Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Hoc tap va lam theo loi Bac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.26 KB, 45 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TIỂU SỬ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH</b>



Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức u nước, nguồn
gốc nơng dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh
kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo
dục gia đình đã ảnh hưởn sâu sắc đến Hồ Chủ tịch ngay từ thời niên thiếu.


<b>Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy</b>
nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giờ và quyết tâm
đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước.


<b>Tháng 6/1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á,</b>
châu Phi, châu Mỹ. Người hịa mình với những côngnhân và những người dân thuộc địa, vừa
lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi
vang dội của cách mạng tháng Mười Nga đã đưa Hồ Chủ tịch đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ra sức nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã nhận rõ đường lối duy nhất đúng đắn để
giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.


<b>Cùng năm ấy, Người thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt</b>
Kiều ở Pháp. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội pháp và hoạt động trong phong trào
cơng nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) "Bản yêu sách của
nhân dân Việt Nam", địi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của
dân tộc Việt Nam.


<b> Tháng 12/1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán</b>
thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện trên đây
đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoa chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa cộng sản.


<b>Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922</b>
xuất bản báo "Người cùng khổ" ở Pháp. Tháng 6/1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, nước xã


hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tham gia
công tác của Quốc tế cộng sản. Cùng năm đó, Người được bầu vào Đồn Chủ tịch Quốc tế
nông dân. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy
viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách
mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông - Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập
Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.


Tháng 6/1925, Người tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, mà hạt
nhân là Cộng sản Đoàn, đồng thời ra báo Thanh niên và mở lớp huấn luyện đào tạo hàng trăm
cán bộ đưa về nước hoạt động.


<b>Ngày 3/2/1930, Người triệu tập hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng) để thống</b>
nhất các nhóm cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian từ 1930
đến 1940, Người ở nước ngồi tham gia cơng tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát
phong trào cách mạng trong nước và có những chị thị quý báu cho Ban chấp hành Trung ương
Đảng ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập
trước nhân dân cả nước và nhân dân toàn thế giới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa,
Nhà nước Cơng nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.


<b>Trong những ngày đầu cách mạng, nước ta có nhiều khó khăn chồng chất và bị bao vây</b>
bốn phía. Nạn đói do phát xít Nhật - Pháp gây ra đã giết hại hơn hai triệu người Việt Nam.
Tháng 9/1945 câu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung
Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của
Cách mạng tháng Tám.


<b>Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân ra vừa</b>
đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng
Giới Thạch ở miền Bắc.



<b>Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp.</b>
Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm
miền Nam, kéo ra miền Bắc và lấn dần từng bước ở miền Bắc, âm mưu tieến tới xóa bỏ Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Trước tình hình ấy, tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kêu gọi toàn quốc kháng chiến và cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài chống thực dân Pháp đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ
(1954).


<b>Tháng 7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng.</b>
Nhưng một nửa nước ở miền Nam bị đế quốc Mỹ biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng.
Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam.


<b>Tháng 9/1960, đại hội lần thứ ba của Đảng đã họp, thông qua nghị quyết về hai nhiệm</b>
vụ chiến lược và bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Người và của Ban chấp hành Trung ương đảng, nhân dân ta vừa đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiếng
chống Mỹ, cứu nước để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà và đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.


<b>Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. </b>


<b>Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của mộtngười</b>
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh
không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hịa bình và cơng lý trên thế giới.


Cuộc họp lần thứ 24, năm 1987 tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của liên hợp


quốc UNESCO ra nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh "Anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và là một nhà văn hóa lớn" (HỒ CHÍ MINH
VIETNAMESE HERO OF NATIONAL LIBERATION AND GREAT MAN OF CULTURE)
vào năm 1990.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>BÁC HỒ VÀ THẾ HỆ TRẺ - HỎI CHUYỆN ĐỒNG CHÍ VŨ KỲ </b>


<b> Làm thư ký cho Bác đã hai mươi bốn năm, có bao giờ anh thấy Bác tự cho mình là một</b>
<b>"ơng già" khơng? Và Bác đã làm gì để chống lại tâm lý "ông già" ấy? </b>


Như tất cả các cụ già Việt Nam, Bác cũng muốn có cái thú vui bình dị của tuổi già như
Bác đã thể hiện trong thơ: Xách bương, dắt trẻ ra vườn tưới rau. Nhưng ở Bác, tôi không bao
giờ thấy bộc lộ tâm lý mệt mỏi của một "ông già". Chắc đồng chí cịn nhớ bài thơ của Bác:


