinh lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em học sinh kể xong, thầy cảm
ơn rồi bắt đầu hỏi.


<i>Thầy: Các em thích và khơng thích nhân vật nào trong câu chuyện vừa rồi?</i>


Học sinh (HS): Em thích Cơ bé Lọ Lem Cinderella ạ, và cả Hồng tử nữa nhưng khơng thích bà
mẹ kế và chị con riêng bà ấy. Cinderella tốt bụng, đáng yêu, lại xinh đẹp. Bà mẹ kế và cô chị kia



đối xử tồi với Cinderella.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

HS: Thì Cinderella sẽ trở lại có hình dạng lọ lem bẩn thỉu như ban đầu, lại mặc bộ quần áo cũ
rách rưới tồi tàn. Eo ôi, trông kinh lắm.


<i>Thầy: Bởi vậy, các em nhất thiết phải là những người đúng giờ, nếu khơng thì sẽ tự gây rắc rối</i>
<i>cho mình. Ngồi ra, các em tự nhìn lại mình mà xem, em nào cũng mặc quần áo đẹp cả. Hãy</i>
<i>nhớ rằng chớ bao giờ ăn mặc luộm thuộm mà xuất hiện trước mặt người khác. Các em gái nghe</i>


<i>đây: các em lại càng phải chú ý chuyện này hơn. Sau này khi lớn lên, mỗi lần hẹn gặp bạn trai</i>
<i>mà em lại mặc luộm thuộm thì người ta có thể ngất lịm đấy (Thầy làm bộ ngất lịm, cả lớp cười</i>


<i>ồ). Bây giờ thầy hỏi một câu khác. Nếu em là bà mẹ kế kia thì em có tìm cách ngăn cản</i>
<i>Cinderella đi dự vũ hội của hồng tử hay khơng? Các em phải trả lời hồn tồn thật lịng đấy.</i>


HS: (im lặng, lát sau có em giơ tay xin nói) Nếu là bà mẹ kế ấy, em cũng sẽ ngăn cản Cinderella
đi dự vũ hội.


<i>Thầy: Vì sao thế?</i>


HS: Vì... vì em yêu con gái mình hơn, em muốn con mình trở thành hồng hậu.


<i>Thầy: Đúng. Vì thế chúng ta thường cho rằng các bà mẹ kế dường như đều chẳng phải là người</i>
<i>tốt. Thật ra họ chỉ không tốt với người khác thơi, chứ lại rất tốt với con mình. Các em hiểu</i>
<i>chưa? Họ không phải là người xấu đâu, chỉ có điều họ chưa thể yêu con người khác như con</i>


<i>mình mà thơi.</i>


<i>Bây giờ thầy hỏi một câu khác: Bà mẹ kế không cho Cinderella đi dự vũ hội của hồng tử, thậm</i>


<i>chí khóa cửa nhốt cơ bé trong nhà. Thế tại sao Cinderella vẫn có thể đi được và lại trở thành cô</i>


<i>gái xinh đẹp nhất trong vũ hội?</i>


HS: Vì có cơ tiên giúp ạ. Cơ cho Cinderella mặc quần áo đẹp, lại cịn biến quả bí thành cỗ xe
ngựa, biến chó và chuột thành người hầu của Cinderella.


<i>Thầy: Đúng, các em nói rất đúng. Các em thử nghĩ xem, nếu khơng có cơ tiên đến giúp thì</i>
<i>Cinderella khơng thể đi dự vũ hội được, phải không?</i>


HS: Đúng ạ.


<i>Thầy: Nếu chó và chuột khơng giúp thì cuối cùng Cinderella có thể về nhà được khơng?</i>


HS: Khơng ạ.


