Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

11 bài Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử HAY CHỌN LỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285 KB, 60 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Ngữ văn 11</b>
<b>1. Dàn ý Đây thôn Vĩ Dạ</b>


<b>I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm</b>


- Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới.
- Bài thơ được rút ra từ tập Thơ Điên.


- Nội dung: Bài thơ là tình cảm hồi đáp mà Hàn Mặc Tử gửi cho Hoàng Thị Kim
Cúc khi Hồng Thị Kim Cúc gửi thư chúc ơng chóng lành bệnh kèm một bức tranh
phong cảnh.


- Bài thơ là sự đan xen hịa quyện giữa cảnh và tình nơi xứ Huế mộng mơ, nhẹ
nhàng.


<b>II. Thân bài:</b>


Khổ 1: Cảnh thiên nhiên xứ Huế
Câu 1:


<i>Sao anh không về chơi thôn Vỹ</i>


Câu thơ là dấu chấm hỏi lửng, thể hiện nỗi lịng nhớ thương, băn khoăn
- Đó là lời mời thân thiện, gắn bó


- Là lời trách móc, giận hờn khéo léo, thiết tha


- Thể hiện thời gian đã lâu rồi tác giả chưa ghé thăm thơn Vỹ.
Câu 2,3:


<i>Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên</i>


<i>Vườn ai mướt qua xanh như ngọc</i>


- Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật đẹp, căng tràn sức sống, tươi xanh
- Cảnh vật mang trong mình vẻ đẹp thanh tao, dịu nhẹ


- Tạo cho người đọc một cảm giác sảng khoái, êm đềm, du dương, bay bổng
Câu 4:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Hai hình dạng đối lập: vng vức mặt chữ điền với dáng vẻ manh mai, thanh tao
của lá trúc


- Thể hiện duyên dáng, nhịp nhàng, e thẹn của những cô gái xinh xắn, tài sắc, phúc
hậu của người con gái thôn quê.


Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng


- Vẻ đẹp của tạo hóa hiện lên với 2 màu sắc đan xen: cảnh đẹp nhưng lại buồn,
mang dáng dấp sự chia lìa, lẻ loi: gió theo lối gió, mây đường mây.


- Cuộc chia lìa ấy ghi vào lịng sơng những cung bậc thê lương: dịng nước buồn
thiu; hoa bắp lay lắt, nổi trơi.


- Cảnh vật chỉ là bức màn biểu hiện cho lòng người “người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ”. Cảnh thật đẹp cịn người lại chẳng thể về để thưởng thức thì cảnh liệu
rằng còn đẹp nữa hay chăng. Vỹ Dạ nhớ anh, lòng em cũng nhớ anh, mong anh.
Câu 3.4:


<i>“Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</i>
<i>Có chở trăng về kịp tối nay”</i>



Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng là nơi để con người
ta gửi gắm tình cảm, chút tâm tư sâu lắng. Thế nhưng o đây lại là “bến sơng trăng”.
Đây vừa là hình ảnh tả thực- ánh trăng chiếu xuống mặt nước, lan tỏa trên mặt nước
vừa là hình ảnh biểu trưng- sự vơ định (thuyền ai), mênh mơng dạt dịa. Nỗi niềm
tâm tư của tác giả như lan tỏa, thấm sâu, rộng lớn vơ ngàn. Trong người lúc này là
sự rưng rưng, xót xa, man mác đến nhói lịng.


- Mở rộng: Đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt
Nam” : “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.
Khổ 3: Mộng ảo của tâm hồn thi nhân.


- Khổ thơ là lời bộc bạch trần tình tả thực về bệnh tình của tác giả: bệnh tình của
người khiến hạn chế về thị giác: nhìn khơng ra, mờ nhân ảnh. Từ đó, khiến cho con
người rơi vào cô đơn; ngậm ngùi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Áo em trắng q nhìn khơng ra:


+ Hình ảnh người phụ nữ thướt tha uyển chuyển trong tà áo dài xứ Huế.


+ Ánh mắt anh do sự ảnh hưởng sức khỏe đã không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ
đẹp của em nhưng vẫn cảm nhận được hình bóng và dáng vẻ dịu dàng của em.
Ở đây sương khói mở nhân ảnh: Quang cảnh thiên nhiên nơi tác giả sinh sống. Với
tác giả mọi thứ giờ đây chỉ là ảo ảnh, mơ hồ, không hiện diện được rõ nét nữa.
Ai biết tình ai có đậm đà: Dù trong bệnh tật đau đớn, khó khăn, cơ đơn nhưng trái
tim tác giả vẫn đong đầy u thương: đó là tình u q hương đất nước, xứ xở và
tình cảm mãnh liệt gửi gắm đến em.


Tình cảm ấy lúc nào cũng dạt dào, đậm đà, say mê.
<b>III. Kết bài</b>



Nghệ thuật:


- Chuyển mạch thơ linh hoạt: không theo sự vận động của không gian thời gian
nhưng nhất quán và đồng điệu với tâm tư lòng người.


- Hình ảnh thơ giàu sức gợi, độc đáo, sử dụng những gam màu nóng nhẹ đan xen
nhẹ nhàng: mướt quá, xanh, nắng,…=> Tạo nên cõi trần gian hư thực mơ mộng, bay
bổng và tuyệt đẹp.


- Các câu hỏi tu từ cuối mỗi dòng thơ, mang nỗi niềm da diết khắc khoải.


- Nhịp điệu thơ không theo một quy luật nào mà bị chi phối bởi dòng chảy cảm xúc
và nội tâm chính tác giả.


=> Thể hiện sâu sắc nỗi lịng tác giả muốn gửi gắm.
Nội dung:


- Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả.
- Tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dành cho người bạn Hoàng Thị Kim Cúc.


- Khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được sống để cảm nhận và tận hưởng cho kì hết
những cái đẹp về cảnh và người nơi trần thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>3. Video Phân tích bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử</b>
<b>4. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1</b>


Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ
nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có
giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc
động nhất là bài “Đây thơn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức


tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết
yêu đời, yêu người:


<i>“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?</i>
<i>….</i>


<i>Ai biết tình ai có đậm đà”</i>


“Đây thơn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách
Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cơ
gái Huế có tên Hồng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dịng
sơng, con đị, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị
bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô
gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.


Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức
tranh thơ đẹp cịn tình người thì tha thiết nhớ mong:


<i>Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ</i>
<i>Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên</i>


<i>Vườn ai mướt quá xanh như ngọc</i>
<i>Lá trúc che ngang mặt chữ điền</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ khơng thay đổi nhưng nó trở nên khách
sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình. Trong câu thơ, nhà
thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là
một người thân thương hay chính cơ gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ.
Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh
Huế đẹp vậy mà mình khơng trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở


về Huế là điều khơng thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh.
Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hồi niệm.
Vì khơng thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Ba
câu thơ tiếp theo là hình ảnh thơn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:


<i>Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên</i>
<i>Vườn ai mướt quá xanh như ngọc</i>
<i>Lá trúc che ngang mặt chữ điền</i>


Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy
“nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3
gợi ra trong mắt người đọc một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét
sống động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là lồi cây cao nên đón ánh
nắng đầu tiên của ngày mới.


Khơng gian thơn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt
sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh
mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật
rực rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh
liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm.


Ánh nắng mới mẻ, tinh khơi như làm sáng bừng lên khơng gian khống đạt, rộng
lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng
cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thơn Vĩ. Hình ảnh tưởng
chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc
trong trái tim nhà thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>“Nhà anh có một hàng cau</i>
<i>Nhà em có một giàn trầu”</i>
Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:



<i>“Đường cỏ lơ mơ nắng</i>
<i>Mái tranh chìm chơi vơi</i>


<i>Vài tán cau mộc mạc</i>
<i>Thả hồn quê lên trời”</i>


Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi”
(Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh
của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho
người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn.


Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn
Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu khơng có một tình u nồng
nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần
thơ trong trẻo đến như vậy.


“Vườn ai”? không xách định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cơ gái Huế. “Mướt”
là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi
sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:


<i>“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá</i>
<i>Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”</i>


Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu
xanh đi liền với ánh sáng nhưng khơng chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể
hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai
mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ
nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ
đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy khơng
chỉ vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên
dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thơn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:


<i>“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn</i>


<i>Biếc che cần trúc không buồn mà say”</i>


Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:
<i>“Thầm thỉ hỡi ai ngồi dưới trúc</i>


<i>Nghe ra ý vị và thơ ngây”</i>


Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hịa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh
trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc,
lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ
đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm
đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao
trở về thôn Vĩ yêu thương.


Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì
sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm
chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:


<i>Gió theo lối gió, mây đường mây</i>
<i>Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay</i>


<i>Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</i>


<i>Có chở trăng về kịp tối nay</i>


Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dịng sơng Hương
ln chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế”
(Hồng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa
nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia
lìa “Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay. Phép nhân hố làm dịng sông như chở nặng
nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa.
Gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây
đường mây”. Nhìn xuống dịng sơng, thi nhân thấy dịng sơng trở nên “buồn thiu”,
cịn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt
vắng lặng. Chữ “lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử :


<i>Ai về Giồng Dứa qua trng</i>
<i>Gió lay bơng sậy bỏ buồn cho em</i>


Khơng gian sơng nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật
từ gió mây đến dịng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm
lịng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đơi ngả, dịng sơng mang đầy
tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của
một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vơ vọng, đơn
phương. Ths Phan Danh Hiếu


Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dịng sơng
Hương, là Huế thơ mộng nhưng khơng cịn nắng, cịn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt
người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng,
dòng sơng thì sơng trăng, bến thì thành bến trăng.



Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sơng trăng
độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang
trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hồi mong của thi nhân.
Đây khơng phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn
Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình khơng thể thiếu trong đời sống tâm
hồn thi nhân:


<i>“Trăng nằm sóng sỗi trên cành liễu</i>
<i>Đợi gió đơng về để lả lơi”</i>
<i>“Khơng gian đắm đuối tồn trăng cả</i>


<i>Anh cũng trăng mà em cũng trăng”</i>
Hay:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>“Ai mua trăng tôi bán trăng cho</i>
<i>Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ</i>


<i>Ai mua trăng tôi bán trăng cho</i>
<i>Chẳng bán tình dun ước hẹn thề”</i>


Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của
phương Tây vì thế nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng
trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cơ gái Huế, con
thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình u mà
nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn
cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua
với thời gian.


“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà
câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con


thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không?
Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hồi mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài
nghi của con người. Ths Phan Danh Hiếu


“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo
sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn
Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà
người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng
đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước
một cách riết róng:


<i>“Mơ khách đường xa, khách đường xa</i>
<i>Áo em trắng quá nhìn khơng ra</i>
<i>Ở đây sương khói mờ nhân ảnh</i>


<i>Ai biết tình ai có đậm đà?”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

khơng phải là “mong”, vì khơng mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt
đi nỗi cơ đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cơ gái Huế, và khách đường
xa xuất hiện trong màu áo trắng.


Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cơ gái Huế – nhất là
Hồng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ,
màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở
đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì
nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nh, hư ảo.


“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn
Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngồi kia” có xa xơi


mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ
như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong
mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao
năm làm điên đảo mộng thi ca:


<i>“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói</i>
<i>Gió trăng có sẵn làm sao ăn</i>
<i>Làm sao giết được người trong mộng</i>


<i>Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”</i>


Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vơ
vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết.
Nhà thơ trong trạng thái bị dày vị vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào
trống trải. Ths Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi
buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới
với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.
Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu
từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt
bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ,
đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cơ
đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Thầy Phan Danh
Hiếu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ khơng cịn gì phải hối tiếc. Trải qua bao
năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn cịn tươi ngun, nóng hổi và day dứt
trong lịng người đọc. “Tình u trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay
bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng
nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta


không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể
quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để
đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho
lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:


<i>“Xin chào Huế một lần anh đến</i>
<i>Để ngàn lần anh nhớ trong mơ</i>


<i>Em rất thực nắng thì mờ ảo</i>
<i>Xin đừng lầm em với Cố Đơ”</i>


-Thầy Phan Danh
<b>Hiếu-5. Phân tích Đây thơn Vĩ Dạ - Mẫu 2</b>


Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên
những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và
sung sướng, những phút giây mà ơng đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây
phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những
bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút
giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hịa quyện với thiên
nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn
đau.


Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình
yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hồ
vào lịng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu
thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cơ gái đối với
người u vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình q của


thơn Vĩ - vùng nơng thơn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh
Huế.


Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thơn Vĩ:
<i>Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên</i>


<i>Vườn ai mướt quá xanh như ngọc</i>
<i>Lá trúc che ngang mặt chữ điền.</i>


Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã
được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc.
Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng
sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những lia
nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau
nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt
khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.


Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.


Nắng mới cũng cịn có ý nghĩa là nắng của mùa xn, mở đầu cho một năm mới nên
bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống
làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm
đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung
xanh mịn:


<i>Vườn ai mướt quá xanh như ngọc</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh,
trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm


trong luồng khơng khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm
bụi. Lăng kính khơng khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà
mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu khơng có một tình u sâu nặng nồng nàn đối với
Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử khơng thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai
từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần
thơ này:


<i>Lá trúc che ngang mặt chữ điền.</i>


Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên
quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang
gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá
trúc mơ màng, hư hư thực thực.


Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sơng Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng
quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng
khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như giấc mộng:


<i>Gió theo lối gió mây đường mây</i>
<i>Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay</i>


<i>Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</i>
<i>Có chở trăng về kịp tối nay?</i>


Gió và mây để gợi buồn vì nó trơi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi
theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; khơng thể là bạn đồng
hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh
viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây
cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li,
tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác.


Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta
gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất:


<i>Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dịng sơng buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng,
quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm
trạng chính là thái độ của những người sơng trong vịng đời tối lăm, bế tắc. Mặt
nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt
lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều
hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc
Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật
tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:


<i>Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</i>
<i>Cỏ chở trăng về kịp tối nay?</i>


Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên
nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng lống chiếu xuống dịng sơng,
làm cho cả dịng sơng và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ
mộng quá! Và cũng đa tình q! Dịng nước buồn thiu đã hố thành dịng sơng trăng
lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình
yêu khát khao, nỗi ngóng trơng, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dịng sơng
trăng. Thơ lồng trong ngơn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ.
Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả
tình u bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng
trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình u chưa bị phơi pha. Hàn Mặc Tử
rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh
trăng gắt gao, kì qi, một ánh trăng khêu gởi, lả lơi:



<i>Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa</i>
<i>Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.</i>
Hay:


<i>Trăng nằm sóng sồi trên cành liễu</i>
<i>Đợi gió đơng về để lả lơi.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Thuyền ai đậu bế sông trăng đó</i>
<i>Có chở trăng về kịp tơi nay?</i>


Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở
về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận khơng có
tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ơng mặc cảm về thời gian cuộc
đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng khơng đợi vầng trăng
hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.


Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:
<i>Mơ khách đường xa, khách đường xa</i>


<i>Áo trắng q nhìn khơng ra;</i>
<i>Ở đây sương khói mờ nhân ảnh</i>


<i>Ai biết tình ai có đậm đà?</i>


Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình u ấy, ơng đã gửi tất cả
vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi
vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả chống
ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.
Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó
khiến thi nhân khơng khỏi khơng nghi ngờ:



<i>Ở đây sương khói mờ nhân ảnh</i>
<i>Ai biết tình ai có đậm đà?</i>


Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con
người như nhồ đi và có thể tình người cũng nhồ đi? Nhà thơ khơng tả cảnh mà tả
tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cơ gái Huế kín đáo q,
ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng?
Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ơng chỉ nói:


Ai biết tình ai có đậm đà?


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

và mãi mãi khơng có tình u trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã
khép lại nhưng lịng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó; và kết
thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thơn Vĩ Dạ sương khói hơn,
huyền bí hơn.


Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước
qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghe thuật gợi
liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lịng người.


Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn cịn ngun nóng hổi, lay động
day dứt lịng người đọc.


<b>6. Phân tích Đây thơn Vĩ Dạ - Mẫu 3</b>
<b>1. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ</b>


a) Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử phải là người bất hạnh nhất, lạ nhất và phức
tạp nhất. Vì thế cũng bí ẩn nhất. Có ai định tranh chấp với Tử những cái "nhất" ấy


khơng? Ví Tử với ngơi sao chổi, Chế Lan Viên đã thật có lí. Và cũng như thái độ
dành cho một ngôi sao chổi quá lạ, bao ống kính thiên văn đã đua nhau chĩa về Hàn
Mặc Tử. Tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma qi phát ra
từ ngơi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xơ đẩy bấy nhiêu. Đến nay đã có
bao cuộc thăm dị, thám hiểm. Với một hiện tượng "bấn loạn" nhường này, ướm đi
ướm lại, người ta thấy tiện nhất là xếp vào loại siêu: nào siêu thực, siêu thức, nào
siêu thoát v.v...


Vậy mà, nào đã thốt! Rốt cuộc, lơ lửng treo phía trước vẫn cứ cịn đó câu hỏi: Hàn
Mặc Tử, anh là ai?


Ngày trước, cuộc xung đột "bách gia bách ý" chỉ xảy ra với Hàn Mặc Tử, nói chung.
"Đây thơn Vĩ Dạ" vẫn hưởng riêng một khơng khí thái bình. Phải đến khi được
mạnh dạn tuyển vào chương trình phổ thơng cải cách, sóng gió mới ập đến cái thơn
Vĩ bé bỏng của Tử. Thế mới biết, chả hồng nhan nào thốt khỏi trn chun! Có
người hạ bệ bằng cách chụp xuống một lí lịch đen tối. Người khác đã đem tới một
cái bóng đè. Khơng ít người thẳng tay khai trừ "Đây thôn Vĩ Dạ" khỏi danh sách
những kiệt tác thuộc phần tinh chất của hồn thơ Tử...


