Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn ảnh hưởng của phân bón và các mức phân bón cho cây có củ đến năng suất và chất lượng của khoai lang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 93 trang )

1. mở đầu
1.1. đặt vấn đề
Sản xuất nông nghiệp trong gần 2 thập kỷ qua đạt đợc những thành tựu
đáng khích lệ. Năm 2004, sản lợng lúa cả nớc đạt 35,9 triệu tấn, với năng
suất trung bình toàn quốc là 4,82 tấn/ha/vụ. Nếu tính thêm 3,4 triệu tấn ngô và
các loại cây lơng thực có hạt khác thì sản lợng lơng thực có hạt năm 2004
đạt 39,3 triệu tấn (Tổng cục thống kê, 2004)[30]. Trong những năm gần đây,
với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo phơng châm tăng tổng thu nhập trên
một đơn vị diện tích gieo trồng, ngời nông dân đà chọn lựa những cây trồng có
hiệu quả kinh tế cao để đầu t thâm canh. Do đó, diện tích cây khoai lang đà và
đang có chiều hớng giảm mặc dù năng suất tăng lên một cách chậm chạp.
Theo thống kê, cây khoai lang vẫn giữ một vai trò và vị trí nhất định trong
sản xuất lơng thực bởi cây khoai lang là cây trồng có tính thích ứng rộng, thời
gian sinh trởng ngắn, cho năng suất cao trong điều kiện thích hợp, đặc biệt có
thể sinh trởng và phát triển tốt trong điều kiện đất nghèo dinh dỡng và độ ẩm
thấp. Hơn nữa, cây khoai lang có nhiều đặc tính u việt, có vai trò quan trọng
trong cuộc đấu tranh chống sự thiếu lơng thực và suy dinh dỡng. Đặc biệt
trong những năm mất mùa, hạn hán, hay ở những vùng sản xuất lúa khó khăn,
khoai lang là cây chủ lực giải quyết lơng thực và thức ăn gia súc. Tại một số
vùng sinh thái có điều kiện đặc biệt, cây khoai lang đợc xếp ngang hàng thậm
chí còn cao hơn cả lúa và có thể nói cây khoai lang là cây chủ lực. Củ khoai lang
đợc sử dụng khá đa dạng: luộc để ăn sáng, làm mứt, làm thuốc, dùng thay thế
cho bột mì để làm bánh bích quy (Cúc Phơng, 2005)[7].
Trong những năm gần đây vai trò của cây khoai lang ở nớc ta ngày
càng đợc khẳng định, nh ở tỉnh Hậu Giang mặc dù hơn một năm qua giá lúa
luôn đứng ở mức cao nhng nhiều bà con nông dân vẫn mở rộng diện tích
trồng khoai lang ở những vùng đất phèn mặn thay cho cây lúa. Hiệu quả kinh

1



tế từ việc trồng khoai lang đà đem lại lợi nhuận cao, chẳng hạn, khoai lang ở
huyện Bình Minh, Vĩnh Long đạt năng suất trên 30 tấn/ha, mang lại thu nhập
thuần từ 30-50 triệu đồng/ha.
Nớc ta thuộc vùng nông nghiệp nhiệt đới, điều kiện thời tiết khí hậu
rất đa dạng và biến động nhiều trong năm. Mặt khác điều kiện đất đai ngay
trong vùng đồng bằng bắc bộ cũng khác nhau. Mật độ dân số trong vùng
tơng đối đông đúc. Vì vậy, phát triển cây khoai lang cũng là đẩy mạnh đa
dạng hoá sản xuất nông nghiệp trên cơ sở đa dạng hoá cây trồng. Điều này
góp phần giảm bớt những rủi ro trong sản xuất, sử dụng hợp lý hơn những
điều kiện tự nhiên, kinh tế-xà hội góp phần cải thiện đời sống nông thôn và
thúc đẩy sản xuất phát triển theo hớng bền vững. Đa dạng hoá sản xuất nông
nghiệp không những đảm bảo an ninh lơng thực mà còn là một trong những
điều kiện để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, tăng lợi
nhuận cho ngời nông dân (Nguyễn Văn Luật, 1998) [24].
Năng suất khoai lang ở nớc ta còn thấp hơn nhiều so với năng suất
trung bình thế giới. Trong sản xuất ở nhiều nơi khoai lang là cây quảng canh,
tận dụng quỹ đất, phân bón hầu nh không đợc sử dụng. Tuy khoai lang là
cây trồng không đòi hỏi nhiều phân, nhng bón phân đủ, đảm bảo các chất
dinh dỡng cần thiết dễ mang lại năng suất cao. Cây khoai lang là cây a
phân hữu cơ, phân chuồng vì ngoài cung cấp dinh dỡng cho cây, phân hữu
cơ cải thiện khả năng giữ nớc, khả năng trao đổi cation, tạo cho đất độ tơi
xốp, thoáng cần thiết cho sự hình thành và phát triển củ (Đinh Thế Lộc, 1979;
Bouwkamp, 1985)[2], [41]. Cây khoai lang cũng phản ứng mạnh với phân
khoáng. Các nguyên tố đa lợng nh đạm, lân và kali rất cần thiết cho sinh
trởng và phát triển của khoai lang, đặc biệt là kali cả khi bón đơn lẻ hay kết
hợp với đạm đều làm tăng năng suất củ (Bouwkamp, 1985; §inh ThÕ Léc,
1979; Bïi Huy §¸p, 1984)[41], [8], [6]. Kali làm tăng hiệu suất quang hợp,
vận chuyển sản phẩm quang hợp, hoạt tính của sức chứa; bón bổ sung kali cã

2



thể khắc phục hệ quả của sự thừa đạm đối với sự phát triển thân lá
(Bouwkamp, 1985)[41]. Các nhiên cứu ë ViƯt Nam tõ tr−íc ®Õn nay ®Ị cËp
chđ u tới liều lợng, thời kỳ bón, cách bón (Đinh Thế Lộc, 1968,
1979)[10], [8], nhất là việc sử dụng các loại phân hoá học. Các nguyên tố
trung lợng nh can-xi, manhê, lu huỳnh và các nguyên tố vi lợng đối với
sinh trởng, phát triển của khoai lang cha đợc các nghiên cứu đề cập đến.
Cây khoai lang biểu hiện thiếu manhê trong điều kiện đất nhiều kali; bón
phân lu huỳnh với mức 220-340 kg cho một hécta làm tăng năng suất củ
(Bouwkamp, 1985)[41].
Hiện nay trên thị trờng xuất hiện các loại phân bón chuyên dụng và
phân bón lá dành cho cây có củ nói chung và khoai lang nói riêng. Việc tìm
hiểu và đánh giá hiệu quả và hiệu lực của chóng sÏ gióp cho viƯc h−íng dÉn,
khun c¸o cho ng−êi nông dân sử dụng để vừa nâng cao năng suất, phẩm
chất củ vừa duy trì độ phì của đất. Từ đó, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên
cứu: ảnh hởng của phân bón lá và các mức phân bón cho cây có củ đến
năng suất và chất lợng của khoai lang .
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Tìm hiểu ảnh hởng của phân bón qua lá và các mức phân bón chuyên
dụng cho cây có củ đến sinh trởng, năng suất và chất lợng của khoai lang.
- Xác định liều lợng phân bón thích hợp để đạt năng suất và chất lợng cao.
1.2.2. Yêu cầu
- Tìm hiểu ảnh hởng của phân bón qua lá và các mức phân bón đặc
dụng cho cây có củ đến sinh trởng thân lá, năng suất và hàm lợng chất khô
củ của giống khoai lang KB-1, KB-3 và dòng HN-2
- So sánh các mức bón và tìm ra mức phân bãn thÝch hỵp.