<i>Thầy: Chỉ có cơ tiên giúp thơi thì chưa đủ. Cho nên các em cần chú ý: Dù ở bất cứ hoàn cảnh</i>
<i>nào, chúng ta đều cần có sự giúp đỡ của bạn bè. Bạn của ta không nhất định là tiên là bụt,</i>
<i>nhưng ta vẫn cần đến họ. Thầy mong các em có càng nhiều bạn càng tốt. Bây giờ, đề nghị các</i>
<i>em thử nghĩ xem, nếu vì mẹ kế khơng muốn cho mình đi dự vũ hội mà Cinderella bỏ qua cơ hội</i>


<i>ấy thì cơ bé có thể trở thành vợ của hồng tử được khơng?</i>


HS: Khơng ạ! Nếu bỏ qua cơ hội ấy thì Cinderella sẽ khơng gặp hồng tử, khơng được hồng tử
biết và u.


<i>Thầy: Đúng q rồi! Nếu Cinderella khơng muốn đi dự vũ hội thì cho dù bà mẹ kế khơng ngăn</i>
<i>cản đi nữa, thậm chí bà ấy cịn ủng hộ Cinderella đi nữa, rốt cuộc cơ bé cũng chẳng được lợi gì</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

HS: Chính là Cinderella ạ.



<i>Thầy: Cho nên các em ạ, dù Cinderella khơng cịn mẹ đẻ để được u thương, dù bà mẹ kế</i>
<i>không yêu cô bé, những điều ấy cũng chẳng thể làm cho Cinderella biết tự thương u chính</i>
<i>mình. Chính vì biết tự u lấy mình nên cơ bé mới có thể tự đi tìm cái mình muốn giành được.</i>
<i>Giả thử có em nào cảm thấy mình chẳng được ai u thương cả, hoặc lại có bà mẹ kế khơng yêu</i>


<i>con chồng như trường hợp của Cinderella, thì các em sẽ làm thế nào?</i>


HS: Phải biết u chính mình ạ.


<i>Thầy: Đúng lắm! Chẳng ai có thể ngăn cản các em u chính bản thân mình. Nếu cảm thấy</i>
<i>người khác khơng yêu mình thì em càng phải tự yêu mình gấp bội. Nếu người khác khơng tạo cơ</i>
<i>hội cho em thì em cần tự tạo ra thật nhiều cơ hội. Nếu biết thực sự yêu bản thân thì các em sẽ tự</i>
<i>tìm được cho mình mọi thứ em muốn có. Ngồi Cinderella ra, chẳng ai có thể ngăn trở cơ bé đi</i>


<i>dự vũ hội của hồng tử, chẳng ai có thể ngăn cản cơ bé trở thành hồng hậu, đúng khơng?</i>


HS: Đúng ạ, đúng ạ!


<i>Thầy: Bây giờ đến vấn đề cuối cùng. Câu chuyện này có chỗ nào chưa hợp lý không?</i>


HS: (im lặng một lát) Sau 12 giờ đêm, mọi thứ đều trở lại nguyên dạng như cũ, thế nhưng đôi
giày thủy tinh của Cinderella lại không trở về chỗ cũ.


<i>Thầy: Trời ơi! Các em thật giỏi quá! Các em thấy chưa, ngay cả nhà văn vĩ đại (nhà văn Pháp</i>
<i>Charles Perrault, tác giả truyện Cô Bé Lọ Lem - chú thích của người dịch) mà cũng có lúc sai</i>
<i>sót đấy chứ. Cho nên sai chẳng có gì đáng sợ cả. Thầy có thể cam đoan là nếu sau này có ai</i>
<i>trong số các em muốn trở thành nhà văn thì nhất định em đó sẽ có tác phẩm hay hơn tác giả của</i>


<i>câu chuyện Cô bé Lọ lem! Các em có tin như thế khơng?</i>



Tất cả học sinh hồ hởi vỗ tay reo hò.