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

và người Huế). Người khơn ngoan thì làm một gạch nối: tình yêu - tình quê. Kẻ bảo
hướng ngoại. Người khăng khăng hướng nội. Lắm người dựa hẳn vào mối tình
Hồng Cúc như một bảo bối để tham chiến. Người khác lại dẹp béng mảng tiểu sử
với cái xuất xứ khơng ít quan trọng ấy sang bên để chỉ đột phá vào văn bản khơng
thơi. Người khác nữa lại hồn tồn "dùng ngồi hiểu trong, dùng chung hiểu riêng",
ví như dùng lí sự chung chung về cái tơi lãng mạn và tâm trạng lãng mạn để áp đặt
vào một trường hợp rất riêng này... Tôi tin Hàn Mặc Tử không bác bỏ hẳn những
cực đoan ấy. Nếu sống lại, thi nhân sẽ mỉm cười độ lượng với mọi ý kiến vì quá yêu
Vĩ Dạ bằng những cách riêng tây mà nghiêng lệch thơi. Ở tồn thể là thế. Mà ở chi
tiết cũng khơng phải là ít chuyện. Ngay một câu "Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
cũng gây tranh cãi.



Cái màn "sương khói" làm "mờ nhân ảnh" là ở Vĩ Dạ hay thuộc chốn người thi sĩ
đang chịu bất hạnh, cũng gây bất đồng... Hèn chi, hai tờ báo nhiều liên quan đến
nhà trường và văn chương là Giáo dục & Thời đại và Văn nghệ được phen chịu trận.
Dù muốn hay khơng, nó cũng đã thành một "vụ" thực sự thời bấy giờ. Đến nay, khó
mà nói các ý kiến đã chịu nhau. Tình hình xem ra khá mệt mỏi, khó đặt được dấu
chấm hết. Hai báo đành thổi còi thu quân với vài lời tiểu kết nghiêng về "điểm
danh". Một độ sau, nhà giáo-nhà nghiên cứu Văn Tâm khi soạn cuốn Giảng văn văn
học lãng mạn (NXB Giáo Dục, 1991) đã điểm sâu hơn.


Rồi nhà biên soạn này cũng nhanh chóng trở thành một ý kiến thêm vào cái danh
sách dài dài đó. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ lại tiếp tục đua chen. Khói hương và cả
khói lửa, vì thế, tràn lan ra nhiều báo khác, sang tận tờ Tập văn thành đạo của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam [1], động đến cả những người ở Hoa Kỳ, Canada...


Chắc là hiếm có bài thơ nào trong trẻo thế mà cũng bí ẩn đến thế. Xem ra, cái chúng
ta "gỡ gạc" được mới thuộc phần "dễ dãi" nhất ở đó thơi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

khơng nói là trở nên kém thiêng. Thôn Vĩ Dạ dường vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt",
cự tuyệt ngay cả những linh khiếu vốn cả tin vào một trực giác đơn thuần. Vĩ Dạ
vẫn điềm nhiên giấu kín ngay trong sự trong trẻo kia bao bí ẩn của nó. Muốn đến
đúng chỗ giấu vàng của Thôn Vĩ, trực cảm nhất thiết phải được trang bị thêm một
"sơ đồ chỉ dẫn", một chìa khố. Những thứ này, tiếc rằng, cũng giấu mình khắp
trong thơ Hàn Mặc Tử. Nói cách khác, mỗi tác phẩm sống trong đời như một sinh
mệnh riêng, tự lập. Có một thân phận riêng, một giá trị riêng, tự thân. Đọc văn, căn
cứ tin cậy nhất, trước sau, vẫn là văn bản tác phẩm. Đó là một ngun tắc. Và nhiều
khi khơng biết gì về tác giả, vẫn có thể cảm nhận được tác phẩm. Nhưng hiểu và
hiểu thấu đáo là hai cấp độ. Khơng am tường tác giả thì khó mà thấu đáo tác phẩm.
Trường hợp trong trẻo mà đầy bí ẩn như "Đây thôn Vĩ Dạ", với một vị thân sinh đầy
phức tạp như Hàn Mặc Tử càng cần phải thế. Nghĩa là: thiếu cái nhìn liên văn bản,


cùng những khám phá về thân phận, tư tưởng và thi pháp của tác giả sẽ khó giúp ta
soi sáng được thi phẩm này.


Trong nhiều điều cần cho sự soi sáng thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, khơng thể khơng
nói đến một tình yêu tuyệt vọng, lối Thơ Điên và lớp trầm tích những biểu tượng và
ngơn ngữ thuộc hệ thống thi pháp của thi sĩ này. Nếu tình yêu tuyệt vọng quyết định
đến điệu tình cảm chung, thì lối Thơ Điên quyết định trình tự cấu tứ, cơ cấu khơng
gian. Trong khi lớp biểu tượng và ngôn ngữ ở tầng trầm tích lại quyết định đến hệ
thống hình tượng, hình ảnh của thi phẩm đặc sắc này.


<b>2. Vĩ Dạ trong Đau thương và Thơ điên</b>


a) Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng tập thơ quan trọng nhất của thi sĩ chính
là Đau thương. Thực ra ban đầu Hàn Mặc Tử đã đặt cho nó một tên khác, dễ sợ hơn:
Thơ điên. Hai cái tên có thể hốn cải cho nhau, là một điều đáng để cho ta lưu ý. Nó
nói rằng Tử ý thức rất sâu sắc về mình. Thì Đau thương và Điên chính là Hàn Mặc
Tử vậy.


Đau thương là cội nguồn sáng tạo, còn Điên là hình thức của sáng tạo ấy. Đọc ra
điều này khơng khó, nhưng nhận diện bản chất của Đau thương lại không dễ. Chả
thế mà người ta cứ đánh đồng "đau đớn thân xác" với "đau khổ tinh thần", và cứ coi
Điên chỉ giản đơn là một trạng thái bệnh lí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

dứt tình yêu. Càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Con
người ta đi đến tuyệt vọng có thể vì những ngun uỷ rất riêng tây kín khuất, đơi
khi ta bất khả tri (một thiếu hụt, tổn thương, một mất mát nào đó trong tâm thể,
chẳng hạn!). Hàn Mặc Tử có lẽ thuộc số đó. Ai cũng biết chết là một cuộc chia lìa
tất yếu và đáng sợ. Sống có nghĩa là đang chia lìa. Nhưng, may thay, hết thảy chúng
ta đều có khả năng quên đi mà vui sống. Còn ở những người như Tử lại không được
trời phú cho cái khả năng quên. Càng mắc những bệnh trầm trọng lại càng ám ảnh.


Sống trong dự cảm khôn nguôi về thời khắc chia lìa, Tử thường tự đẩy mình (giời
xơ đẩy thì đúng hơn) đến điểm chót cùng của tuyệt vọng để nuối đời, níu đời. Nói
khác đi, Tử làm thơ bên miệng vực của nỗi chết. Không ai yêu sống, yêu đời hơn
một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống! Thơ Tử là tiếng nói của niềm u ấy. Và trong
lăng kính lạ lùng của niềm yêu ấy, cảnh sắc trần gian này thường ánh lên những vẻ
khác thường: lộng lẫy, rạng rỡ, thanh khiết hơn bao giờ hết. Mà càng đẹp, càng
tuyệt vọng ; càng tuyệt vọng, lại càng đẹp! Thế là Đau thương chứ sao! Đau thương
không chỉ là cung bậc mà cịn chính là dạng thức cảm xúc đặc thù của Hàn Mặc Tử.
Mỗi lần cầm bút khác nào một lần nói lời tuyệt mệnh, lời nguyện cuối. Cho nên mỗi
lời thơ Tử thực là một lời bày tỏ da diết đến đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng.
Và như thế, điều ối oăm đã hình thành: Tuyệt vọng đã trở thành một cảm quan,
một cách thế yêu đời đặc biệt của Hàn Mặc Tử.


Có thể nói, đó là nghịch lí đau xót của một thân phận. Và nghịch lí này lại cũng là
cấu trúc của tiếng nói trữ tình Hàn Mặc Tử: niềm yêu là một nỗi đau, mỗi vẻ đẹp là
một sự tuyệt vọng, cảnh sắc lộng lẫy chỉ là phía sáng của tấm tình tuyệt vọng. Ý
thức rõ về điều này, nên trong bài thơ viết cho Thanh Huy - một người tình trong
mộng - Tử đã tự họa bằng cặp hình ảnh nghịch lí trớ trêu: Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ
gấm. Thơ Tử là thế! Hàng chữ gấm (trong trẻo, tươi sáng) chỉ là phía thấy được của
đơi mắt mờ lệ (u ám, đau thương) khuất chìm phía sau mà thơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?</i>
<i>Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên</i>


<i>Vườn ai mướt quá xanh như ngọc</i>
<i>Lá trúc che ngang mặt chữ điền</i>


<i>...</i>


<i>Thuyền ai đậu bến sông trăng đó</i>


<i>Có chở trăng về kịp tối nay?</i>


<i>...</i>


<i>Ở đây sương khói mờ nhân ảnh</i>
<i>Ai biết tình ai có đậm đà?</i>


Âm điệu của những câu hỏi ấy được cất lên từ một niềm thiết tha với cuộc đời đến
mức thương tâm của một hồn đau. Ở bài thơ vốn được xem là kiệt tác này, niềm yêu
đau đáu đến tuyệt vọng cịn hố thân thành một mặc cảm sâu xa, thấm đẫm vào tồn
thể thi phẩm: mặc cảm chia lìa. Trước tiên, nó quyết định đến hình ảnh cái Tơi của
thi sĩ, đồng thời nó đổ bóng xuống cảm quan khơng gian của Hàn Mặc Tử, nó dàn
dựng nên các tương quan không gian của "Đây thôn Vĩ Dạ". Đặt bài thơ vào hoàn
cảnh sáng tác và tâm thế sáng tạo bấy giờ của thi sĩ, ta có thể thấy những điều ấy rõ
hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

trong mộng miệng em cười / Em cười anh cũng cười theo nữa / Để nhắn lòng anh đã
tới nơi. Đọc thơ Hàn, dễ thấy Ngoài kia và Trong này (hay ở đây) là hai thế giới
hoàn toàn tương phản. Ngoài kia: mùa xuân, thắm tươi, đầy niềm trăng, đầy ý nhạc,
tràn trề ánh sáng, là cuộc đời, trần gian, là sự sống, hi vọng, hạnh phúc... Trong này:
chẳng có mùa, khơng ánh sáng, khơng trăng, không nhạc, âm u, mờ mờ nhân ảnh, là
lãnh cung, là trời sâu, là địa ngục, bất hạnh... Trong này chỉ về lại được Ngoài kia
bằng ước ao thầm lén, bằng khắc khoải tuyệt vọng mà thôi.


Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng về
Ngồi kia trong hồn Tử. Thơn Vĩ Dạ hiện lên như một địa danh khởi đầu, một địa
chỉ cụ thể của Ngồi kia. Nói khác đi. Ngồi kia trong cái giờ khắc ấy đã hiện lên
bằng gương mặt Vĩ Dạ. Thèm về thăm Vĩ Dạ cũng là thèm khát về với Ngoài kia,
về với cuộc đời, với hạnh phúc trần gian. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn
Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là một địa danh cụ thể vừa được tượng trưng hoá [2]. Trong văn


bản của thi phẩm này, có thể thấy tương quan khơng gian như thế ở hai nơi chốn:
"thơn Vĩ" (Ngồi kia) và "ở đây" (Trong này). Hình tượng cái Tơi thi sĩ hiện ra như
một người đang "ở đây", ở trong này mà khắc khoải ngóng trơng hồi vọng về "thơn
Vĩ", về Ngồi kia. Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiết với đời mà đang
phải lìa bỏ cuộc đời, đang bị số phận bỏ rơi bên trời qn lãng, đang chới với trong
cơ đơn, đang níu đời, nuối đời. Đây thôn Vĩ Dạ chẳng phải là lời tỏ tình với thế giới
Ngồi kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao? Chẳng phải lời tỏ tình ấy
càng vơ vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thêm vô vọng hay sao?
b) Đau thương đã tìm đến "thơ điên" như một hình thức đặc thù đối với Hàn Mặc
Tử, nhất là ở giai đoạn sau [2]. Sẽ khơng q lời khi nói rằng Tử đã buộc chúng ta
phải xét lại cái quan niệm hẹp hòi lâu nay về "điên" và "thơ điên". Ta quen thấy
điên chỉ như một trạng thái bệnh lí mà qn hẳn rằng cịn có điên như một trạng thái
sáng tạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22></div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

những quãng đứt nối, khiến người đọc cứ mặc nhiên coi rằng bài thơ là sự nới rộng
cùng một không gian Vĩ Dạ, mà khơng thấy rằng đó là sự ghép nối rất bất chợt, xuất
thần giữa các vùng khơng gian vốn góc biển chân trời ("thơn Vĩ" là Ngồi kia, cịn
"ở đây" là Trong này). Theo tài liệu đáng tin cậy mới đây của Phạm Xuân Tuyển,
trong cuốn Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử, Nxb. Văn học 1997, thì bài thơ vốn có
tên đầy đủ là "Ở đây thơn Vĩ Dạ". Bấy giờ, Tử đang tuyệt giao với tất cả, đến ở một
chốn hoang liêu mạn Gị Bồi, cách li hồn tồn với bên ngồi để chữa bệnh. Theo
đó thì, cái nơi chốn "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh" lại càng là sự biểu hiện trực
tiếp của chốn "trời sâu" bất hạnh mà Tử đang bị lưu đày - "Tôi đang cịn đây hay ở
đâu? / Ai đem tơi bỏ dưới trời sâu? / Sao bông phượng nở trong màu huyết / Nhỏ
xuống lịng tơi những giọt châu?". Có hiểu như thế ta mới thấy lối biểu hiện phức
tạp của "thơ điên" và tình yêu tuyệt vọng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử.


Tóm lại, nếu mạch "liên tưởng điên" tạo ra một văn bản hình tượng có vẻ "đầu Ngơ
mình Sở", thì dịng tâm tư bất định lại chuyển lưu thành một âm điệu liền hơi. Hệ
quả là: dịng hình ảnh thì tán lạc, nhưng dịng cảm xúc lại liền mạch. Bởi thế Đây


thôn Vĩ Dạ vẫn là một phẩm "thơ điên". Đó là phi logic ở bề mặt nhưng lại nguyên
phiến, nguyên điệu ở bề sâu. Tất cả vẫn khiến cho thi phẩm là một nguyên khối. Vì
thế, vào cõi thơ Hàn Mặc Tử, không chỉ cần chú mục vào phần "lộ thiên", mà cần
đào rất sâu vào tầng "trầm tích" nữa! Chú thích:


[1] Ở số PL 2535, tác giả Võ Đình Cường đã cơng bố một tư liệu quan trọng liên
quan đến cách hiểu bài thơ này: Bức thiếp phong cảnh Tử nhận được khơng phải là
ảnh Hồng Cúc trong tà áo dài trắng nữ sinh Đồng Khánh… Điều này cho thấy việc
trói chặt nội dung bài thơ vào sự kiện Hồng Cúc là vơ lối.


[2] Có thể các nhà thơ thuộc Trường Thơ Loạn ít nhiều ảnh hưởng quan niệm "thơ
điên" thuộc chặng cuối của thi phái Tượng trưng Pháp, mà người đại diện là
Mallarme… Riêng Hàn Mặc Tử đến với "thơ điên" chủ yếu là do logic nội tại.
[3] Các ý kiến của Vũ Quần Phương (trong Thơ với lời bình), Lê Quang Hưng
(trong Tác phẩm Văn học) và Nguyễn Hữu Tuyển (trong Nỗi oan cần được giải)
đều nhận xét rằng: "bề ngoài câu chữ tưởng như rất lỏng lẻo chẳng ăn nhập gì" (Văn
nghệ phụ san số 5.1990)


3. Bước vào thi phẩm


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

vẻ đẹp tư tưởng của nó. Mà lõi cốt của tư tưởng ấy khơng thể là gì khác hơn một
quan niệm nào đó về cái đẹp. Sự tương phản giữa hai miền không gian vừa nói trên
đây ở Đây thơn Vĩ Dạ, khơng chỉ là mặc cảm của một con người đang phải chia lìa
với cuộc đời. Sâu sắc hơn, thấm thía hơn, đó cịn là mặc cảm của một thi sĩ đang
phải ngày một lìa xa cái đẹp mà mình hằng khao khát, tôn thờ. Ai đã đọc Hàn Mặc
Tử hẳn phải thấy rằng chuẩn mực quan trọng nhất của cái đẹp theo quan niệm của
Tử chính là sự thanh khiết. Điều này vừa có nguồn gốc từ trong nhỡn quan của một
thi sĩ trước cuộc đời, vừa từ tín niệm tơn giáo của một kẻ mộ đạo. Ở cảnh vật, nó
hiện ra thành vẻ thanh tú (thiên nhiên lí tưởng theo Tử phải là "chốn nước non thanh
tú"). Ở con người, nó hiện ra trong vẻ trinh khiết (đầy đủ là "trinh khiết mà xuân


tình"). Quan niệm về cái đẹp như thế đã chi phối ngòi bút Hàn Mặc Tử khi thể hiện
con người và thiên nhiên. Trong thi phẩm này có sự hiện diện của những hình tượng
cơ bản Vườn thôn Vĩ, Sông trăng - thuyền trăng, Khách đường xa đều là những biểu
hiện sống động của của vẻ đẹp thanh khiết đó. Trong mặc cảm chia lìa, tất cả những
vẻ đẹp kia đều khiến Tử lâm vào tuyệt vọng. Và đương nhiên, Tử đã cảm nhận
chúng qua lăng kính của niềm tuyệt vọng. Có thể trường hợp Tử là một minh chứng
đáng sợ cho định nghĩa về cái đẹp của Pôn Valeri: Cái đẹp là cái làm ta tuyệt vọng.
Mặc cảm chia lìa ở đây, dường như, đã hiện ra trong cảm giác về một thực tại xa
vời, một hiện tại quá ngắn ngủi và sự tồn tại mong manh của mình. Khơng chỉ thấm
vào hơi thơ, giọng thơ khiến cho cả mạch thơ được phổ một âm điệu da diết khắc
khoải thật ám ảnh, mà trước tiên, mặc cảm chia lìa với các cảm giác éo le kia đã hố
thân vào từng hình ảnh, từng cảnh sắc của thi phẩm này.


b) Hãy đi vào từng khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà chẳng biết giờ đây có cịn cơ hội để thực
hiện nữa không. Ấy là về lại thôn Vĩ, thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Ta đều biết tuổi
nhỏ Tử đã từng học trường Pellerin ở Huế, và khi in xong tập "Gái q", Tử đã từng
đến tìm Hồng Cúc tại thơn Vĩ mà rồi chỉ nấp nom ngoài rào trúc chứ không dám
vào. Giờ đây, nhận được bức thiếp phong cảnh này, niềm khát khao đã cất lên thành
lời tự vấn ối oăm vậy. Cịn ba câu sau vẽ ra hình tượng mảnh vườn thơn Vĩ: Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang
mặt chữ điền.