3



2. Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Nguồn gốc, lịch sử phát triển và sự phân bố cđa c©y khoai lang
C©y khoai lang (Ipomoea batatas (L.) Lam.) là cây hai lá mầm thuộc
chi Ipomoea họ Convolvulaceae (Võ Văn Chi và CS, 1969)[34]. Trong số
gồm 50 tộc và hơn 1.000 loài thuộc họ này, chỉ có cây khoai lang Ipomoea
batatas lµ loµi cã ý nghÜa kinh tÕ quan trọng nhất vì đợc sử dụng làm lơng
thực và thực phẩm. Một loài khác, cây rau muống Ipomoea aquatica, đợc
trồng làm rau ở phần lớn các nớc châu á.
Khoai lang đợc trồng từ khoảng 3.000 năm trớc công nguyên, là cây
lơng thực quan trọng của ngời Maia ở Trung Mỹ và ngời Peru ở vùng Nam
Mỹ (Bùi Huy Đáp, 1961)[4], nguồn gốc ở bán đảo Iucatan (châu Mỹ La Tinh).
Từ các vùng nhiệt đới châu Mỹ, cây khoai lang đợc các nhà thám hiểm và
các nhà buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha chuyển đến nhiều khu vực khác nhau
trên thế giới: khu vực Thái Bình Dơng, Tây Địa Trung Hải, châu Phi, ấn Độ
và đông ấn vào thế kỷ 16. Tại châu á, khoai lang đợc đa đến Philippin vào
giữa thế kỷ 16 (Yen, D.E, 1982)[66]. Từ Philippin, cây khoai lang đợc đa
vào Trung Quốc năm 1594 và có thể theo con đờng từ ấn Độ, Miến Điện đến
Trung Quốc sớm hơn, vào những năm 1563 (Ho và cộng sự, 1994)[49]. Khoai
lang có thể đợc du nhập vào nớc ta kho¶ng ci thÕ kû 16 tõ Phóc KiÕn,
Trung Qc (Vũ Đình Hoà, 1997)[61].
Theo các tài liệu cổ xa nh sách Thực vật bản thảo, Lĩnh nam tạp
kỷ và Quảng Đông tân ngữ của Lê Quý Đôn (Viện Hán Nôm, 1995)[33]
thì cây khoai lang gần nh chắc chắn là cây trồng nhập nội và có thể đợc đa
vào nớc ta từ đảo Luzon, Philippin vào khoảng cuối đời nhà Minh.

4



Trong Thảo mộc trạng có đoạn viết: "Cạm th (khoai lang) là loài củ
thuộc loài thử dự, rễ và lá nh rễ khoai, củ to bằng nắm tay, to nữa bằng cái
bình, da tía, thịt trắng, ngời ta luộc ăn. Ngời vùng biển đào đất trồng khoai
đến mùa thu dẫy củ rỡ về thái nhỏ nh gạo, tích trữ lơng ăn, sống lâu trăm
tuổi" (Bùi Huy Đáp, 1984; Viện Hán Nôm, 1995)[6], [33].
Sách "Biên niên lịch sử Cổ Trung đại Việt Nam" (Nhà xuất bản Khoa
Học xà hội năm 1987)[3] có ghi: "năm 1558 (năm Mậu Ngọ), khoai lang từ
Philippin đợc đa vào nớc ta, trồng đầu tiên ở An Trờng, Thủ đô tạm thời
của đời Lê Trung Hng (Hậu Lê), nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh
Hoá". Nh vậy, khoai lang đà có mặt ở nớc ta cách đây khoảng trên 400
năm. Có lẽ từ đó, cây khoai lang trở thành một thành phần cấu thành của hệ
thống nông nghiệp. Những câu truyện cổ tích và những câu tục ngữ, ca dao
liên quan tới cây khoai lang trong dân gian từ trớc đến nay chứng tỏ rằng cây
khoai lang đà có mặt trong nền nông nghiệp nớc ta từ rất lâu đời và gắn bó
thân thiết với nông dân nớc ta.
Cây khoai lang đợc trồng trong phạm vi rộng lớn giữa vĩ tuyến 40 độ
Bắc đến 32 độ Nam và lên đến độ cao 3.000m so với mặt nớc biển (Woolfe,
1992)[65]. Tuy nhiên cây khoai lang đợc trồng nhiều nhất ở các nớc nhiệt
đới, á nhiệt đới, châu á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh. Do có khả năng thích
ứng rộng nên khoai lang đợc trồng nh là cây bảo hiểm phối hợp trong hệ
thống canh tác với cây có hạt (lúa, ngô) ở Đông Nam á, với các cây có củ khác
nh khoai mỡ, khoai nớc ở châu úc và là cây lơng thực quan trọng ở một số
nớc đang phát triển nh : Uganda, Ruanda, Papua Niu Ghinê và Burundi.
2.1.2. Tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới và ở nớc ta
2.1.2.1. Tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới
Theo FAO, các cây có củ trong đó có khoai lang đợc trồng hầu hết ở
các Châu lục trên thế giới (FAO, 2001)[12], (Bảng 2.1).

