Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Day hoc van hay bat dau tu Nhan de tac pham

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.16 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Dạy học văn: hãy bắt đầu từ nhan đề tác phẩm </b>



Từ thực tế giảng dạy, chúng tơi nhận thấy có nhiều con đường để tiếp cận với những giá
trị của tác phẩm, trong đó có một phương pháp khá đơn giản và hữu hiệu là tiếp cận từ
chính nhan đề của tác phẩm.




Nhà thơ Xuân Diệu đã có lần phát biểu đại ý các nhà văn khi đặt tên cho tác phẩm cũng
trăn trở như cha mẹ đặt tên cho con. Thật vậy, quá trình sáng tạo cũng “mang nặng đẻ
đau”, khi “đứa con tinh thần” ra đời nhà văn cũng có niềm vui sướng, hạnh phúc như
người mẹ người cha vừa có thêm một đứa con; rồi “đứa con tinh thần” ấy còn khiến nhà
văn phải bận tâm nhiều, chăm chút sau mỗi lần tái bản. Và có “đứa con tinh thần” đem lại
cho cha mẹ vinh quang, hạnh phúc, nhưng cũng có khơng ít nhà văn lao đao khốn khổ vì
“đứa con tinh thần” của mình.


Trong các đề thi tuyển sinh vào đại học, cao đẳng và thi tốt nghiệp THPT cũng đã khơng
ít lần đề cập ý nghĩa nhan đề tác phẩm. Ví dụ: “Giải thích ý nghĩa nhan đề “Rừng xà nu”
của Nguyễn Trung Thành”; “Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao đã mấy lần đổi tên?
Ý nghĩa của những tên gọi ấy?”, “Giải thích ý nghĩa nhan đề và lời đề từ bài thơ “Tiếng
hát con tàu” của Chế Lan Viên…




</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Như vậy, chỉ một nhan đề có vẻ bình thường đã gợi mở ra bao điều thú vị, sâu sắc.
“Vợ chồng A Phủ” (Tơ Hồi) cũng là một nhan đề có vẻ bình thường. Song thực ra
khơng phải là khơng có gì để khai thác: Mị và A Phủ vốn là những người xa lạ, nhưng do
một cảnh ngộ đặc biệt, họ đã đến với nhau và trở thành “Vợ chồng A Phủ”, quá trình trở
thành “vợ chồng” của họ là một sự vươn lên từ bóng tối đến ánh sáng; hồn cảnh đen tối
dưới ách áp bức của thống lý Pá Tra khiến họ thành vợ chồng, song chỉ có cách mạng
mới đem lại hạnh phúc bền vững cho họ; điều ấy lí giải vì sao cặp vợ chồng ấy đến với


cách mạng và trung kiên với cách mạng.


Với tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” của Hồng Phủ Ngọc Tường, người đọc đã
mê ngay từ cái nhan đề. Đó là một nỗi niềm, một sự vương vấn, một cảm xúc bâng
khuâng…mang một vẻ đẹp đầy chất thơ. Với nỗi niềm mê say ấy, tác giả đã dẫn dắt
người đọc đi đến tận cùng của tri thức văn hóa và thẩm mĩ đã tạo nên dịng sơng Hương,
cái nơi của văn hóa Huế.


“Vợ nhặt” cũng là một nhan đề độc đáo. “Vợ nhặt” nghĩa là gì? Sao tác giả không gọi là
“Nhặt vợ”? Cái khác biệt là ở chỗ: “nhặt vợ” là một động từ, còn “vợ nhặt” là một danh
<i>từ, chỉ một “loại” vợ (bên cạnh các “loại” vợ khác như: vợ đẹp, vợ trẻ, vợ ở quê…chẳng </i>
hạn). Và đọc xong tác phẩm, người đọc mới thấy hết được tính chất vừa hài hước, vừa
xót xa, bi thảm trong cái nhan đề ấy.