<i> Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm, </i>
<i> Vẫn vững hai vai việc nước nhà. </i>
<i> Kháng chiến dân ta đang thắng lớn, </i>
<i> Tiến bước, ta cùng con em ta! </i>


Xuất xứ của bài thơ là thế này. Sáng 20 tháng 5 năm 1968, Bác dậy sớm hơn để chuẩn
bị 6 giờ 15 tới dự kỳ họp khai mạc của Quốc hội. Vào hội trường, với tư thế trẻ trung và hóm
hỉnh, Bác nói: Lần trước tơi có nói là những thắng lợi của chiến sĩ và đồng bào hai miền làm
cho tôi như trẻ lại 20 tuổi. Nhưng nay nghe nói 78 tuổi, thì tơi thấy già đi. Vì vậy tơi có bài
thơ này: "Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm...". Cả hội trường sôi động hẳn lên. Các đại biểu
Quốc hội ai cũng cảm thấy cùng trẻ lại với Bác.


Từ khi bước chân vào hoạt động cách mạng cho đến lúc từ giã cuộc đời, Bác luôn luôn
quan tâm đến thế hệ trẻ. Năm 1925, Bác đã lo đào tạo nhân tài trẻ bằng cách gửi Lê Hồng
Phong, Trương Văn Lễnh sang học trường quân sự Hoàng Phố, gửi Trần Phú và một số thanh
niên khác sang học trường đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va. Các cháu thiếu niên, nhi


đồng, Bác cũng chú ý nhiều. Đó là những cháu ở Trung Kỳ phải sống lưu lạc vì bố mẹ bị thực
dân Pháp bắt bớ, tù đày, được Bác đưa từ Phi Chít (Thái Lan) sang Quảng Châu để tổ chức
thành nhóm "Thiếu niên tiền phong Việt Nam". Năm 1926, Bác đưa một số cháu sang học ở
Liên Xô kèm theo bức thư gửi Uỷ ban Trung ương Đội Thiếu niên tiền phong trực thuộc
Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Lê-nin: "... Khi chúng tơi nói cho các em nghe về
Lênin, về các bạn, những học trò nhỏ Nga của Lê-nin, các em rất thích và muốn đến nước các
bạn để gặp các bạn, sống với các bạn, học tập các bạn, và thật sự trở thành những học trò của
Lê-nin như các bạn... Chúng tơi hy vọng rằng các đồng chí khơng từ chối nhận ba hoặc bốn
đồng chí nhỏ tuổi Việt Nam chứ?" Thật là cảm động, Bác lo cho các cháu những điều rất nhỏ,
được viết trong lá thư: "... Vào tháng mấy thì ở Mát-xcơ-va bắt đầu lạnh (vì các em thiếu niên
này từ một nước nóng bức tới, phải chọn lúc thời tiết thích hợp cho các em đi)... Đến
Mát-xcơ-va, các em tới địa chỉ nào?..."


Khởi đầu lịch sử Đảng ta cũng là do lực lượng thanh niên được Bác dìu dắt. Hồi đó, Bác
đã tổ chức "Thanh niên cách mạng đồng chí hội" và tự tay Bác soạn thảo cuốn "Đường kách
mệnh" để giảng dạy.


Năm 1961, trong Đại hội lần thứ ba của Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam, Bác vui
mừng nói: "Từ chỗ chỉ có một Lý Tự Trọng đến ngày nay chúng ta có <i><b>78</b> vạn đoàn viên Đoàn</i>
<i>thanh niên lao động hăng hái ra sức giúp Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh</i>
<i>thống nhất Tổ quốc. Tiến bộ đó làm cho Bác rất vui sướng và trẻ lại. Nó làm cho lòng Bác</i>
<i>phơi phới như hoa nở trong mùa xuân". </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tất cả các hình thức tổ chức để tập hợp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng nhằm phụng sự
Tổ quốc, Bác đều chú ý, quan tâm giáo dục để tổ chức đó ngày càng vững mạnh. Trong đó tổ
chức thanh niên xung phong được Bác đặc biệt quan tâm. Bài hát truyền thống của Thanh niên
xung phong cũng là bài ca chính thức của Đồn thanh niên bây giờ, được nhạc sĩ Hoàng Hà
phổ nhạc bốn câu thơ của Bác:


<i> Khơng có việc gì khó </i>


<i> Chỉ sợ lòng không bền, </i>
<i> Đào núi và lấp biển </i>
<i> Quyết chí ắt làm nên! </i>


Trên đường đi chiến dịch Biên giới, ghé thăm một lán trại thanh niên xung phong làm
đường, Bác trò chuyện thân mật rồi hỏi "Các cháu có thích nghe thơ khơng?". Tất cả đồng
thanh: "Chúng cháu thích nghe thơ ạ". Thế là Bác ứng khẩu đọc bốn câu thơ này. Ngay sau
đó, nhiều thanh niên xung phong và cả bộ đội Vệ quốc đoàn đều truyền cho nhau và học thuộc
trong chiến dịch Biên giới.


Về tổ chức thanh niên xung phong, Bác nói với tơi: "qúy hồ tinh, bất quý hồ đa, lựa tuyển
<i>cẩn thận để thanh niên xung phong thật sự là một trường đào tạo thanh niên bằng những</i>
<i>công việc thiết thực".</i> Bác trực tiếp xem và sửa chữa bản điều lệ về nhiệm vụ và bổn phận của
Đoàn thanh niên xung phong.


Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác theo dõi rất sát các hoạt động
của thanh niên xung phong, kịp thời viết bài, nêu gương những điển hình tốt và gửi thư khen
các đơn vị thanh niên xung phong có nhiều thành tích trong xây dựng và chiến đấu.


Tháng 5 - 1968, trong phần viết thêm vào Di chúc, có đoạn: "Những chiến sĩ trẻ tuổi
trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong
chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các
cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và cơng nhân có kỹ
thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công
cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta".


Như vậy, Bác xem tổ chức Thanh niên xung phong không chỉ để làm những việc cụ thể
như đắp đường, xây cầu, khai hoang..., mà còn là một trường học để rèn luyện và đào tạo cán
bộ tốt cho đất nước. Nếu không nhận thức đầy đủ như vậy tức là chưa thấu hiểu được lời dạy
của Bác đối với thanh niên xung phong.



<i> Là người được thường xuyên gần gũi Bác, chắc anh thấy rất rõ sự quan tâm bồi dưỡng</i>
<i>và giáo dục thế hệ trẻ được thể hiện trong công việc và sinh hoạt thường ngày của Bác? </i>
Một lần, Bác đi công tác xa hơn một tháng, lúc trở về, Bác lại ngồi bên cầu ao vỗ tay gọi
cá đến để cho ăn. Hôm ấy Bác không thấy con cá gáy vây đỏ đến ăn. Bác hỏi tôi. Tôi không
biết trả lời thế nào. Tối, tôi hỏi anh em, được biết không ai câu cả. Khoảng mười ngày sau,
ngồi bên Bác cho cá ăn, Bác bảo: "Kìa, chú coi, con cá gáy vây đỏ miệng đỏ đã đến rồi đấy".
Rồi Bác nói thêm: "Các chú ở nhà chắc không cho cá ăn đều và đúng giờ cho nên nó mới phải
đi kiếm ăn lăng băng như thế". Bác hạ giọng như tự nói với mình: "Đối với con người cũng
thế, nhất là tuổi thanh niên, khơng quan tâm giữ nếp sống tốt thì cũng như thế". Tơi nghe mà
thấm thía sâu sắc làm sao!


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

miền Bắc để yên tâm công tác với niềm tin là được dạy dỗ tốt. Tại sao có tình trạng này? Lỗi
các cháu một phần thì trách nhiệm của các cô các chú gấp mười phần... Bác căn dặn: vì các
cháu xa nhà, thiếu tình cảm gia đình, cho nên phân trách nhiệm cho một số gia đình cán bộ
chăm sóc các cháu như con em trong nhà. Bác cũng nhận chăm sóc con của đồng chí Nguyễn
Hữu Thọ một cháu trai, hai cháu gái.