5



Bảng 2.1. Tình hình sản xuất cây có củ ở các Châu lục
Châu lục

Diện tích (triệu ha)
1998

Năng suất (tấn/ha)

Tổng sản l−ỵng (triƯu tÊn)

1999 2000 2001 1998 1999 2000 2001 1998 1999

2000 2001

Toµn thÕ giíi

50,826 52,109 52,667 52,716 12,81 12,91 13,27 12,91 651,21 672,79 699,07 680,6

Ch©u Phi

19,388 19,697 20,009 20,858

8,10

8,28

8,29


8,19 156,71 163,06 165,74 170,8

B¾c+Trung Mü

1,273

1,262

1,258

1,209 24,05 24,74 26,53 24,37

30,62

31,23

33,38

29,5

Nam Mü

3,438

3,498

3,543

3,518 12,30 12,94 13,04 13,28


42,30

45,26

46,20

46,7

17,402 18,229 18,436 17,893 16,10 16,17 16,30 16,37 280,26 294,76 300,53 292,9

Châu á
Châu úc

0,265

0,263

0,269

0,266 13,03 13,19 12,58 12,90

3,46

3,46

3,38

3,44

Châu ¢u


9,109

9,160

9,512

8,972 15,13 14,74 16,37 15,31 137,86 135,02 149,83 137,3

Nguån: FAO, 2001[12]

Qua bảng 2.1 diện tích trồng các cây có củ ở các Châu lục từ năm
1998-2001 có xu hớng giảm xuống; năng suất tăng ở mức độ không mạnh.
Tuy nhiên châu Phi, Nam Mỹ và các khu vực Đông Dơng diện tích không
giảm mà lại có chiều hớng tăng lên. Trong đó, diện tích trồng khoai lang
trên thế giới đạt 9,076 triệu ha, năng suất bình quân 14,92 tấn/ha và tổng sản
lợng 135,448 triệu tấn (Bảng 2.2), Đợc phân bố ở các châu lục nh sau:
Bảng 2.2. Phân bố khoai lang trên thế giới trong những năm gần đây
Châu lục

Diện tích (triệu ha)

Năng suất (tấn/ha)

Tổng sản lợng (triệu tấn)

1998 1999 2000 2001 1998 1999 2000 2001 1998 1999 2000 2001

Toµn thÕ giíi


9,198

9,202

9,121

9,076 14,68 15,95 15,23 14,92 135,032 146,818 138,898 135,448

Ch©u Phi

1,962

1,992

2,061

2,226 4,44

4,98

4,98

4,96

8,713

9,937

10,266


10,435

B¾c+Trung Mü 0,151 0,147 0,152 0,150 6,72 7,27

7,63

7,83

1,018

1,068

1,157

1,174

1,143

1,227

1,150

1,304

Nam Mü

0,099

0,098


0,096

0,108 11,53 12,54 11,95 12,03

Châu á

6,872

6,849

6,695

6,475 17,97 19,56 18,77 18,82 123,530 133,940 125,663 121,868

Châu úc
Châu Âu

0,108

1,110

0,111

0,111 5,26

0,0051 0,0057 0,0056 0,0056 11,20

5,37

5,40


5,43

0,570

0,591

0,601

0,602

9,73 10,50 11,36

0,057

0,055

0,059

0,064

Nguån: FAO, 2001[12]

6


Qua số liệu trên cho thấy châu á là châu lục có năng suất khoai lang
cao nhất thế giới (đạt 17,97-19,56 tấn/ha từ năm 1998-2001), tiếp đến là Nam
Mỹ (11,53-12,54 tấn/ha). Châu Phi có năng suất khoai lang thấp nhất thế giới
(chỉ đạt 4,44-4,98 tấn/ha). Năng suất khoai lang từ năm 1998-2001 trên toàn

thế giới có xu hớng tăng lên.
Năng st khoai lang cđa c¸c n−íc rÊt kh¸c xa nhau: ở châu Phi nớc
có năng suất cao nhất là Ai Cập (26,65 tấn/ha), năng suất thấp nhất là Togo
(0,74 tấn/ha); Mỹ và Achentina là 2 nớc có năng suất khoai lang cao nhất
châu Mỹ (xấp xỉ 17,5 tấn/ha), còn ở châu á thì Trung Quốc là nớc có diện
tích khoai lang lớn nhất (5,626 triệu ha), nhng về năng suất cao nhất lại
thuộc về Isarel (35,6 tấn/ha) (Bảng 2.3).
Bảng 2.3. Sản xuất khoai lang ở các Châu lục

Châu lục

Số
nớc
trồng

Nớc có diện tích (ha)
Cao nhất

Nớc có năng suất (tấn/ha)

Thấp nhất

Cao nhất

Thấp nhất

Châu Phi
Bắc+Trung
Mỹ
Nam Mỹ


40

Uganda: 572.000

Senegal: 50

Ai Cập: 26,65

Togo: 7,4

24

Haiti: 57.500

Cayman
Isaland: 02

Mỹ: 17,5

Saint
Vincent: 1,57

10

Achentina: 19.000 Suriname: 50 Achentina: 17,6 Bolivia: 4,8

Châu á

20


Châu úc

11

Châu Âu

04

T.Quốc: 5.626.000 Yemen: 37
Papua Niu
Guam: 04
Ghinê: 102.000
Bồ Đào Nha: 3.000 Greece: 100

Israel: 35,6

Maldivơ: 2,25
Niu
Đảo Cook: 28,0
Caledonia: 4,3
Hy lạp: 20,0
Bồ Đào Nha:7,3

Nguồn: FAO, 2001[12]

Về diện tích, năng suất, sản lợng của 5 cây có củ trồng chủ yếu trên
thế giới tính đến năm 2001 theo số liệu công bố của FAO nh− sau (B¶ng 2.4):

7



Bảng 2.4. Diện tích, năng suất, sản lợng của 5 cây có củ trên thế giới
Chỉ tiêu

Sắn

Khoai lang Khoai mỡ Khoai sọ Khoai tây

Diện tích (triệu ha)

17,232

9,076

4,200

1,463

19,581

Năng suất (tấn/ha)

10,50

14,92

9,05

6,13


15,80

Sản lợng (triƯu tÊn) 181,024

135,448

38,570

8,974

309,307

Ngn: FAO, 2001[12]

Nh− vËy, xÐt vỊ mỈt diƯn tích thì khoai lang đứng thứ 3 sau khoai tây và
sắn, nhng năng suất lại đứng hàng thứ 2 (xấp xỉ khoai tây).
2.1.2.2. Tình hình sản xuất khoai lang ở nớc ta
ở nớc ta, từ lâu cây khoai lang đà đợc coi nh là một cây trồng hết
sức gần gũi và thân thiết với nhà nông. Nó không đòi hỏi nhiều phân bón,
công lao động nh một số cây trồng khác, đặc biệt nó có thể chịu đợc những
điều kiện biến đổi bất lợi về môi trờng nh bÃo, hạn, ma lớn.
ĐÃ từ lâu cây khoai lang trở thành một c©y quan träng trong hƯ thèng
lu©n canh c©y trång trong nông nghiệp nớc ta, đóng vai trò quan trọng trong
việc chống lại nạn đói do thiên tai gây ra. Hiện nay, khoai lang vẫn là một cây
màu lơng thực quan trọng cả về diện tích, sản lợng và tiêu thụ. Sản xuất
khoai lang ở nớc ta chủ yếu đợc tiến hành ở những hộ nông dân, nói chung
sản xuất tự tiêu là chính, ít có tính chất thơng mại hoá. Khả năng đẩy mạnh
sản lợng khoai lang ở nớc ta gặp khó khăn do những hạn chế về năng suất.
Hàng chục năm trớc đây, các nhà chọn giống, các nhà nông học đà giới thiệu

và phát triển các giống mới, các biện pháp kỹ thuật nhng năng suất không
tăng nh mong muốn. Tuy nhiên, cây khoai lang có tiềm năng rất lớn làm
nguồn lơng thực bổ sung, chế biến công nghiệp và thức ăn cho gia súc nên
đòi hỏi đầu t nghiên cứu hơn nữa nhằm tìm ra những giải pháp cho các vấn
đề chọn giống, sản xuất và hiệu qu¶ sư dơng.