Ngay cả cách viết của tác giả đối với từng nhan đề cũng cần được lưu ý. Ví dụ Nguyễn
Tuân đã viết hoa chữ “Sơng” trong tác phẩm “Người lái đị Sơng Đà”, bởi vì theo cách
nhìn của ơng, sơng Đà khơng chỉ là một con sơng bình thường mà đã trở thành một “nhân
vật” đặc biệt, có cá tính, phẩm cách riêng; và trong tác phẩm, nhà văn đã nhiều lần sử
dụng thủ pháp nhân hóa để xây dựng hình tượng. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã
viết hoa chữ “Đất Nước”, thể hiện hàm ý tơn kính Tổ quốc thiêng liêng. Đối với những
tác phẩm thơ có nhan đề là “Vơ đề (“Khơng đề”) cũng khơng có nghĩa là khơng có gì để
nói. Thực ra đây là một thủ pháp dùng cái “không” để diễn tả cái “có”, cái vơ cùng, một
thủ pháp gợi mở tâm tư…Mặt khác nhan đề kiểu này thể hiện tình huống sáng tạo ngẫu
nhiên, tức cảnh sinh tình, cũng là một tín hiệu rất đáng lưu ý.




</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

như “Cảm hoài”, “Thuật hoài” (đều có nghĩa là “tỏ lịng’’), thể hiện tính chất “phi ngã”,
“vô ngã” của thi pháp văn học trung đại. Đến thời Thơ mới lãng mạn, nhan đề tác phẩm
thể hiện dấu ấn cái Tôi rất rõ nét. Nhiều người đã phân tích chữ “đây” trong các tác phẩm


“Đây thôn Vĩ Giạ” của Hàn Mặc Tử và “Đây mùa thu tới” thể hiện cảm hứng mời gọi,
dâng hiến, khát vọng giao cảm mãnh liệt…




Đối với trường hợp “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng rất đáng chú ý về phương diện
nhan đề. Tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân có nhan đề là “Kim Vân Kiều truyện”
(truyện về Kim Trọng-Thúy Vân-Thúy Kiều, bị cụ Ngô Đức Kế cho là kém), Nguyễn Du
lại đặt cho tác phẩm lục bát thuần Việt của mình một nhan đề Hán Việt là “Đoạn trường
tân thanh” (Tiếng kêu mới về những nỗi đau đớn như đứt ruột) nghe rất văn chương,
<i>“mùi mẫn”, thể hiện tập trung chủ đề của tác phẩm (Tố Như ơi lệ chảy quanh thân </i>
Kiều-Tố Hữu). Một số bản in vẫn lấy nhan đề của Thanh Tâm Tài Nhân. Thế nhưng người dân
đã gọi tác phẩm theo một cách khác, rất giản dị là “Truyện Kiều”, hay gọi theo kiểu tối
<i>giản là “Kiều” (ngâm Kiều, lẩy Kiều, mê Kiều…) nghĩa là câu chuyện về nàng Kiều, về </i>
cô Thúy Kiều, nhân vật trung tâm, sự thể hiện sinh động của một “kiếp đoạn trường”.
<i>Hầu như mọi người Việt Nam đều biết đến “Truyện Kiều”, thuộc một vài câu Kiều, </i>
nhưng những người biết tác phẩm cịn có một cái tên “gốc” Hán Việt khác, rất “kêu” là
“Đoạn trường tân thanh” thì khơng nhiều. Đây là một trường hợp “vi phạm bản quyền
nghiêm trọng”, song có lẽ mọi nhà văn đều muốn tác phẩm của mình bị “vi phạm” như
vậy. Bởi với cách “thay bậc đổi ngôi” ấy, tác phẩm của Nguyễn Du đã bất tử trong lòng
nhân dân.


Trong một số trường hợp, nếu không chú ý đúng mức đến nhan đề sẽ dẫn đến những ngộ
nhận không đáng có về nội dung tác phẩm. Ví dụ, tác giả SGK Ngữ văn 12 đã khái quát
nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải thành một
nhân vật tiêu biểu cho Hà Nội ngàn năm văn hiến. Nhưng theo chúng tơi, đó chưa hẳn đã
là chủ ý của nhà văn, bởi vì chính nhà văn đã thể hiện quan điểm tiếp cận của mình ở
nhan đề “Một người Hà Nội”-một góc nhìn mang tính cá nhân, để suy tư, chiêm nghiệm
về một con người bình thường của Hà Nội đã đi qua những chặng thăng trầm của lịch sử
đất nước. Rõ ràng với nhan đề ấy, nhà văn khơng muốn xây dựng nhân vật theo kiểu


“điển hình”, “người tốt việc tốt”, trở thành đại diện tiêu biểu cho một cái rất to tát và
thiêng liêng là bản sắc văn hóa của thủ đơ ngàn năm văn hiến.




</div>

<!--links-->

×