Ngày 23 tháng 5 năm 1969, Bác tiếp ông Chủ tịch Thượng nghị viện Chi-lê X. Agienđê,
sau này là Tổng thống. Sau đó, Agienđê đã ghi lại những ý nghĩ chân tình của mình trong một
bài báo: "Chúng tôi ngồi quanh một cái bàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở chiếc phong bì lấy ra
một tấm ảnh và nói với chúng tơi: "Đây là một kỷ niệm". Chủ tịch lần lượt giới thiệu với
chúng tơi những em thiếu nhi anh hùng miền Nam có nét mặt ngây thơ đang ngồi quây quần
quanh Chủ tịch trong tấm ảnh. Chủ tịch nói: "Tơi rất vui lịng về các cháu thiếu nhi ngày nay...
Hồi cịn nhỏ, tơi không làm được những việc mà các cháu đã làm. Thiếu nhi thời tơi cũng
vậy". Sau đó, Chủ tịch mở một quyển vở cũ và với giọng dịu hiền, Chủ tịch đọc những con số
chỉ rõ những thanh niên, thiếu nhi đã đạt được thành tích xuất sắc trong học tập, lao động và
trong những việc làm anh hùng. Con số này ngày một tăng, nói lên sự nỗ lực của thanh niên".
Agienđê kết luận: "Chưa bao giờ một người khi nói với chúng tơi về các em nhỏ lại giáo dục
chúng tôi nhiều như vậy".



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>HỌC TẬP VÀ LÀM THEO BÁC PHẢI TRỞ THÀNH NẾP SỐNG, NẾP NGHĨ </b>


Nhiều nơi có phong trào hưởng ứng đợt vận động Học tập và làm
theo tâm gương đạo đức Hồ Chi Minh sớm và sôi nổi như Hà Nội,
TPHCM, Hà Tây, Hải Dương, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Lạng Sơn,
Thái Bình, Bắc Giang...


Việc triển khai cuộc vận động vào đúng dịp chuẩn bị tiến hành cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII càng có ý nghĩa và tác dụng thiết thực
đối với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm công dân trong lựa chọn
những người thực sự có đức, có tài để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh, Trưởng Ban chỉ đạo T.Ư, đã truyền
đạt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị đối với cuộc vận động này.


Theo đó, các cấp, ngành, địa phương trước hết cần thống nhất nhận thức về ý nghĩa, tầm
quan trọng và nội dung của cuộc vận động, xác định đây là chủ trương lớn của Đảng nhằm tạo
ra một sự chuyển biến cơ bản về tư tưởng, ý thức của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân;
ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng và phẩm chất đạo đức của một bộ
phận trong xã hội.


Tổng Bí thư nhấn mạnh phải đưa cuộc vận động này vào chiều sâu, huy động sức mạnh
của tồn bộ hệ thống chính trị và hết sức tránh sự phơ trương hình thức và kém hiệu quả. Cần
gắn liền cuộc vận động này với việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của Đảng, về đấu tranh chống lãng phí và tham nhũng...


Tổng Bí thư khẳng định đây phải là một đợt sinh hoạt chính trị lâu dài, thường xuyên và
liên tục để cuối cùng trở thành một nếp nghĩ, nếp sống của mỗi con người, mỗi tập thể.


Để cuộc vận động được thực hiện có kết quả, mỗi cấp, ngành, địa phương, đơn vị và cá


nhân cần có nội dung và chương trình hoạt động cụ thể. Mỗi bộ, ngành, đơn vị cần thành lập
các ban chỉ đạo thực hiện cuộc vận động, trong đó các đồng chí thủ trưởng phải trực tiếp làm
Trưởng Ban.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>HỌC CÁCH “ TỰ NHÌN LẠI MÌNH".</b>



Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt chăm lo và đặt niềm tin mãnh liệt
vào thế hệ thanh niên. Trong các tác phẩm nói về thanh niên, Bác Hồ ln chú ý đến việc giáo
dục và rèn luyện thế hệ thanh niên cách mạng “ Vừa hồng – vừa chuyên” đủ sức gáng vác sự
nghiệp cách mạng xây dựng và bảo Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm
châu. Nhìn lại lịch sử của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã có bao lớp người sẵn
sàng hy sinh khơng một chút vụ lợi vì tiếng gọi thiêng liêng của độc lập dân tộc, hịa bình và
hạnh phúc của nhân dân, những tấm gương ấy, những con người ấy chúng ta ln ghi nhớ, gìn
giữ và phát huy mãi đến mai sau.


Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đồn viên thanh niên chúng ta phải học cách “
Tự nhìn lại mình”!? một vấn đề tưởng chừng như rất dễ, nhưng kỳ thực lại rất khó để có một
kết cục đúng. Trước hết “ Tự nhìn lại mình” là thể hiện một thái độ trung thực với chính bản
thân, nhưng để tự đánh giá mình một cách khách quan nhất và có thật sự trung thực với chính
mình hay khơng thì chúng ta phải tự đặt mình ở đâu trong vơ vàn các mối quan hệ của cuộc
sống? Đối với người thanh niên cộng sản khi tự đánh giá lại mình phải đặt mình trong sự thể
hiện tình cảm trách nhiệm đối với xã hội, ý thức trách nhiệm hành vi trong các mối quan hệ xã
hội và trách nhiệm về số phận của người khác, của giai cấp, dân tộc. Hằng ngày có những
hành động, thái độ của chúng ta khi thoáng qua sẽ khơng thấy được tác hại của chúng ( Hoặc
có thể thấy được nhưng phớt lờ vì lợi ích của cá nhân) vì chúng ta cho rằng nó khơng làm tổn
hại đến cụ thể đối tượng cụ thể nào, nhưng khi có một lý tưởng đúng đối với dân tộc, xã hội,
con người thì những hành động, thái độ đó cần phải được đánh giá lại. Chính vì vậy khi “ Tự
nhìn lại mình” địi hỏi mỗi chúng ta phải có một tư duy độc lập và một cái tâm trong sáng.


“ Tự nhìn lại mình” để làm gì? Đối với mỗi cá nhân là cơ hội để tự vấn chính mình, gột


bỏ những những nhỏ nhen xây dựng một tâm hồn trong sáng nhằm có một thái độ và hành
động đúng trong cơng việc, học tập. Nhưng “ Tự nhìn lại mình” cịn có một ý nghĩa sâu rộng
hơn nữa đó là thể hiện sức mạnh của một dân tộc, mỗi cá nhân trong một dân tộc đều biết đặt
lý tưởng của dân tộc mình trong từng suy nghĩ và hành động cụ thể thì chắn chắn dân tộc đó
sẽ là một dân tộc mạnh. Ơng bà ta có câu nói “Thắng một vạn qn binh khơng bằng chiến
<i>thắng chính mình”, người biết “ Tự nhìn lại mình” mới thực sự là người có dũng cảm, thanh</i>
niên biết nhìn lại mình là thanh niên có chí khí tiến thủ, mà thanh niên là tương lai và mùa
xuân của dân tộc vì vậy mỗi thanh niên phải ln tự nhìn lại mình, soi mình vào tấm gương
đạo đức của Bác Hồ và của các thế hệ đàn anh đi trước để học tập và rèn luyện. Mặt khác có
dũng cảm tự nhìn lại mình thanh niên mới có cơ hội để đứng dậy và tiến bộ sau khi vấp ngã.


Vậy lúc nào “ Tự nhìn lại mình”? Phải nói rằng nhìn lại mình là một cơng việc hàng
ngày của mỗi thanh niên ( Sáng rửa mặt – Tối rửa lịng). Ln nhìn lại mình trong mỗi cơng
việc, hành động, thái độ để kịp thời điều chỉnh chính mình. Ở đây “ Tự nhìn lại mình” cịn
mang tính nhân văn cao cả nó giúp cho mỗi người tự xây dựng cho mình một nền tảng trí tuệ
và thành trì đạo đức vững chắc để sẵn sàng đứng vững giữa những sóng gió.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

người luôn để cho mỗi thanh niên chúng ta phải “Tự nhìn lại mình” trong lao động, học tập và
công tác./.


<b>THỜI GIAN QUÝ BÁU LẮM</b>



Sinh thời Bác rất khó chịu khi thấy cán bộ làm việc khơng đúng giờ.
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn
luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý:


"Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi
mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ,
vì thời gian quý báu lắm".



Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, một đồng chí cấp tướng đến
làm việc với Bác sai hẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ,
ngựa không qua được. Bác bảo:


- Chú là chỉ huy mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao
nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên đã không giành
được chủ động.


Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp.
Bác hỏi:


- Chú đến chậm mấy phút?
- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!


- Chú tính thế khơng đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.


Bác quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu,
vì vậy thường khơng bao giờ để bất cứ ai phải đợi mình.


Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí thức, lúc đó đang
bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đến làm náo nức cả lớp học, mọi người hồi
hộp chờ đợi.


Bỗng chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi một cơn mưa dồn dập, xối xả, tối
đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ không dứt. Ai cũng xuýt xoa, tiếc rẻ: Mưa thế này, Bác đến
sao được nữa, trời hại quá.


Giữa lúc trời đang trút nước, lịng người đang thất vọng, thì từ ngồi hiên lớp học có
tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ:



- Bác đến rồi, anh em ơi! Bác đến rồi!