8


Theo số liệu thống kê, trong vòng 9 năm (từ 1995 đến 2004), diện tích
trồng khoai lang hằng năm ở n−íc ta kho¶ng 250.000 ha. Theo sè liƯu −íc
tÝnh cđa tổng cục thống kê thì năm 2004 là năm diện tích khoai lang thấp
nhất chỉ đạt khoảng 203.600 ha[30], năm 1995 có diện tích cao nhất là
304.600 ha (Bảng 2.5); nãi chung, diƯn tÝch trång cã xu h−íng gi¶m. Sè liệu
thống kê cho thấy tính đến 15/5/2005 cả nớc trồng ®−ỵc 120.100 ha khoai
lang b»ng 86,7% so víi cïng kú năm trớc (thực hiện cùng kỳ năm trớc là
138.500 ha)[29].
Bảng 2.5. Diện tích khoai lang phân theo địa phơng (1000ha)
Vùng
Cả n−íc

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
304,6 302,7 267,2 253,5 270,2 254,3 244,6 237,7 219,9

Đ.bằng sông Hồng

72,0 76,6 66,3 59,9 67,7 64,2 54,5 53,5 48,3

Đông bắc


54,5 54,4 46,3 46,3 51,0 49,7 52,9 52,5 50,3

Tây bắc
Bắc Trung Bộ

5,0

4,9

6,8

6,2

6,3

6,0

5,9

6,6

6,6

109,4 106,5 94,1 91,3 97,6 89,0 87,3 80,5 73,1

Duyên hải Nam Tr.Bộ 29,4 27,5 22,7 21,3 19,5 18,5 17,1 15,7 14,4
Tây nguyên

11,9 11,3 11,0


9,9

9,4

9,3

8,4

9,9 10,2

Đông nam Bộ

10,9

8,1

8,0

7,7

8,4

6,5

Đồng bằng S.C.Long

11,5 12,3 10,6 10,5 10,7

9,2


9,4

6,3

9,9 10,1 12,5 10,7

Nguồn: Tổng cục thống kê, 2004[30]

Cho đến nay khoai lang đà đợc trồng phổ biến ở cả 8 vùng sinh thái
nông nghiệp. Trong những năm gần đây diện tích trồng giảm, năng suất tuy
tăng, nhng chậm và không ổn định do những hạn chế về đầu t sản xuất, nhất
là khâu bảo quản, chế biến sau thu hoạch và thị trờng, tất cả làm cho phẩm
khoai lang cha trở thành hàng hoá. Do chuyển đổi cơ cấu c©y trång, mét

9


phần diện tích trồng khoai lang đợc thay thế bằng cây ngô, lạc, vừng, da
hấu và những cây trồng có thu nhập cao khác. Mặt khác, do nguồn lơng thực
đà cơ bản đợc giải quyết, cơ cấu bữa ăn của ngời nông dân đà có nhiều thay
đổi dẫn đến nhu cầu lơng thực từ cây khoai lang giảm nhiều.
Theo số liệu thống kê cho thấy năng suất khoai lang trung bình ở nớc
ta còn quá thấp, khoảng 6,5 tấn/ha (Tổng cục thống kê, 2004)[30], [27]. Tuy
ớc tính diện tích năm 2004 là thấp nhất (203.600 ha) nhng năng suất đạt cao
nhÊt 7,54 tÊn/ha. Nh− vËy, cã thÓ thÊy r»ng rÊt còn nhiều tiềm năng để nâng
cao năng suất khoai lang ở nớc ta.
Bảng 2.6. Năng suất khoai lang phân theo địa phơng (tấn/ha)
Vùng

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003


Cả nớc

5,53 5,61 6,33 6,02 6,46 6,34 6,76

7,17

7,24

Đ.B sông Hồng

7,49 7,26 8,06 7,72 8,84 8,14 8,29

8,56

8,65

Đông bắc

5,22 5,01 5,99 5,49 5,80 5,96 5,91

6,30

6,25

Tây bắc

2,76 4,18 3,82 3,76 3,87 3,93 4,41

4,38


4,97

Bắc Trung Bé

4,59 5,25 5,16 5,68 5,49 5,29 5,75

5,89

5,91

D.h¶i Nam Tr.Bé 4,59 4,13 5,16 5,68 4,88 5,14 5,65

5,65

5,81

Tây nguyên

6,96 6,56 6,48 6,36 6,49 6,13 7,76

7,83

8,45

Đông nam Bộ

4,20 3,89 5,81 4,88 5,57 6,01 6,49

5,55


5,71

§.b»ng S.C.Long 10,70 11,70 13,73 8,15 11,72 12,54 14,34 16,79 17,74
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2004[30]

Sản lợng khoai lang khác nhau theo từng vùng và có chiều hớng
giảm, thấp nhất là năm 1998 với sản lợng 1.526.100 tấn (Bảng 2.7), tiếp theo
là năm 2004 chỉ đợc 1.535.700 tấn (Tổng cơc thèng kª, 2004)[30].