Mỗi câu là một chi tiết vườn. Tất cả đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú.
Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một mơ-típ ám ảnh. Nào vườn trần,
vườn tiên, vườn chiêm bao... Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang
chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là "chốn nước non thanh tú". Phải, thiên
nhiên mà Tử say đắm dứt khốt phải có vẻ đẹp thanh tú! Khơng thế, Tử khó mà
động bút. Dường như các mảnh vườn kia đã hò hẹn nhau đầu thai thành mảnh vườn


Vĩ Dạ này. Chả thế mà chi tiết nào của nó dù đơn sơ cũng tốt lên vẻ tinh khơi, dù
bình dị cũng tốt lên vẻ thanh khiết cao sang. Nghĩa là một "chốn nước non thanh
tú" hoàn toàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

"ngọc" chăng? Quả là hai chữ ấy đã đập ngay vào trực cảm người đọc. "Mướt" ánh
lên vẻ mượt mà óng ả đầy xn sắc. Cịn "ngọc" là tinh thể trong suốt nên vừa có
màu vừa có ánh. Nhờ đó, vườn thơn Vĩ như một viên ngọc khơng chỉ rời rợi sắc
xanh, mà cịn đang tỏa vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Thiếu đi những ánh sắc
ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú cao sang. Tuy nhiên,
nếu chỉ dừng ở đó khơng thơi, ta mới chỉ thấy tầng lộ thiên của chữ "ngọc". Ẩn bên
dưới, vẫn còn tầng trầm tích nữa. Khảo sát phong cách ngơn ngữ Hàn Mặc Tử, thấy
thi sĩ này rất ưa dùng những vật liệu cao sang, nhất là ở giai đoạn cuối. Từ "Thơ
điên" trở đi, các trang đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ
hương, mộc dược... đặc biệt là ngọc. "Ngọc" vừa được dùng lối ước lệ cổ điển như
tay ngọc, mắt ngọc, đũa ngọc... vừa được dùng lối trực quan. Mà dù theo lối nào nó
cũng là so sánh ở mức tuyệt đối:


"Đức tin thơm hơn ngọc / Thơ bay rồi thơ bay", "Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc /
Cả một mùa xuân đã hiện hình"... Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hố, tột cùng hố vẻ
đẹp đẽ, q giá, cao sang của đối tượng. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện
khi niềm thiết tha với cuộc đời trần thế dâng trào đến mức đau đớn. Càng đẹp lại
càng đau.


Cho nên, trong so sánh với "ngọc" luôn thấy chất chồng một cách oái oăm cả hai
tâm thái: cảm giác càng tinh tế, cảm xúc càng đau thương. Ở đây cũng thế, Vườn ai
mướt quá xanh như ngọc chứa đựng trong đó một cảm nhận về vẻ đẹp ở mức tột bậc
và cả niềm thiết tha ở mức đau thương. Cũng phải thôi, lộng lẫy đến thế, ngay trước
mắt thế, mà đang vuột ra ngồi tầm tay của mình, thì làm sao tránh khỏi đau
thương!



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

hố, mơng lung hố. Cũng trong câu này, khơng thể khơng dành quan tâm ít nhiều
đến chữ "quá", bởi hiệu quả nghệ thuật riêng của nó. Cũng là từ chỉ mức độ, nhưng
xem ra chỉ có nó mới đem đến cho câu thơ âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng,
trầm trồ như chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn, mà có lẽ ở khoảnh khắc
trước chưa thấy, khoảnh khắc sau cũng chưa hẳn đã thấy. Ta sẽ còn gặp ở khổ cuối
tiếng kêu như thế nữa - áo em trắng quá nhìn khơng ra. Nó cũng là tiếng kêu muốn
tuyệt đối hoá vẻ đẹp của đối tượng. Nghĩa là những tiếng kêu hàm chứa nỗi đau
thương. Trong khổ này, câu thứ tư đã gây nhiều tranh luận: Lá trúc che ngang mặt
chữ điền. Gương mặt kia là phụ nữ hay đàn ơng? Lối tạo hình của nó là cách điệu
hay tả thực? Ý kiến xem ra chưa ngã ngũ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

với cuộc đời Ngoài kia một cách thầm lén, vụng trộm. Tử hình dung mình trở về
thơn Vĩ (hay tái hiện lại cái lần mình đã trở về mà khơng vào, chỉ nép ngồi rào
trúc, thì cũng thế!), vin một cành lá trúc, che ngang khn mặt mình để mà nhìn
vào, say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Hiểu thế mới thấy câu thơ kia, hoá ra
là sản phẩm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt mà cũng là sản phẩm của một tâm
hồn đầy mặc cảm về thân phận mình. Trong đó chẳng phải giấu kín một niềm uẩn
khúc đáng trân trọng mà cũng thật đáng thương sao? Song, hẳn sẽ có ý thắc mắc
rằng: mạch thơ đang vẽ đối tượng (cảnh nơi thôn Vĩ) sao thoắt lại chuyển sang vẽ
chủ thể (cái tôi thi sĩ), liệu có cóc nhảy, phi logic khơng? Đúng thế. Nhưng, như bạn
biết đấy, cóc nhảy và phi logic trên bề mặt chính là một đặc trưng của mạch liên
tưởng "thơ điên". Sự chuyển kênh đột ngột ấy, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một
niềm thiết tha vô bờ mà cũng đầy uẩn khúc của Tử mà thôi.


Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất này, cảnh sắc là thôn Vĩ mà cũng là Ngoài kia,
vườn Vĩ Dạ mà cũng là vườn trần gian. Qua lăng kính của mặc cảm chia lìa, cả
những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Với Tử đó là thiên đường trần
gian - một thiên đường giờ đây dường như không thuộc về mình nữa, đang tuột khỏi
tầm mình. Về thơn Vĩ vốn là việc bình thường, với Tử giờ đây lại thành một ước ao
- ước ao quá tầm với, thành một hạnh phúc - hạnh phúc quá tầm tay.



Khổ thứ hai chuyển sang một cảnh khác: cảnh dịng sơng. Hiểu là sơng Hương cũng
được mà dịng sơng nào đó của cuộc đời Ngồi kia cũng được.[7] Mặc cảm chia lìa
ở đây hiện ra cả trong câu chữ, hình ảnh và nhạc điệu:


<i>Gió theo lối gió mây đường mây</i>
<i>Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay</i>


<i>Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</i>
<i>Có chở trăng về kịp tối nay?</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

mây gió đã bỏ buồn vào lịng sơng? Khó mà đốn chắc. Lạ nhất là chữ "lay". Động
thái "lay" tự nó khơng vui khơng buồn. Sao trong cảnh này nó lại buồn hiu hắt vậy?
Nó là nét buồn phụ họa với gió mây sông nước? Hay nỗi buồn sông nước đã lây
nhiễm, đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp phất phơ này? Thật khó mà tách bạch. Có
phải có một chữ "lay" buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió
thời gian mà đậu vào thơ Tử: Ai về giồng dứa qua trng / Gió lay bơng sậy bỏ
buồn cho em? Có phải chữ "lay" ấy lại trơi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập
vào lá ngô của thơ Trúc Thông: Lá ngô lay ở bờ sơng - Bờ sơng vẫn gió người
khơng thấy về? Và tất cả những chữ "lay" kia có phải đều dây mơ rễ má với chữ
"hiu hiu" đầy ám ảnh của thơ Nguyễn Du: Trông ra ngọn cỏ lá cây / Thấy hiu hiu
gió thì hay chị về"? Hiu hiu, lay động đều là tín hiệu báo sự hiện hữu. Cứ nhìn thấy
thế là người ngóng trơng nhận ra sự trở về nào đó từ cõi vơ hình. Cịn Tử nhìn hoa
bắp lay để nhận ra sự phiêu tán, sự ra đi. Cả mây, gió, cả dịng nước cứ lìa bỏ nhau
và đều lìa bỏ chốn này mà đi hết cả. Chỉ riêng hoa bắp là cái tĩnh tại, không thể tự
nhấc mình lên mà lưu chuyển. Bị bỏ rơi lại bên bờ, động thái "lay" kia có phải là
một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa? Có phải Tử đã thấy
hoa bắp cơi cút bên sơng như vận vào mình? Có phải mặc cảm chia lìa đã khiến Tử
nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình trong dáng "lay" sầu tủi
của hoa bắp?



Đối mặt với cái xu thế tất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vuột xa ngồi
tầm sống của mình ấy, Tử chợt ao ước một thứ có thể ngược dịng về với mình, ấy
là trăng. Phải, mây đã đi, gió đã đi, dòng nước cũng đi... may ra chỉ còn trăng thơi:


<i>Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó</i>
<i>Có chở trăng về kịp tối nay?</i>


Trong bài thơ này có hai chữ "về". Nếu chữ thứ nhất là về với Vĩ Dạ, với Ngồi kia
(Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?), thì chữ thứ hai đây đã đổi hướng, là về phía Tử,
về với Trong này. Cũng phải thôi, trong "lãnh cung" của sự chia lìa, vốn "khơng có
niềm trăng và ý nhạc", nên Tử đã đặt vào trăng kì vọng của mình: Có chở trăng về
kịp tối nay?


