Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

TICH LUY CHUYEN MON THANG 9 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.43 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TíCH Luỹ THáNG 9 - 2009</b>


<b>1. Hình nh trong bi th Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan</b>


<b>Đèo ngang</b>


<b>Bà huyện thanh quan</b>


<b>2. Tỏc gi bi th Bạn đến chơi nhà Nguyễn Khuyến </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>3.Một số hình ảnh về Hồ ChÝ Minh</b>



<b> Minh ho¹ cho bài Đức tính giản dị của Bác Hồ</b>



<b>4. Biu tượng “con cò” trong ca dao</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

những cánh cò ca dao. Dường như thiếu những cánh cò ấy, ca dao sẽ nghèo đi biết
mấy. Nhiếu bài ca dao mở đầu bằng hai tiếng con cò: “Con cò bay lả bay la” “Con
cò bay bổng bay cao”, “Con cò lặn lội”, “Con cị trắng bạch như vơi”, “Con cị
vàng”, “Con cị kì”, “Con cị quắm” v.v…Những con cị, cánh cị như in bóng
trong suốt chiều dài của ca dao,


Phải chăng, con cò là hình ảnh rất gần gũi với người nơng dân hơn tất cả.
Những lúc cày cấy ngồi đồng, người nơng dân thường thấy con cò ở bên họ, con
cò lội theo luống cày, con cò bay trên đồng lúa xanh xanh, con cị đi quanh quanh
trên dịng sơng con rạch …


Và chẳng biết tự lúc nào, con cò đã len lỏi vào cảm xúc, tâm trí của người
nơng dân. Có lẽ chúng ta đều quen thuộc với câu ca dao:


<i>“Một đàn cò trắng bay tung</i>


<i>Bên nam, bên nữ ta cùng hát lên!”</i>
hay câu:


<i>“Một đàn cị trắng bay quanh</i>
<i>Cho loan nhớ phựong, cho mình nhớ ta.”</i>


Trai gái cùng nhau vất vả làm lụng nơi cánh đồng thửa ruộng, họ thân quen
rồi đi đến thưong yêu, khi gần thì ấm áp, khi xa thì nhung nhớ. Cánh cò đã nâng
cao và chuyên chở trái tim yêu thương của họ. Nhưng họ yêu nhau ước mơ rất
nhiều mà nào dễ lấy được nhau, ngày nào còn xa nhau thì mọi tâm tình họ cịn
hướng về nhau quấn qt như những:


<i>“Cái cị, cái vạc, cái nơng</i>


<i>Cùng ăn một đồng, nói chuỵên giằng co</i>
<i>Muối kia đổ ruột con gà</i>


<i>Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.”</i>


Người nơng dân cịn mượn hình ảnh con cị để miêu tả cảnh ngồi khơng biếng
nhác của địa chủ:


<i>“Cái cị lặn lội bờ ao…</i>
<i>Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi không</i>


<i>Chú tôi hay tửu hay tăm</i>
<i>Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa</i>


<i>Ngày thì ước những ngày mưa</i>
<i>Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.”</i>



Chàng trai làng thấy cô nông thôn xinh đẹp “yếm đỏ” vừa đi qua, anh đã cất tiếng
trêu đùa dí dỏm. Anh đã đưa ra hình ảnh một tên rượu chè be bét, lười lao động,
thích hưởng lạc – một tên chắc chắn anh rất oán ghét – ướm hỏi chị và tất nhiên
anh biết rằng chị cũng chẳng ưa gì tên địa chủ ấy. Anh nơng dân ẩn thân kín đáo
trong “cái cị lặn lội bờ ao”, tuy vất vả lam lũ nhưng lại hay lam hay làm…Bọn địa
chủ luôn hiện lên trong ca dao với bản chất tham lam tàn ác:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Ba cái cùng béo, vặt lông con nào!</i>
<i>Vặt lông cái vạc, cho tao!</i>


<i>Hành, răm, nước mắm bỏ vào mà thn.”</i>


Cái cị, cái vạc, cái nơng tiêu biểu cho người nông dân ở vùng nông thôn. Dưới
con mắt của giai cấp phong kiến thì đều “béo” cả. Lần lượt sẽ sa vào tay chúng
hành hạ. Một khi chúng muốn ức hiếp thì khơng cần một lí do chính đáng nào cả.
Chúng chỉ cần một vài lời vu cáo vẩn vơ là đủ:


<i>“Cái cò, cái vạc, cái nơng</i>
<i>Sao mày giẫm lúa nhà ơng, hỡi cị?</i>


<i>Khơng, khơng, tơi đứng trên bờ</i>
<i>Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tơi</i>


<i>Chẳng tin thì ơng đi địi</i>
<i>Mẹ con nhà nó cịn ngồi ở kia.”</i>


Nhân dân thường lấy “cái cị” để nói về mình trong ca dao có thể đó là một số
phận đáng thương:



<i>“Con cò mà đi ăn đêm</i>


<i>Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao</i>
<i>Ơng ơi ơng vớt tơi nao</i>


<i>Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng</i>
<i>Có xáo thì xáo nước trong</i>
<i>Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.”</i>


Mở đầu bài ca dao ta đã bắt gặp ngay một hình ảnh bất thường: con cị đi ăn đêm.
Nó thường đi ăn ban ngày nhưng dường như ban chưa đủ nên mới “tăng ca” như
thế. Và vì đi đêm, nó khơng quen, nên mới gặp tai nạn “Đậu phải cành mềm” và
“lộn cổ xuống ao” như một tất yếu. Lời van xin khẩn thiết của nó vang lên một
cách đau lịng, xin “ơng vớt tơi” lên. Bản năng sinh tồn hay chính lịng ham sống,
sống để ni con đã giúp cị cất tiếng van xin cứu vớt. Có lẽ cả hai.


Đứng trước cái chết, cò mong được sống cũng là lẽ thường tình. Nhưng tại
sao con cị lại thề thốt “Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng”. Thì ra, con cị đang
phân trần rằng nó khơng hề có “lịng nào” là khơng hề có ý gian tham dối trá. Lần
thứ 2 cị lên tiếng mong được chết trong sạch “Có xáo thì xáo nước trong”, bởi cị
lại sợ “xáo nước đục” sẽ “đau lòng cò con”. Trong giây phút “thập tử nhất sinh”,
con cị dự cảm mình khi lọt vào tay “ơng” thì khó mà được sống. Chỉ cịn một điều
tha thiết là được chết trong danh dự để “cò con” khơng đau đớn lịng. Đó là một sự
lựa chọn đầy đau đớn, bi kịch nhưng rất đẹp, rất nhân văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Số phận nghèo nàn cơ cực nhưng lịng dạ trung thực sáng ngời của người lao động
bình dân theo triết lí sống đẹp “Chết vinh cịn hơn sống nhục”


Trong ca dao, hình ảnh con cị còn mang biểu tượng người phụ nữ :
<i>“Con cò lặn lội bờ sơng</i>



<i>Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non.”</i>


Nhân dân lao động thật có sự liên tưởng quá bất ngờ. Con cị được nhân hóa làm
nổi bật lên vẻ tần tảo hy sinh của người phụ nữ trước đây. Từ “lặn lội” gợi lên sự
“thầm lặng chịu khó chịu thương nuôi chồng”, việc buôn bán nắng mưa dãi dầu,
lời ra tiếng vào, cò kè nơi mua bán chị phụ nữ nào hé răng than vãn, chỉ chọn nơi
vắng vẻ người qua lại khóc lóc một hồi cho vơi bớt đắng cay chịu đựng. Hình ảnh
này đã từng được Tú Xương vận dụng trong bài thơ “Thương vợ” rất thành cơng:


<i>“Lặn lội thân cị khi qng vắng”</i>


Mượn một biểu tượng của ca dao để bày tỏ lòng biết ơn trước nỗi vất vả cơ cực
của bà Tú, Tú Xương chỉ thay một chữ “con” thành “thân” mà làm sáng cả bài thơ.
Biết bao nỗi niềm của Tú Xương được gửi gắm trong hai chữ “ thân cò” ấy!


<i>Kết luận: Một cánh cị thơi mà bay khắp mọi miền đất nước, xuyên thấu mọi</i>
thời gian, cánh cò “bay lả bay la”, “bay bổng bay cao” từ chiều sâu quá khứ đến
chiều dài hơm nay - ngày mai, cánh cị bay vào lời ru của mẹ, lời dạy của cô, lời
tâm sự bạn bè:


<i>“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!</i>
<i>Cho cò trắng đến làm quen</i>


<i>Cò đứng ở quanh nơi</i>
<i>Rồi cò vào trong tổ</i>
<i>Con ngủ n thì cị cũng ngủ</i>
<i>Cánh của cị hai đứa đắp chung đôi…”</i>


</div>


<!--links-->

×