10


Bảng 2.7. Sản lợng khoai lang phân theo địa phơng (1000tÊn)
Vïng

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

C¶ n−íc

1685,8 1697,0 1691,0 1526,1 1744,6 1611,3 1653,5 1703,7 1592,1

Đ.B sông Hồng 522,7 507,3 520,1 443,1 578,0 508,0 451,9 457,9 417,7
Đông bắc

273,0 248,6 269,8 251,7 282,7 287,0 312,6 330,9 314,2

Tây bắc

13,8


Bắc Trung Bé

20,5

26,0

23,3

24,4

23,6

26,0

28,9 32,8

502,4 558,9 485,9 518,9 535,9 470,7 501,8 473,8 431,8

Duyªn hải NTB 130,4 113,5 119,7 105,0

95,1

95,0

96,7

88,7 83,6

Tây nguyên


78,1

54,2

71,4

58,6

61,2

63,2

65,2

77,5 86,2

Đông nam Bé

42,4

50,1

52,6

39,9

41,9

39,7


54,5

36,1 36,0

§.B. S.C.Long

123,0 143,9 145,5

85,6 125,4 124,1 144,8 209,9 189,8
Nguån: Tổng cục thống kê, 2004[30]

Nh vậy, những vùng có sản lợng khoai lang cao ở nớc ta là vùng Bắc
Trung bộ, vùng đồng bằng sông Hồng. Theo niên giám thống kê năm 2001
[26] (Bảng 2.8) các tỉnh có diện tích, năng suất cao và thấp nhất nh sau:
Bảng 2.8. Sản xt khoai lang ë c¸c vïng trong n−íc
Vïng

TØnh cã diƯn tích (ha)
Cao nhất
Thấp nhất

Tỉnh có năng suất (tấn/ha)
Cao nhất
Thấp nhất

ĐB S.Hồng

Hà tây: 9.000


Đông bắc

Bắc Giang: 14.900 Lào Cai: 400

Bắc Giang: 8,23

Hà Giang: 3,14

Tây bắc

Hoà Bình: 4.600

Lai Châu: 600

Lai Châu: 5,50

Hoà Bình: 4,26

Bắc Trung Bộ

Nghệ An: 30.300

Quảng Trị: 4.400 Nghệ An: 6,05

Hng Yên: 1.900 Hng Yên: 10,00 Ninh Bình: 6,46

T.T Huế: 4,58

Duyên hải NTB Quảng Nam: 10.800 Khánh Hoà: 200 Đà Nẵng: 6,40


Khánh Hoà: 4,00

Tây nguyên

Đăklăk: 3.400

Gia Lai: 5,92

Đông nam bộ

Bình Thuận: 3.700 Ninh Thuận: 100 Tây Ninh: 9,69

Đ.B. S.C.Long

Vĩnh Long: 2.700

KonTum: 200

Bạc Liêu: 200

Lâm Đồng: 8,69

Bà Rịa-VTàu: 4,33

Vĩnh Long: 26,33 Long An:1,48

Nguồn: Niên giám thống kê, 2001[26]

11



Theo số liệu niên giám thống kê, trong năm 2001 các tỉnh có diện tích
và sản lợng khoai lang cao là Nghệ An (30.300 ha với năng suất là 6,05
tấn/ha), Bắc Giang có diện tích 14.900 ha, năng suất 8,23 tấn/ha, Quảng Nam
có diện tích 10.800 ha, năng suất 64,0 tạ/ha. Năng suất cao nhất là ở Vĩnh
Long 26,33 tấn/ha, thÊp nhÊt lµ ë Long An 1,48 tÊn/ha. ë VÜnh Long khoai
lang mang tính chất sản xuất hàng hoá nhờ có thị trờng rộng lớn là Thành
phố Hồ Chí Minh, vì vậy cây khoai lang đợc quan tâm và đầu t thâm canh
hợp lý. Còn lại hầu hết các địa phơng khác sản xuất khoai lang vẫn là phơng
thức sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
làm tiềm năng năng suất khoai lang cha đợc phát huy đúng mức.
2.1.3. Đặc tính sinh vật học và yêu cầu sinh thái của cây khoai lang
2.1.3.1. Đặc điểm sinh trởng phát triển của cây khoai lang
Cây khoai lang từ trồng đến khi thu hoạch có thể trải qua 4 thời kỳ sinh
trởng, phát triển: mọc mầm ra rễ, sinh trởng thân lá, phân cành kết củ và
phình to của củ. Các thời kỳ sinh trởng, phát triển này chịu ảnh hởng trực
tiếp của các yếu tố ngoại cảnh và có mối liên quan chặt chẽ tới các yếu tố tạo
thành năng suất cây khoai lang.
Thời kỳ trồng (mọc mầm ra rễ) nếu điều kiện nhiệt độ cao, độ ẩm đầy
đủ, đất tơi xốp, chất lợng dây giống tốt là những yếu tố đảm bảo cho quá
trình mọc mầm ra rễ thuận lợi, tỉ lệ dây sống cao. Vì vậy, xác định thời vụ và
mật độ trồng thích hợp là hai biện pháp quan trọng quyết định đến số cây/đơn
vị diện tích.
Sinh trởng thân lá và phát triĨn cđ lµ hai thêi kú quan träng cã mèi
quan hƯ mËt thiÕt víi nhau, võa cã t¸c dơng xóc tiến, vừa có tác dụng khống
chế lẫn nhau. Đó là mối quan hệ giữa thân lá và rễ củ, giữa bộ phận trên mặt
đất và bộ phận dới mặt đất và đợc biểu hiện bằng trị số T/R. Để cây khoai
lang sinh trởng, phát triển cân đối cần điều khiển cho tỉ lệ T/R tăng hay giảm

12



phù hợp với đặc tính của từng loại giống. Muốn vậy cần phải có chế độ bón
phân hợp lý cho từng loại giống khoai lang; căn cứ vào đặc điểm của đất đai,
điều kiện thời tiết khí hậu và mục đích sử dụng. Tuỳ thuộc vào loại giống lấy
thân lá hay lấy củ mà trong quá trình sinh trởng tỉ lệ T/R biến đổi khác nhau;
với giống lấy thân lá là chủ yếu tỉ lệ T/R sớm đạt giá trị lớn hơn 1 và kéo dài
đến thời kỳ cuối khi thu hoạch vẫn còn lớn hơn 1, nghĩa là khối lợng thân lá
lớn hơn khối lợng rễ củ. Còn những giống lấy củ là chủ yếu thì tỉ lệ T/R đạt
giá trị nhỏ hơn 1 thờng từ giữa thời gian sinh trởng đến khi thu hoạch và
thờng biến động từ 0,3-0,8, nghĩa là với những giống cho năng suất củ cao
thời kỳ giữa và cuối khi thu hoạch vật chất khô phải u tiên tập trung vận
chuyển về củ, đó chính là giai đoạn phình to của củ (Đinh Thế Lộc, 1997; Mai
Thạch Hoành, 1998)[2], [14]. Vì vậy, phải điều chỉnh sao cho vật chất khô
thời kỳ đầu tập trung để phát triển thân lá, thời kỳ sau phải tập trung cho sù
ph¸t triĨn cđa cđ. NÕu thêi kú ci thân lá phát triển mạnh thì năng suất của
củ sẽ giảm thấp.
Số củ/cây đợc quyết định bởi thời kỳ phân cành kết củ. Trong thời kỳ
này các yếu tố ngoại cảnh trong đó ẩm độ, độ thoáng của đất và liều lợng
phân đạm có ảnh hởng rất lớn đến số củ hình thành trên cây. Thời vụ, liều
lợng phân bón và phơng pháp trồng thích hợp có tác dụng tăng số củ/cây.
2.1.3.2. Yêu cầu sinh thái của cây khoai lang
Nhiệt ®é: Khoai lang cã ngn gèc nhiƯt ®íi nªn trong quá trình sinh
trởng cây cũng yêu cầu nhiệt độ tơng đối cao. Nhiều tác giả đà đi đến thống
nhất là cây khoai lang sinh trởng, phát triển tốt nhất ở nhiệt độ 20-300C. Tuỳ
từng giai đoạn sinh trởng của cây khoai lang mà ảnh hởng của điều kiện
nhiệt độ khác nhau. Giai đoạn mọc mầm ra rễ nếu điều kiện nhiệt độ cao, ẩm
độ cao cây sẽ chóng bén rễ, tỉ lệ dây sống cao, sinh trởng nhanh. Giai đoạn
phình to của củ cần biên độ nhiệt độ ngày và đêm lớn giúp cho quá trình tích