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ khơng bóng bảy ồn ào. Nhưng
nó vẫn đẹp trong quên lãng. Ấy là chữ "kịp". Chữ "kịp" mới mang bi kịch của tâm
hồn ấy, thân phận ấy. Ta và cả người đọc sau ta nữa chắc chắn không thể biết "tối
nay" kia là tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng khắc khoải và qua chữ "kịp" này ta
nhận ra một lời cầu khẩn. Dường như, nếu trăng không về "kịp" thì kẻ bị số phận bỏ
rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh
viễn đau thương. Như thế, chữ "kịp" đã hé mở cho ta một cách thế sống: sống là
chạy đua với thời gian. Một so sánh với Xuân Diệu có thể thấy rõ Tử hơn. Cũng
chạy đua với thời gian, nhưng ở Xuân Diệu là để được hưởng tối đa, sống để mà tận
hưởng mọi hạnh phúc nơi trần giới, bởi đời người quá ngắn ngủi, cái chết sẽ chờ đợi
tất cả ở cuối con đường, còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tối thiểu, chỉ được sống không
thôi đã là hạnh phúc rồi, bởi lưỡi hái của tử thần đã hơ lên lạnh buốt sau lưng. Quĩ
thời gian đang vơi đi từng giờ từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn đã sát gần. Trong
cảnh ngộ này, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô
đơn đang chới với trong nguy cơ chia lìa đương vây khốn. Thơ là sự lên tiếng của
thân phận, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.



Khổ thứ ba, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Khác hẳn các đoạn
trước, nhịp thơ ở đây gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn:


<i>Mơ khách đường xa, khách đường xa</i>
<i>Áo em trắng quá nhìn khơng ra</i>


Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Tất cả đều
là những hình ảnh đầy mời gọi của thế giới Ngồi kia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

q nhìn khơng ra là bởi lẫn và sương khói. Khơng phải thế. "Áo em trắng q nhìn
khơng ra" chính là một tiếng kêu, một cách cực tả sắc trắng ở sắc độ tuyệt đối, tột
cùng. Trắng đến mức lạ lùng, khơng cịn tin vào mắt mình nữa (tựa như tiếng kêu
vườn ai mướt quá xanh như ngọc đã phân tích ở trên). Đừng lầm tưởng rằng đây là
lời thú nhận về sự bất lực của thị giác.


Như thế, cuối cùng, mơ tưởng da diết khắc khoải hơn hết thảy vẫn là dành cho con
người, vẫn là hướng tới những người tình xa. Bởi phải chia lìa với thế giới Ngồi
kia, có lẽ mất mát lớn nhất, niềm đau thương nhất vẫn là phải chia lìa với người
mình yêu vậy.


Đến đấy, Tử quay trở về với thực tại u ám của mình, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm
mịt mờ:


<i>Ở đây sương khói mờ nhân ảnh</i>
<i>Ai biết tình ai có đậm đà?</i>


Được viết gần như đồng thời với bài "Những giọt lệ", cho nên ta cứ nghe đâu đây
trong những câu chữ kia tiếng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như
hi vọng, như tuyệt vọng: "Tơi đang cịn đây hay ở đâu? / Ai đem tôi bỏ dưới trời


sâu?" và "Trời hỡi bao giờ tôi chết đi? / Bao giờ tôi hết được u vì?"... Tử u đời
đến đau đớn. Cịn cuộc đời, tình đời cịn dành cho Tử được bao nhiêu, được bao
lâu? Cuộc đời Ngồi kia vẫn cứ kì diệu thế, vẫn "cách xa nghìn thế giới" như thế,
vẫn cứ cách ở đây hẳn một tầm tuyệt vọng như thế. Tồn tại ở đây, ở trời sâu này thật
quá đỗi mong manh. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc Tử với ngồi
ấy. Thế mà cái tình kia cũng mong manh xa vời làm sao? Câu hỏi cuối cùng khép
lại tồn bộ dịng tâm tư bất định này là tiếng thở dài hay là lời cầu mong của một kẻ
thiết tha gắn bó đến cháy lịng? Có lẽ là cả hai. Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là
nét lạ lùng nhất trong cấu trúc của tiếng nói trữ tình Đây thơn Vĩ Dạ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>7. Phân tích bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ - Mẫu 4</b>


Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một "Cây nấm
lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc". Cái "lạ" của thơ mới, có người biết, có người
chưa biết, nhưng cái "lạ" mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng
thơ, thì hẳn ai cũng rõ. Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tượng của hồn,
trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng
chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một
bơng hoa trong sáng tinh khơi, cịn vương bao hương sắc ở đời. Bơng hoa ấy Hàn
đặt tên "Đây thơn Vĩ Dạ", trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền
quê từng gắn bó biết bao...


Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao
nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hồi nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện
tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất
cuộc đời, chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm
mấy dịng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về,
cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi
hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ...



Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ.
Không phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:
Tôi vẫn ở đây hay ở đâu


Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu


Sao bơng phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lịng tơi những giọt châu?


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm
thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời
ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:


Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền


Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là khơng gian ngập tràn sắc nắng.
Khơng phải "nắng ửng" trong làn khói mơ tan, khơng phải "nắng chang chang" dọc
theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ "nắng mới", không huyền hồ ảo diệu, không
đậm màu đậm hương, nó tinh khơi và trong trẻo đến lạ. Nắng đổ xuống hàng cau,
cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi
sương đêm, sáng sớm nay được đằm mình trong nắng mới. Cái "mướt" mà Hàn gọi
dậy ở khu vườn, cái "ngọc" mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc
điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khơi. Người ta ngỡ
ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.


Nhớ về thơn Vĩ cịn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây.
Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con
người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thống sau


một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy
trong câu thơ của Bích Khê:


Vĩ Dạ thơn, Vĩ Dạ thôn


Biếc che cần trúc không buồn mà say.


Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh
thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê
hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi
bình thường như thế. Hóa ra, khơng chỉ Hồng Phủ, khơng chỉ Trịnh Cơng Sơn mới
viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng
những yêu thương...


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay


Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trơi, hoa bắp nhẹ lay, dòng
Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế.
Khơng khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá.


Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem cịn bao nhiêu nét nghĩa nữa.
Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu
tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây
bay, ở đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội
tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: "buồn
thiu". Hai chữ "buồn thiu" đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần
duyên tê tái. Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:


Ai về Giồng Dứa qua trng


Gió lay bơng sậy bỏ buồn cho em?


Nhưng khơng biết vì nỗi buồn đã chốn ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong khơng thể
làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:


Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?


Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:
Nước biếc non xanh thành gối bãi


Đêm thanh nguyệt bạch khách lên lầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc
đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu - đó là
được sống. Được sống khơng thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự
âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi hẩm cũng là ở đó: Hãy
ln sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.


Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba,
khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hồn tồn ở cõi mơ:


Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đâm đà?


Chữ "mơ" đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi "khách đường xa" đầy khắc khoải,
mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể
xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vịng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm


khơng thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô
ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhịa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo
hơn:


Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Khơng gian mơng lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo
ảnh. Nó chốn trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại.
Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: "Ai biết tình ai có đậm đà?", ta thảng thốt nhận
ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là
tình người, tình đời. Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ
mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, khơng "kì dị" như bao
người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến
nhiều năm sau này vẫn có khơng ít người ghi nhận điều ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

"Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và cịn lại của thời kì
này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử". Lời trân trọng mà người bạn thơ
Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là
như thế...


<b>8. Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 5</b>


Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử
lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hịa, Quy
Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là
Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sơng
nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà
thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.


Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau


nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người
trong mộng với một tình u sâu kín nỗi lịng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ"
đã ra đời.


Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"


Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết
của cơ gái ở thơn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì khơng có người con gái nào đang
trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy u thương ấy chính
là những dịng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xơn xao, sống dậy, nó trở thành giai
điệu và phát ra tiếng nói.


Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức
Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở khơng gian thơn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc
hành trình trong tâm thức.


"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến
gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy
màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ơng trở về bằng tâm thức thì khơng nhất thiết
phải có một cuộc dạo chơi như vậy. Đơi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên
khu vườn thơn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vịm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng
mới diệu kì thắp lên từ thơn Vĩ Dạ. Khơng gian nơi có người mình u là một khu
vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thơn Vĩ là trút được những
nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu
vườn thôn vĩ.


"Vườn ai mướt qua xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã


"vườn ai mướt quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất
cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó
khơng chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của
những chiếc lá ngọc.


"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"


Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng
"mặt chữ điền" chính là khn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi
thơn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khn mặt của em trong
khu vườn ấy thì rất hợp lí. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã
rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể khơng xấu nhưng
nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi
đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ơ
vng thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho
chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngồi thơn Vĩ Dạ và
sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu
thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình
tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.


"Gió theo lối gió, mây đường mây"


Câu thơ thứ hai khơng chỉ là nghịch lí mà cịn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa
bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động
cùng giị để dịng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lịng như gió
với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.


Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ


sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phơi. Thơng qua cách nói nóng gió, Hàn
Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thơn Vĩ. Đó là một kể phụ
tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại
khờ.


Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu
thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật
bất ngờ con người ấy bỗng dung hiện ra thật nhân từ và độ lượng.


"Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"


Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu
tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên
hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền
trăng, chở trăng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô
nghĩa.


"Mơ khách đường xa, khách đường xa"


Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ
còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa, khách đường xa". Thế mà, lại có
một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử
về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con
người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng khơng níu kéo được nên Hàn lại càng
gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:
"Người đã đi rồi khơn níu lại



Tình u chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ".


Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây
phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử ln có những đối cực. Ban đầu là hi
vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình u là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ
thấy người con gái mời mình về thăm thơn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền
đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt
vọng nhìn người yêu mình như "khách đường xa". Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ
thấy người ấy quay trở lại với mình, cơ gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện.
Đại từ "em" thật giản dị, gần gũi biết bao:


"Áo em trắng quá nhìn khơng ra"


Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay
sự tuyệt vọng. Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo
em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng khơng nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh
khơng dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao... Mặc cảm khi yêu thương là
một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân
từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật
"em" trở lại với mình, nhà thơ cũng khơng dám u. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ
với tình yêu của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh"
Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:
"Con quay búng sẵn lên trời


Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"



Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng khơng thể điều
khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt
được "nhân ảnh" chứ khơng thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ
hiểu rằng mình khơng chủ động được với chính mình, mình khơng thể nhìn thấy rõ
hình ảnh của người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhịa
"nhân ảnh" của nhân vật "em"... Đó là một nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó
để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây
chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng khơng có
chỗ nào để bám víu:


"Ai biết tình ai có đậm đà?"


Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: khơng biết em có hiểu được
chính tình u của em đậm đà hay khơng? Khơng biết bản thân anh có biết được
tình u của chính mình đậm đà khơng? Liệu em có biết tình anh đậm đà khơng?
Liệu anh có biết tình em có đậm đà không? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa
biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt
vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt
vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thơn Vĩ Dạ" chính là cảm
hứng đau xót về một tình u tuyệt vọng.


Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc
Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình
u, dù đó là một tình u tuyệt vọng. Chúng ta khơng gặp hồn cảnh bi đát như
Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong
cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.


<b>9. Đây thơn Vĩ Dạ phân tích - Mẫu 6</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn khơng cịn lạ lẫm gì với hình


ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung
cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người
ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung
ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh
thủy mặc về một vùng của cố đơ Huế mà nó cịn là nỗi lịng gửi tới phương xa của
nhà thơ Hàn Mạc Tử.


Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh khơng về chơi
thơn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về
với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ cịn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ
tình khơng thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thơn Vĩ.


Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ
đẹp" sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.


“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc


Lá trúc che ngang mặt chữ điền”


Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong
sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biệp pháp điệp từ “nắng".
Nếu như “nắng" ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng" ở vế
sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người
đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nơng thơn ngoại ơ thành phố. Hàng cau chính
là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo
hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị" đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất
hiện với tính chất - mới. “Nắng mới" có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt
đầu cho ngày mới. Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn
khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới" đi kèm với động từ “lên" tạo cảm


giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm
ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp
miền quê thôn Vĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

gợi lên sự tị mị, hiếu kì vì khơng xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái
người ta quan tâm khơng phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà
sự trong xanh của nó. Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh
khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự
nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy
nhiên, tài năng của Hàn Mạc Tử khơng đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng"
chữ “mướt" khi miêu tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về
sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng. Đã thế nó cịn đi kèm với thán từ
“q" làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tị mị
muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn
bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người
nơi đây. Hình ảnh “mặt chữ điền" chỉ về khn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng
là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi
tiết “lá trúc che ngang" gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như
vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thơn Vĩ.
Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ
muôn phần.


Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ" vẽ
nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về khơng gian lẫn thời gian.


“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay...


Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?



</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian
đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh
động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra
trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con
người.


“Thuyền ai đậu bến sơng Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”


Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm
buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền", “bến" cùng với hình ảnh
“sơng Trăng". Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng
sông tràn ngập ánh vàng. Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản
thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hồn cảnh này tác giả đang mang
trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy
về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận
ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang.


Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của
mình


“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà”


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

nên nhìn mọi vật có thể khơng rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ lẫm hay
cái nhìn đã phần giảm xuống?



“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”


Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng
quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả
“nhân ảnh". Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác
vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều
khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng". Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói
ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm
đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy cịn “đậm
đà", son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có cịn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ
này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta
để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lịng người có cịn giữ chút niềm riêng. Tất
cả đều là một ẩn số!


Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như
biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây
bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một
cách sinh động và có hồn nhất.


Với bài thơ “Đây thơn Vĩ Dạ" Hàn Mạc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ
Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thơn Vĩ Dạ. Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ
cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với
người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung
nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có cịn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy
còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi khơng ngi trong lịng tác giả và cho cả
người đọc.


<b>10. Phân tích bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu 7</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta
cùng Huy Cận”.


Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn
thì nhà thơ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị
điên cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hướng về
cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. Đây thôn Vĩ Dạ là
một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong
những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong
nền văn học Việt Nam hiện đại.


Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình cơng
giáo nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ những năm 15, 16 tuổi.
Phong cách thơ của ơng có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc,
trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng
loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp.


Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau
thương, bài thơ ra đời trong hồn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô
gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở nên vô vọng khi hai người
vừa cách biệt cả địa vị lẫn địa lý.


Trong sự hẫng hụt đến tột cùng ấy Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này,
trong đó khác biệt có bài Đây thơn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn
Mạc Tử trở nặng nhưng lại nhận được tấm bưu thiếp của người xưa, điều ấy đã khơi
gợi lên trong lịng ơng sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được thể
hiện một cách trọn vẹn trong bài thơ này.


Khơng chỉ vậy Đây thơn Vĩ Dạ cịn là thơng điệp mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm


cho cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một
cách mãnh liệt của nhà thơ.


“Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ
Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai
dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc
biệt bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt
ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc mộng và
thơ cho toàn bộ tác phẩm.


Câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta có một mối băn khoăn khơng dứt về chủ thể “anh”,
đó là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một
cách duyên dáng chàng trai sao khơng chịu tỏ lịng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở,
mời mọc người bạn cũ về thăm Huế.


Hoặc đó cũng có thể là tiếng lịng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc
nhở bản thân sao “không về chơi thôn Vĩ” và trong cái “không về” ấy là cả một dự
cảm đớn đau về cuộc đời bất hạnh, trước đó anh đã khơng về được thì có lẽ sau này
cũng không thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, đành lỡ
hẹn với Huế và người xưa.


Có thể nhận ra được rằng về Huế có lẽ là nỗi trăn trở, nuối tiếc vơ cùng của thi sĩ,
đó khơng chỉ là nơi ơng từng gắn bó một thời gian dài mà ở tại nơi ấy cịn có người
con gái mà ơng u thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi khơng, nhưng ơng vẫn
chỉ hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về
lại Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái hiện lại cảnh
thôn Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo.



Đó là cảnh thơn q trước buổi bình minh với những nét vẽ tươi tắn và đặc sắc, đó
là vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau
nắng mới lên”. Có thể nói rằng ngịi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa
trác tuyệt, người sẵn sàng phá vỡ cái quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một
bức tranh với cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn ngập khắp không gian,
khiến vần thơ cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ.


Và cái nắng ở đây cũng rất riêng ấy là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu
tượng của xứ Huế, lồi cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp
và đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây lấp lánh những ánh sáng xanh
vàng, khiến hồn người trở nên yêu đời hơn cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

thanh khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một
sức sống mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có lẽ
phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.


Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu
xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi
nhưng đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn
thơn Vĩ, rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng
nước, từng giọt sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại
những tia nắng mới khiến cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về
một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát.


Câu thơ lại thêm một từ “ai” phiếm chỉ khiến cho toàn cảnh bức tranh trở nên có
hồn và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá
trúc che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa”
của văn học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên
cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái.


Đó là gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất mà người ta vẫn mong cầu ở
người con gái, nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.


Hết tả cảnh ngày tươi tắn, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh
đêm của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc biệt là có cả ánh trăng, thi liệu
quen thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai khổ thơ có sự chuyển đổi
cảm xúc rất rõ rệt từ tình u đời, lịng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử
lại trở về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, buồn rầu tựa
như cảnh sông nước mênh mơng lạnh lẽo.


“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...


Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm, đó là sinh tử, chứ
chẳng còn là khoảng cách hay tâm hồn nữa.


Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dịng sơng Hương nổi tiếng đi
vào thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lịng sầu muộn của thi nhân
trước số phận. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa,
buồn tẻ và lặng lẽ chán chường.


Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc,
tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh
của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô
hương, vô sắc hiện hiện tại.


Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại


tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác
giả ở chốn cô đơn này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh
trăng vàng, cả một con thuyền chuyên chở trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một
hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được chiếm lĩnh hòa
nhập.


Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự
lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân cịn kịp tận
hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.


“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra...


Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Có lẽ đời này đã định hai người khơng chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn
cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vơ tung vơ ảnh, cịn thi
nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân khơng thể hịa nhập
vào với thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một
thế giới mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với
cái chết cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ơng vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi
đau đớn không tưởng.