Trong chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần xắn đến quá đầu gối, đầu đội nón. Bác hiện ra
giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng của tất cả mọi người.


Về sau, anh em được biết: Giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đổ mưa to. Các
đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí đề
nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác...


Nhưng Bác không đồng ý: "Ðã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì biết
đến khi nào?


Thà chỉ một mình Bác và một vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cho cả lớp học phải chờ
uổng công!".


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Ủy ban Hành chính thành phố để lên chúc Tết Bác Hồ. Sắp đến giờ lên đường, trời bỗng đổ
mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu xếp phương tiện cho đoàn đi để Bác
khỏi phải chờ lâu thì bỗng xịch, một chiếc xe đậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống,
cầm ô đi vào, lần lượt bắt tay, chúc Tết mỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của
các đại biểu.


Thì ra, thấy trời mưa to, thơng cảm với khó khăn của ban tổ chức và khơng muốn các đại
biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại chỗ chúc Tết các đại biểu trước. Thật
đúng là mối hằng tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ nghĩ đến nhân dân, cho đến tận
phút lâm chung, vẫn không quên dặn lại: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng
linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân".


Một lần, Bác đi công tác xa hơn một tháng, lúc trở về, Bác lại ngồi bên cầu ao vỗ tay
gọi cá đến để cho ăn. Hôm ấy, Bác không thấy con cá gáy vây đỏ, miệng đỏ đến ăn. Bác hỏi,
đồng chí Vũ Kỳ không biết trả lời thế nào. Khoảng 10 ngày sau, lúc ngồi bên Bác cho cá ăn,


Bác bảo: “Kìa, chú coi, con cá gáy vây đỏ, miệng đỏ đã đến rồi đấy”. Rồi Bác nói thêm: “Các
chú ở nhà chắc không cho cá ăn đều và đúng giờ cho nên nó mới phải đi kiếm ăn xa đàn
không nhớ quay trở về như thế”. Bác hạ giọng như tự nói với mình: “Đối với con người cũng
vậy, nhất là tuổi thanh niên, không quan tâm giữ nếp sống tốt thì cũng như thế”.


Đó chính là sự nhắc nhở của Bác trong việc giáo dục đối với thanh, thiếu niên. Cũng như
việc học tập tích luỹ kiến thức, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của mỗi con người nói chung, của
thanh, thiếu niên nói riêng đều phải trải qua một quá trình lâu dài và thường xuyên. Hiện
tượng một bộ phận thanh, thiếu niên ngày nay sống buông thả, mất phương hướng và có tâm
lý hưởng thụ một phần xuất phát từ ngun nhân khơng khép mình vào khuôn khổ tổ chức,
sống buông thả…


Thanh, thiếu niên là lứa tuổi “nửa người lớn, nửa trẻ con”, nếu không được quan tâm
giáo dục đến nơi đến chốn rất dễ đi vào con đường lầm lạc, sa ngã. Nhưng muốn thế, trước hết
các bậc phụ huynh, thầy cô giáo ở trường, cũng như những người đứng đầu các tổ chức trực
tiếp quản lý thanh, thiếu niên phải là tấm gương sáng, đi đầu trong việc rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức, lối sống cả trong nghiên cứu, học tập và làm việc.


Trong điều kiện hiện nay, khi nhiều gia đình kinh tế khấm khá lên, các bậc phụ huynh vì
lo làm ăn mà khơng có thời gian dành cho con cái, khơng có thời gian chăm sóc, giáo dục con
em mình một cách chu đáo, dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc xảy ra. Khơng ít sát thủ đang ở
lứa tuổi học sinh, sinh viên phạm tội khi vừa đến cái mốc được làm “cơng dân”. Một phạm
nhân tuổi học trị đã tâm sự rằng, bố mẹ con lo làm ăn, chẳng ai quan tâm đến con, vì cơ đơn
tủi thân nên con đã theo bạn, theo bè, thậm chí cũng khơng ai để ý xem con đang làm gì? ở
đâu? Thế là con cứ trượt dần, trượt dần… rồi vào trại giam. Lại có một bị cáo khác “tài cao”
nhưng “đức thấp”, vừa bước qua tuổi thành niên, trước vành móng ngựa đã sám hối: “Giá như
<i>tôi được quan tâm và giáo dục tốt hơn thì điều đáng tiếc này sẽ khơng xảy ra”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>đỏ, miệng đỏ”, “biết đường đi và biết lối quay trở về” như câu chuyện đầy ý nghĩa mà Bác đã</i>
để lại cho chúng ta./. )