13


luỹ tinh bột về củ thuận lợi. ở miền Bắc do có mùa đông lạnh nên khoai lang
Đông Xuân thờng bị ảnh hởng của điều kiện nhiệt độ thấp trong giai đoạn
phân cành ra củ. Khoai lang vụ Đông cần tranh thủ trồng sớm để tạo điều kiện
cho thân lá sinh trởng và củ phát triển trong giai đoạn nhiệt độ còn cao.
Khoai lang Đông Xuân khi trồng cần có biện pháp chống rét, tránh trồng vào
ngày có nhiệt độ thấp, ảnh hởng đến quá trình bén rễ mọc mầm của cây. Vì
vậy, xác định thời vụ và phơng pháp trồng thích hợp cũng là biện pháp kỹ
thuật có hiệu qu¶ trong s¶n xt khoai lang.
N−íc: T tõng mïa vơ trồng mà nhu cầu nớc của cây khoai lang
cũng khác nhau. Nói chung cả vụ trồng, khoai lang yêu cầu ẩm độ đất khoảng
70-80%, song mỗi giai đoạn sinh trởng khoai lang cần ẩm độ đất không
giống nhau.
Thời kỳ đầu: yêu cầu nớc của cây khoai lang còn thấp, cây có khả
năng chịu hạn khá. Nếu độ ẩm đất thời kỳ này trên 90% thuận lợi cho quá
trình mọc mầm nhng ảnh hởng xấu đến quá trình hình thành củ.
Thời kỳ phát triển thân lá: cây cần nhiều nớc phục vụ cho quá trình tạo
thành và tích luỹ chất khô trong thân lá.
Thời kỳ phình to của củ: nhu cầu nớc của cây giảm xuống. Yêu cầu về
nớc trong thời kỳ này chủ yếu phục vụ cho quá trình vận chuyển chất đồng
hoá từ thân lá về củ. Vì vậy, tuỳ thời vụ trồng và giai đoạn sinh trởng của cây
mà quyết định chế độ tới nớc cho phù hợp, vì tuỳ theo giống lấy củ hay thân
lá mà yêu cầu nớc của chúng cũng khác nhau.
Đất đai và dinh dỡng: Khoai lang là cây trồng rất dễ tính có thể trồng
trên nhiều loại đất khác nhau nhng phát triển tốt nhất trên đất nhẹ, tơi xốp,
tầng đất canh tác sâu, đủ dinh dỡng. Cũng nh các loại cây trồng khác, khoai
lang yêu cầu đầy đủ NPK và các nguyên tố vi lợng. Là cây trồng có củ, cây
khoai lang yêu cầu lợng kali cao, vì vậy nhiều tác giả cho r»ng trång khoai


14


lang ë n−íc ta nªn bãn NPK theo tØ lƯ 2:1:3 hoặc 2:1:4 (Đinh Thế Lộc, 1979 ;
Vũ Xuân Thao, 1992)[8], [37].
Khoai lang là cây trồng thích hợp với phân hữu cơ đang phân giải.
Nhiều tác giả cho biết: trồng khoai lang bằng phân hữu cơ đang phân giải cho
năng suất tăng từ 14-41% so với trồng phân hoai mục (Đinh Thế Lộc, 1997,
1979)[2], [8].
2.2. Nghiên cứu trong và ngoài n−íc vỊ kü tht trång chđ u
2.2.1. Nghiªn cøu vỊ gièng khoai lang
Theo Martin (1985)[53], ®a béi thĨ dÉn ®Õn sự bất dục và gây ra những
sai sót trong quá trình phân chia giảm nhiễm. Kết quả là sự phân phối gen
không đều. Cây khoai lang là cây lục bội (2n = 90), với số nhiễm sắc thể cơ
bản là X = 15. Loµi khoai lang trång lµ Ipomoea batatas víi bé nhiƠm s¾c thĨ
2n = 6x = 90. Theo Yen (1982)[66] cho r»ng khoai lang cã thĨ lµ mét thể lục
bội hỗn hợp có tính chọn lọc cao, nhờ đặc tính giao phấn và thờng không có
hoặc rất yếu khả năng tự thụ phấn do tính tự bất hợp. Vì vậy, cây khoai lang
có tính dị hợp tử cao, luôn có sự biến động rất lớn về nhiều tính trạng.
Các nhà nghiên cứu chọn giống trên thế giới thấy rằng trong quá trình
phân bào giảm nhiễm luôn có sự cặp đôi của cặp nhiễm sắc thể tơng đồng
(Bacusmo, Acedo, Mariscal and Oracion, 1994)[40]. Vì vậy, những giả thuyết
về di truyền số lợng sử dụng với các dạng cây lỡng bội cũng có thể áp dụng
đối với cây khoai lang thông qua phơng pháp lai hữu tính, nhất là lai xác
định (Jones, 1994)[51].
Chọn giống khoai lang mang đặc điểm của cả cây sinh sản vô tính và
hữu tính nên hạt có thể tạo ra bằng cách lai kiểm soát giữa các giống hay các
kiểu gen có những tính trạng u việt khác nhau hoặc bằng con đờng thụ phấn
tự do trong vờn đa giao (Polycross) (Vũ Đình Hoà, 1996)[35]. Mỗi c©y con