<i>Thời Hàn Băng (nhà báo Trung Quốc)</i>


Một số đề của Trung Quốc để tham khảo


<b> 1. Đề toàn Trung Quốc</b>


Hiện nay, lượng người đọc sách ở Trung Quốc ngày một giảm: năm 1999 là 60%, 2001
là 52%. Nguyên nhân đọc ít: người đứng tuổi nói khơng có thời gian, thanh niên nói khơng
có thói quen, có người cịn nói đọc sách khơng "vào" nổi. Ngược lại, số người đọc trên mạng
ngày một tăng: năm 1999 là 3,7%, năm 2003 là 18,3%. Hãy trình bày một cách nhìn của bạn
về vấn đề trên, số chữ 800


<b>2. Đề của thành phố Bắc Kinh</b>


Có rất nhiều nét văn hóa đặc trưng trở thành biểu tượng của các thành phố. Cố Cung,
nhà quây bốn hướng là biểu tượng của Bắc Kinh; trò tạp kĩ trên Thiên Kiều, tiếng rao trong
ngõ nhỏ là biểu tượng của Bắc Kinh; thư họa của Lưu Li Xưởng, văn chương Lão Xá là biểu
tượng của Bắc Kinh; buôn bán trên đường Vương Phủ Tỉnh, vườn Khoa học ở thôn Quan
Trung là biểu tượng Bắc Kinh... Cứ mỗi thời, Bắc Kinh lại thêm những biểu tượng mới. Gìn
giữ biểu tượng cũ, sáng tạo biểu tượng mới luôn là ước muốn của người Bắc Kinh.


Theo cách nhìn và cảm nhận của bản thân, hãy viết một đoạn văn với đầu đề là "Biểu
tượng Bắc Kinh" Trừ thơ ca, không hạn chế thể loại, số chữ trên 800.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nhà điêu khắc gọt từng nhát trên khối đá lớn. Dần dần, đầu, vai, và một thiên thần tuyệt
đẹp hiện ra. Một cô bé thấy vậy bèn hỏi: Sao ông biết có thiên thần trong khối đá? Nhà điêu
khắc đáp: Thiên thần không ở trong khối đá, mà trong tim ta. Hãy viết bài văn với đầu đề
"Khắc thiên thần trong tim", số chữ trên 800.



<b>4. Đề của tỉnh Trùng Khánh Đề nhỏ: Hãy miêu tả một thoáng ở bến xe, 200 chữ.</b>


Đề lớn: Đi và dừng là việc bình thường, song nó lại khiến ta liên tưởng tới tự nhiên, lịch
sử, cuộc đời. Hãy viết đoạn văn với đầu đề "Đi và Dừng", trừ thi ca, thể loại không hạn chế.
<b>5. Đề của tỉnh Đông Sơn</b>


Từ dưới mặt đất, nhân loại thấy mặt trăng lung linh ngời rạng. Đặt chân lên mặt trăng,
người ta mới nhận ra mặt trăng cũng gồ ghề lồi lõm như mặt đất. Bạn cảm nghĩ gì về chuyện
trên? Khơng dùng thể tản văn, viết một đoạn văn về đề tài trên.


<b>6. Đề của tỉnh An Huy</b>


Xã hội là một cuốn sách, con người là một cuốn sách, thiên nhiên là một cuốn sách, cha
mẹ, bạn bè cũng là sách. "Đọc" là hiểu, là khám phá, là vượt qua; đọc sách giúp ta suy nghĩ,
thưởng thức. Viết một đoạn văn với đầu đề "Đọc", không hạn chế thể loại, số chữ trên 800.
<b>7. Đề của tỉnh Giang Tây</b>


Chim én non rất béo, bay không cao. Én mẹ bắt én con năng rèn luyện giảm béo để bay
cao. Viết một đoạn văn với chủ đề "Én giảm béo", đầu đề và thể loại tự chọn, số chữ 800.
<b>8. Đề của tỉnh Giang Tô</b>


Có người nói trên đời này vốn khơng có đường, người đi lại nhiều thì thành đường; lại
có người nói, đời này vốn có đường, vì người đi lại nhiều nên khơng cịn đường; có người
nói...


Viết một đoạn văn 800 chữ với đầu đề "Con người và đường đi", trừ thơ ca, không hạn
chế thể loại.


</div>


<!--links-->

×