<b> </b>

<b>CHÚC TẾT BÁC, NGÂM THƠ BÁC</b>



Buổi sáng đầu giờ làm việc, một ngày giáp Tết năm Â't Tỵ (1965).
Tôi được lệnh theo xe thu thanh của đài Tiếng nói Việt Nam và phủ Chủ
tịch công tác. Hôm ấy, trời không rét lắm, nhưng sao người tôi cứ run lên,
trống ngực đánh thình thình, mặc dầu tơi đã mặc chiếc áo "vét" dầy rất ấm.
Đã sáu giờ. Điện trong vườn phủ Chủ tịch cũng vừa tắt. Những hàng
nhãn thẳng tắp, những cây tùng và những cành thiên tuế dọc theo lối sỏi,
những chậu hồng trắng bên thềm nhà đã khoác một màu xanh mới! Chúng tôi nhanh chân lần
theo bậc thềm đến chờ ở nhà khách.


Trong đồn, các đồng chí cử tơi mang hoa mừng tuổi Hồ Chủ tịch. Tơi vừa mừng vừa lo.
Đời tơi có bao giờ được diễm phúc lớn lao như thế này? Đồng chí ở vǎn phịng Bác đứng
trước. Tơi cùng các đồng chí khác đứng thành hàng ở bên trong. Tơi đã sắp sẵn những lời
chúc Bác, nhẩm đi nhẩm lại như thuở nhỏ còn đi học vỡ lòng. Các đồng chí dặn tơi cứ bình
tĩnh. Kìa, Bác đã đến. Chúng tơi chạy ùa ra đón Bác. Bác khỏe mạnh, vẻ mặt hồng hào, quắc
thước trong bộ kaki quen thuộc. Chân Bác bước thoǎn thoắt từ thềm đi lên, với đôi dép lốp
giản dị. Tôi đang vội vã sửa lại nếp áp và bó hoa để dâng lên chúc Bác nǎm mới thì Bác đã
đến gần chúng tơi.


Tơi chưa kịp nói: "Thưa Bác" thì Bác đã đưa tay lên rồi:
- Nǎm mới Bác mừng các cháu khỏe!


Tơi sững sờ líu cả giọng:


Thưa Bác nhân dịp nǎm mới, chúng cháu ở Đài Tiếng nói Việt Nam lên mừng Bác mạnh
khỏe, sống lâu muôn tuổi.


Bác nhìn những bơng hoa mà tôi dâng lên Bác. Bác lại hỏi: Lại tặng hoa à? Bác nhận lấy


hoa, và ngay lúc đó Bác trao lại cho tơi, Bác nói: Bác gởi tặng lại cô chú ở Đài về cắm lọ cho
vui mấy ngày Tết.Trước đó tơi cũng đã nghe được nhiều chuyện về Bác, biết Bác không ưa
nghi thức. Nhưng tôi thật không ngờ Bác thật giản dị đến như thế.


Tôi đã trấn tĩnh lại và bạo dạn hơn. Bác như một người cha hiền từ và đôn hậu quá?
Sau đó Bác vào phịng. Bác bảo chúng tơi ngồi, chúng tơi cịn chần chừ chưa biết ngồi
đâu. Bác chỉ ghế cho từng người ngồi xuống quanh Bác không phân biệt ngôi thứ giám đốc,
nhân viên gì cả. Bác hỏi chúng tơi về cơng việc làm ǎn, học tập, những tiến bộ, khó khǎn trong
cơng tác. Đồng chí cán bộ phụ trách báo cáo với Bác từng việc và khơng dám kéo dài thì giờ
của Bác, đồng chí xin phép Bác cho được thu lời chúc mừng nǎm mới của Bác để phát lên đài
trong đêm giao thừa cho đồng bào miền Nam, đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài
nghe. Bác gật đầu:


- Các chú đã chuẩn bị xong chưa?
- Thưa Bác xong rồi ạ!


Thế là đồng chí thư ký của Bác trình Bác tấm thiếp màu hồng có in hình quốc huy hai
bông lúa trên bánh xe và ngôi sao vàng rất đẹp, dưới là lời chúc Tết của Bác. Bác mở túi áo
lấy đơi kính lão.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

"Đồng bào thân mến!