15


có thể trở thành một giống mới do có đặc tính di truyền hoàn toàn khác với
những cây khác. Cây khoai lang là cây trồng có tính bất tự thụ cao và có tính
dị hợp tử cao. Các nhà chọn giống nhận thấy rằng các phơng pháp chọn tạo
giống cần phải hớng vào nâng cao độ dị hợp tử, đồng thời lu ý củng cố, duy
trì các hiệu ứng di truyền cộng và tơng tác giữa các gen. (Jones và cộng sự,
1986)[50] nghiên cứu trên 40 dòng từ quần thể hạt thụ phấn tự do cho thấy vai
trò của phơng sai di trun céng ë mét sè tÝnh tr¹ng cđa củ nh: hình dạng
củ, màu sắc vỏ củ, ruột củ, khối lợng củ... quan trọng hơn vai trò của phơng
sai di truyền không cộng. Sakai (1964)[58], nghiên cứu về tính trạng tỉ lệ chất
khô và tỉ lệ tinh bột cho rằng có thể cải tiến hàm lợng chất khô bằng cách lai
giữa giống, vì hai tính trạng này đợc quyết định bởi tác động cộng tính do
một nhóm gen kiểm soát. Vũ Đình Hoà (1996)[35], nghiên cứu 128 dòng từ
10 tổ hợp đà cho thấy hàm lợng chất khô có hệ số di truyền tơng đối cao và
kết luận rằng có thể nâng cao tỉ lệ chất khô bằng con đờng lai tạo, chọn lọc.
ở cây khoai lang có 3 phơng pháp tuyển chọn để thu nhận giống cải tiến:
- Thông qua đánh giá, chọn lọc từ nguồn gen (tập đoàn) địa phơng để
thu nhận giống. ở Nhật Bản, số lợng nguồn gen khoai lang đợc lu giữ năm
1993 tới 3.455 mẫu giống (Komaki, 1994)[52]. ở Philippin, ngân hàng gen
khoai lang đợc lu giữ hàng năm là 2.777 mẫu (Bacusmo, Acedo, Mariscal
và Oracion, 1994)[40]. Tại Trung Quốc, số lợng giống địa phơng tham gia
trong tập đoàn lu giữ cũng lên tới 3.000 mẫu, đợc duy trì thờng xuyên trên
đồng ruộng hoặc duy trì, bảo quản in vitro (Wang, Lin, Wu, Sheng, 1998)[64].
Còn ở nớc ta, tập đoàn giống khoai lang bớc đầu cũng đà thu thập đợc trên
500 mẫu (Ho và cộng sự, 1994)[49]. Tất cả nguồn gen địa phơng trong đó có
những giống quí nh Lim, Chiêm Dâu, Bông Trắng đang đợc bảo tồn, đánh
giá và sử dụng.

- Nhập nội các giống tốt ở các nớc khác nhằm đánh giá chọn lọc trong
điều kiện sinh thái cụ thể của từng vùng và phổ biến rộng vào sản xuất những

16


giống thích hợp nhất. Đây là con đờng ngắn và hiệu quả trong việc đa ra các
giống mới vào sản xuất. Bằng con đờng này, hàng loạt giống mới nhập nội
đợc tuyển chọn đà thay thế dần các giống cũ địa phơng năng suất thấp,
không thích hợp trong cơ cấu cây trồng hiện nay.
- Chọn tạo giống mới bằng phơng pháp gây đột biến cảm ứng và lai
nhằm tạo ra vật liệu mới, rồi tiến hành chọn lọc. Đột biến cảm ứng ở khoai
lang đợc quan tâm nhiều do cây khoai lang có mức đa bội thể cao (lục bội)
nên khi bị tác nhân xử lý làm cấu trúc không bền vững thay đổi, bị phá vỡ, gây
ra những biến dị mới. Tuy nhiên, các biến dị đột biến ở các yếu tố cấu thành
năng suất thờng xuất hiện với tần xuất thấp, chủ yếu ở tính trạng màu sắc vỏ
và thịt củ. Ngày nay, ngời ta chủ yếu chọn giống đột biến theo hớng biến
đổi dạng cây, hớng tăng hàm lợng chất khô và tinh bột với các tác nhân gây
đột biến là tia X, tia với liều lợng xử lý là 50-150 Gy (Đinh Thế Lộc và
cộng sự, 1997)[2]. Các nhà chọn giống chọn những biến dị đột biến có lợi làm
vật liệu bố mẹ lai với các giống bình thờng để có các con lai theo mục đích
chọn giống.
2.2.2. Nghiên cứu phân bón cho khoai lang
2.2.2.1. Phân bón với một số hoạt động sinh lý quan trọng của khoai lang
* ảnh hởng của phân bón đến chỉ số diện tích lá và hiệu suất quang hợp
Nhợc điểm của cây khoai lang là có hiệu suất quang hợp thuần thấp
(khoảng 2-5 gam vật chất khô/m2lá/ngày) hệ số sử dụng ánh sáng yếu (0,761,28%) (Đinh Thế Lộc và cộng sự, 1997)[2]. Do đặc điểm thân bò, số lá lại
nhiều, trên thân chính có khoảng 50-100 lá, tổng số lá toàn cây trung bình tới
300-400 lá và che khuất nhau nhiều làm giảm khả năng quang hợp. Càng
xuống các tầng lá phía dới, lợng ánh sáng tự nhiên mà cây thu nhận đợc

càng giảm, năng lực quang hợp của các lá này gần nh bằng không. Trong khi

17


đó lợng vật chất do các lá tầng trên tạo thành phải duy trì một phần cho các
lá phía dới, vì vậy sự vận chuyển và tích luỹ về củ bị giảm sút, năng suất củ
giảm. Điều này thờng xảy ra ở những ruộng khoai lang thân lá phát triển quá
tốt, nhất là trong giai đoạn phình to cuả củ. Do đó, để nâng cao hiệu suất
quang hợp thuần và hệ số sử dụng ánh sáng, cần phải cải thiện kết cấu tầng lá
hợp lý và tăng tuổi thọ của lá, bằng cách chọn tạo các giống khoai lang có
dạng thân đứng hoặc nửa đứng và mọc nhiều nhánh, thế lá mọc nghiêng,
không xoè ngang để giảm bớt sự che ánh sáng lẫn nhau giữa các tầng lá.
Ngoài biện pháp chọn tạo giống, một trong những biện pháp hiệu quả là phải
có kỹ thuật bón phân hợp lý cả về liều lợng và phơng pháp bón.
Một số tác giả nghiên cứu mối quan hệ giữa lợng phân bón và chỉ số
diện tích lá đều đi đến kết luận: mối quan hệ giữa mức phân bón với chỉ số
diện tích lá là mối tơng quan thuận, nghĩa là khi phân bón tăng, chỉ số diện
tích lá cũng tăng. Tuy nhiên, do cã sù che kht lÉn nhau lín nªn nÕu diƯn
tÝch lá tăng quá cao thì hiệu suất quang hợp thuần sẽ giảm. Theo Đinh Thế
Lộc (1997)[2] thì hiệu suất quang hợp thuần cao nhất là ở chỉ số diện tích lá từ
3,5-4,2 m2lá/đất. ở những ruộng khoai lang sinh trởng thân lá kém, chỉ số
diện tích lá nhỏ hơn 3 thì năng suất sẽ giảm thấp, bởi khả năng tạo thành vật
chất khô của lá giảm, lá chóng xuống mÃ, tuổi thọ giảm (Ưng Định, 1957;
Mai Thạch Hoành, 1998) [31], [14].
Mối quan hệ giữa mức phân bón và hiệu suất quang hợp thuần khá phức
tạp: nhìn chung, mức phân bón tăng thì hiệu suất quang hợp thuần tăng, nhng
mức phân bón tăng quá cao thì hiệu suất quang hợp thuần lại giảm thấp. Nh
vậy, mỗi giống khoai lang có một mức phân bón tơng đối ổn định tuỳ theo
loại đất và điều kiện sinh thái nhất định. Với các giống khoai lang có tiềm