Đặc biệt tâm hồn ấy của nhà thơ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn,
băn khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cơ gái ấy có từng một lần có tình
cảm với ông, hay cô gái ấy có biết đến mối duyên thầm lặng mà ông chẳng dám ngỏ
đã bao năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng mong manh về
mối duyên tình đã lỡ dở, bởi vì một tấm bưu thiếp mà lại dấy lên trong lòng thi nhân
nhiều cảm xúc, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ của một


con người cịn nhiều điều tiếc nuối với thế gian.


Có thể trích đơi lời Hồi Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thơn Vĩ
Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vơ cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu
tích cịn hoi hóp của một tình dun vừa chết yểu. Thất vọng trong tình u, chuyện
ấy trong thơ ta khơng thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn
dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế.
Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái
ánh mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ,
một cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử không thể mộng ước lâu được, nên cuối
cùng vẫn phải quay về cái chốn cô đơn lạnh lẽo, không người u, khơng hơi ấm
tình người, đợi chờ cái chết trong đau khổ và tuyệt vọng.


<b>11. Phân tích Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu số 8</b>


Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã
để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết
bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương,
đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà
nhà thơ đã gắn bó ở đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong
thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:


“Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”


Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đốn
được đó chính là lời trách của một cơ gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu
nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai


rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những
ánh nắng “rót” vào.


Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại cịn được
phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ơi chao thật đẹp đúng là một
bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc
đến hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hồn mỹ đến khó
tưởng:


“Vườn ai mướt q xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”


Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có
cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần
gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của
họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay
những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp
của ngày xưa được hiện diện như thế nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc
che ngang mặt chữ điền”. Khn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc
hậu, vng vắn mà tốt lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây.
Đến khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của
những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:


“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay”


Dịng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu
thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một


hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song khơng bao giờ
có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cơ gái Hồng Thị Kim
Cúc - một cơ gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.


Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó, có chở trăng về kịp tối
nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sơng và nơi
đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu
thuyền có chở trăng kịp về hay khơng?


Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà
ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:


“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà?”


Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cơ gái mà tác
giả đang u. Áo trắng q khiến nhà thơ khơng cịn nhận ra được cô gái nữa rồi.
Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ
sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa
lạ giữa nhà thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình u dạt dào của tác giả đơn phương
gửi gắm đến một cô gái mà không được đáp trả lại.


<b>12. Phân tích Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu 9</b>


Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông


cũng là người từng yêu và cảm giác giang dở trong tình u của mình. Nhưng ơng
lại là một con người lạc quan, hịa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp.


Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ
cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không
về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ
tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong.


Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu
như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc
nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế,
hình ảnh thơn Vĩ chợt sống dậy trong lịng nhà thơ:


“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc


Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”


Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đực trưng của thiên nhiên
xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa
sống động đẹp đẽ của thơn Vĩ trong hồi niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh
khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang
chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày.


Chỉ miêu tả nắng thơi mà đã gợi lên trong lịng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp.
Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu
vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn
Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh


đang gần gũi bỗng bọ đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của
tiếng này khiến hơi thơ như thống xi về một cõi hư ảo mơ hồ. Và rất tự nhiên
theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.


Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất
cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo
tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đơ nhưng ngay trong dịng cảm xúc
miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.Cảm giác về
cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sơng
nước:


“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay


Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”


Hai câu đầu: Bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ
trơi, dịng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Tả thực mà gợi lên cái
hồn xứ Huế: gió mây nhẹ nhẹ bay, dịng sơng trơi lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa.
Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật,sự sống hiện lên lắt
lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng.


Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái
ngược chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đơi ngả của tình đời, tình người, như
rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ
này.Hai câu kết đoạn cũng đem đến ân tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy.


Cảnh đẹp song vẫn thống bâng khng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai- sơng


trăng.... Dịng sơng dường như bị ảo hố, khơng cịn là song nước mà là sơng trăng,
lấp ánh ánh trăng vàng, là dịng ánh sáng tn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian
thơ trở nên hư ảo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo ấu,
vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hồi nghi.


Tín hiệu mong chơ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân
hướng tới cái đẹp của tình đời tình người khơng tránh khỏi những nghi ngại băn
khoăn.Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như
vơ vọng đó:


“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà?”


Hình ảnh "khách đường xa" đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử?: khách xa
gặp lúc mùa xuân chín.hành trình của người khách từ xa xơi- em- là cả một giấc
mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử . Bản thân " khách" đã diệu vợi, khách đường
xa càng diệu vợi xa xăm hơn. Phải chăng vì hồn cảnh đặc biệt của mình,vì mối
quan hệ với cuộc đời trong tâm trí nhà thơ trở nên xa xăm cách trở.


Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình u, hạnh phúc mà khơng bao giờ
nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng
q nhìn khơng ra. Câu thơ đầy đam mê " áo em trắng quá" nhưng cũng thật hụt
hẫng xót xa " nhìn khơng ra". Sắc trắng thiên thần tinh khôi ấy sao cứ vượt khỏi tầm
tay. Hai câu kết là lời lí giải: Xuất hiện một lí do thật khách quan: ở đây sương khói
mờ nhân ảnh.



Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng cịn lí do chủ quan : trái tim
trong tà áo trắng kia cung hư vơ bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời
gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương
khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời…sương khói ấy che phủ khiến
nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Đây thôn Vĩ Dạ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính
mà rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái linh hồn của mảnh đất cố đơ nhưng khơng
thể nói rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm u cuộc
sống hơn.


<b>13. Phân tích Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu 10</b>


Bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm
huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương
xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.


Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông
được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ơng xứ Huế chính là q hương
thứ 2 và cũng là nơi để lại trong ơng có nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân
tích bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như
con người xứ Huế nơi đây.


Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1
chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp
nằm gần bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi
tác giả nhắc đến là một làng q n bình và xinh đẹp.


Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây


chính là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về
làng Vĩ Dạ chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi
không ghé thăm. Cảnh vật ở đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng
hình ảnh dung dị nhất:


“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc


Lá trúc che ngang mặt chữ điền”


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Ở xứ Huế các bạn sẽ cịn trơng thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây
cau. Một khơng gian tồn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng
khiến cho khơng gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải
thốt lên: “mướt quá’’ một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và màu mỡ của cảnh vật
nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy
những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả miêu tả:
“xanh như ngọc’’.


Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay
hình dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên. Nhưng đến khổ
thơ thứ hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một chút tâm trạng buồn bã:


“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay


Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’


Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc đến luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình
u đơi lứa. Mây và gió vẫn ln khơng rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn


bó của lứa đơi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện ngược lại đó chính là sự chia ly
và xa cách giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời
nhắn nhủ của nhà thơ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa cách
nhau trong 1 thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha
làm việc.


Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của
những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự miêu tả dịng nước thì buồn thiu
chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhàng khi có gió thổi.
Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật
nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một
dịng sơng khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền
có chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác
giả về chuyện tình u của mình có cịn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay
không hay là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà?”


Câu đầu tiên trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần
khách đường xa càng gợi lên sự xa cách hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá đến
nỗi mà tác giả khơng nhận ra nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên
mình chiếc áo tinh khơi khiến tác giả không thể nhận ra được người con gái mình đã
u năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự
hỏi liệu rằng cơ ấy cịn u cịn tình cảm đậm đà với mình nữa hay khơng? Câu thơ
cuối chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.



Qua phân tích bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài
thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong.
Thông qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng
như con người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào.
Bài thơ cũng thể hiện khắc họa được tình yêu chân thành mà nhà thơ đã dành tặng
cho một người con gái xứ Huế thật đậm đà mà ngọt ngào xiết bao!


<b>14. Phân tích bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu 11</b>


Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại
nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta
càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.


Bài thơ về xứ Huế mộng mơ “Đây thơn Vĩ Dạ”, là tiếng lịng tha thiết về quê
hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dịng sơng Hương hiền hịa với
những câu hị đượm chút tình của Huế:


Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

hùng vĩ như cảnh “Đèo Ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư khơng, dưới
ngịi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế.
Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng
buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng
đầu tiên đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khơi, dưới
ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.


Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền



Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm
mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà
thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa
sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc.


Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu
đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái
xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu.
Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có
phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ,
một cô gái Huế dịu dàng, dun dáng. Thơn Vĩ nằm cạnh dịng sơng Hương hiền
hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đơi bờ sơng Hương, vẻ đẹp
hiện lên bâng khng:


Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay


Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình
thương u, sự nuối tiếc khi khơng gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền
và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” –
Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất
trữ tình đó để nói lên nỗi lịng của mình “Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó”.


Ánh trăng soi bóng dưới dịng sơng Hương, dịng sơng của thi nhân khơng cịn
mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sơng trăng”, làm cho cả dịng sơng và cảnh
vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dịng nước buồn thiu” vì “hoa
bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dịng “sơng trăng” nên thơ như


thế.


“Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo
người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu
hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng
khơng có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu, “kịp” khiến cho
câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp
với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?


Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan
biến như chính ánh trăng dưới dịng sơng Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ
đến phũ phàng:


Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh


Ai biết tình ai có đậm đà?


Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa... khách đường xa” làm cho
giọng thơ trở nên sâu lắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ
đi bởi màu áo trắng, màu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là
màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Sự thất vọng của một tình u khơng bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phất
sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói
với chính lịng mình, sự băn khoăn khơng biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư
ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm.


Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng


khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ
giàu tình yêu thương.


</div>

<!--links-->

×