năng cho năng suất củ cao, tăng lợng phân bón quá mức hay mất cân đối sẽ
làm giảm năng suất và phẩm chất củ. Ngợc lại, với các giống khoai lang lấy
thân lá thì phân bón tăng sẽ làm tăng năng suất chất xanh và tăng cả phÈm

18


chất thân lá. Do đó tuỳ theo mục đích của ngời trồng trọt dùng loại giống nào
mà định mức phân bón phù hợp để giống phát huy hết tiềm năng của nó.
* Phân bón với sự phát triển thân lá và sự tích luỹ vật chất khô
Trịnh Vĩnh Phúc, Trơng Thuỵ Tuyền (1962) (dẫn theo Đinh Thế Lộc,
1997)[2] nghiên cứu về quan hệ giữa phân bón, diện tích lá và khả năng tích
luỹ chất khô ở củ cho thấy: khi chỉ số diện tích lá vợt quá 4,2 nếu mức phân
bón càng cao thì tốc độ tích luỹ chất khô ở rễ củ giảm càng mạnh. Đinh Thế
Lộc, 1989)[9] kết luận rằng: với các giống khoai lang cho năng suất củ cao thì
trọng lợng chất khô ở rễ củ thờng tăng dần theo thời gian sinh trởng, song
độ tăng chất khô ở rễ củ phụ thuộc chặt chẽ vào diện tích lá. ở chỉ số diện tích
lá trên 4 thì tốc độ tăng chất khô ở rễ củ lớn nhất. Tuy nhiên nếu diện tích lá
quá cao, đặc biệt lại giảm ít vào thời kỳ cuối lại ảnh hởng đến hàm lợng chất
khô tích luỹ ở củ. Mặt khác nếu rng khoai lang cã bé l¸ xng m· sím, ti
thä của bộ lá ngắn thì lợng vật chất khô tạo thành ít, dẫn đến năng suất thân lá
và năng suất củ đều giảm. Điều này thờng xẩy ra ở các ruộng khoai lang
không đợc bón đủ phân, đất nghèo dinh dỡng quá mức. Còn với các giống
khoai lang có tiềm năng sinh trởng thân lá mạnh, cho năng suất thân lá cao,
khi đợc bón nhiều phân diện tích lá và sinh khối thân lá tăng một cách rõ rệt.
Vì vậy, nếu trồng khoai lang với mục đích sử dụng thân lá thờng đợc bón
đạm nhiều hơn, nhất là sau mỗi lần cắt tỉa thân lá (Nguyễn Thế Yên,
1999)[23].
2.2.2.2. Vai trò của các yếu tố dinh dỡng NPK đối với cây khoai lang
Mỗi một nguyên tố dinh dỡng đều có vai trò khác nhau trong quá trình

sinh trởng phát triển và tạo thành năng suất cho cây khoai lang. Ngoài tác
động riêng rẽ, các nguyên tố dinh dỡng còn có tác động tơng hỗ với nhau,
hỗ trợ nhau thúc đẩy các quá trình hoạt động sống của cây khoai lang. Nhiều

19


tác giả cho biết nếu đủ lân sẽ tăng hiệu quả đạm, hoặc đủ kali thì quá trình
phình to của củ sẽ thuận lợi (Mai Thạch Hoành, 1998; Mai Thúc Lân, Hồ Thế
Hùng, 1969; Đinh Thế Lộc, 1979, 1989)[14], [15], [8], [9].
Theo Iso E. (Đài Loan) (dẫn theo Đinh Thế Lộc, 1997)[2]: Tác dụng
của đạm và kali thể hiện rõ trong việc tăng số lợng trung bình củ và khối
lợng thân lá. Đạm, lân làm tăng tỉ lệ caroten trong củ và năng suất củ, còn
kali làm tăng năng suất củ nhng không ảnh hởng đến tỉ lệ caroten (Đinh
Thế Lộc, 1979)[8]. Lân có ảnh hởng rất lớn đến quá trình phát triển của rễ,
đến khả năng quang hợp và vận chuyển chất dinh dỡng. Thiếu lân, năng suất
và phẩm chất củ giảm, khả năng bảo quản kém; lân làm tăng hiệu quả của việc
bón đạm (Bùi Huy Đáp, 1961, 1984)[4], [6].
Kali đẩy mạnh hoạt động của bộ rễ và tợng tầng, đẩy mạnh khả năng
quang hợp, hình thành và vËn chun hỵp chÊt hydrat cacbon vỊ rƠ. ThiÕu kali
khoai lang chËm lín, Ýt cđ, tØ lƯ tinh bét gi¶m, tỉ lệ xơ tăng, khó bảo quản.
Theo Iso E. (Dẫn theo Đinh Thế Lộc, 1997)[2], tỉ lệ NPK trong dây lá
khoai lang tơng ứng là 0,81: 0,15 : 0,005% khối lợng khô, trong củ là 1,8 :
1,14 : 3% khối lợng khô. Ruộng khoai lang muốn đạt năng suất 15 tấn củ/ha,
cây khoai lang phải lấy từ đất khoảng 70 kg N : 20 kg P2O5 : 110 kg K2O. Về
liều lợng, cây khoai lang cần nhất là kali, tiếp đó là đạm và cuối cùng là lân
trong suốt quá trình sinh trởng. Về thời kỳ sinh trởng, cây khoai lang cần
nhiều đạm nhất vào thời kỳ đầu (thời kỳ sinh trởng thân lá), cần nhiều kali
nhất vào giai đoạn sau (giai đoạn phát triển phình to của củ), còn lân thì cây
cần trong suốt quá trình sinh trởng, nhất là giai đoạn đầu hình thành và phát

triển của bộ rễ (Mai Thạch Hoành, 1998; Mai Thúc Lân, Hồ Thế Hïng, 1969;
§inh ThÕ Léc, 1979, 1989)[14], [15], [8], [9].

20



×