Nhân dịp nǎm mới, tôi gởi lời chúc mừng thân ái nhất đến toàn thể đồng bào miền Bắc
và miền Nam, toàn thể chiến sĩ và cán bộ, đến các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi
đồng, đến kiều bào ta ở nước ngồi.


Tơi thay mặt đồng bào ta gởi lời chúc mừng tốt lành đến nhân dân các nước anh em
trong phe Xã hội Chủ nghĩa, nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là các bạn A' Phi, Mỹ
La tinh.



Sau đây có vài vần thơ nôm na chúc đồng bào nǎm mới.
Bác dừng lại một lúc hỏi chúng tôi:


Bác đọc như thế nghe có rõ có được khơng?
- Thưa Bác rất tốt, rất rõ ạ.


Chúng tôi rất mừng tiếng Bác khỏe, tròn và rất ấm. Bác lấy giọng, đọc tiếp những câu thơ
sau:


<i>Chào mừng Â't Tỵ xuân nǎm mới,</i>
<i>Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi</i>


<i>Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi</i>
<i>Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới.</i>
<i>Đồng bào hai miền thi đua sơi nổi,</i>


<i>Đấu tranh anh dũng, cả nước một lịng.</i>
<i>Chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi,</i>
<i>Hịa bình thống nhất ắt hẳn thành công.</i>


Nghe Bác đọc xong, tiếng Bác sang sảng, giọng Bác ấm áp lịng chúng tơi phấn chấn lạ
thường. Đêm giao thừa, đồng bào cả nước, nhất là chiến sĩ đồng bào miền Nam anh dũng sẽ
được nghe tiếng nói của Bác Hồ truyền đi chúc Tết, thật cịn gì hạnh phúc bằng. Tơi cứ tưởng
tượng lúc ấy đồng bào miền Nam sẽ đốt hương trầm, hướng cả về đồng bào miền Bắc, để
nghe lời Bác.


Chúng tơi thu tiếng nói của Bác vừa xong, Bác quay về phía tơi bảo:
-Cháu Tuyết ngâm lại cho mọi người nghe đi.


Thật là vinh dự quá bất ngờ. Nhưng tôi cũng lo lắm.



Ngâm trong phịng thu kín thì dễ, lại có đàn tranh, đàn nguyệt, đàn mười sáu dây đệm
đưa giọng ngân vang, giờ đây lại ngâm thơ trước Bác, tôi rất hồi hộp? Làm sao diễn đạt được
chất thép, chất hào hùng trong thơ Bác. Những suy nghĩ ấy chỉ thống qua trong phút giây, tơi
mạnh dạn cất giọng ngâm.


Nghe xong, Bác vỗ tay và nói:


-Cháu ngâm được đấy, nhưng cháu phải khiêm tốn và cố gắng rèn luyện thêm, để khi
ngâm cho nhân dân nghe hay hơn nữa.


Nói rồi Bác đứng lên cầm những bông hồng bạch để ở đĩa trang trí trên bàn, tặng chúng
tơi mỗi người một bơng. Chúng tơi sung sướng q? Đồng chí thư ký của Bác Hồ cịn cho
chúng tơi biết đấy là hoa trong vườn Bác, do tay Bác trồng và ngày ngày Bác tưới.


Bác lại gọi các đồng chí phục vụ mang kẹo ra và cho chúng tôi chụp ảnh chung với Bác.
Những nǎm gần đây, tơi cũng có dịp được ngâm thơ Bác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Trong tù không rượu cũng không hoa,</i>
<i>Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.</i>
<i>Người ngắm trǎng soi ngồi cửa sổ,</i>
<i>Trǎng dịm khe cửa ngắm nhà thơ.</i>
<i>Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp,</i>
<i>Mây, gió, trǎng, hoa, tuyết núi, sơng.</i>
<i>Nay ở trong thơ nên có thép,</i>


<i>Nhà thơ cũng phải biết xung phong.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>ĐƯỜNG VỀ PẮC BÓ</b>


<i>Hãy về thǎm quê ta Pắc Bó</i>

<i>Nơi Bác về nguồn nước mới sinh</i>
<i> (Tố Hữu) </i>


<i> Vượt cầu sông Bằng, đi khỏi thị xã khá xa, ô tô đưa chúng</i>
tôi rẽ về cánh đồng Cao Bình mênh mơng phủ một màu xanh,
điểm thêm những cây hoa rừng bióc - mạ đỏ đẹp như tấm thổ
cẩm. Thị trấn Nước Hai sầm uất, vẫn còn dấu vết thành quách gần một trǎm nǎm của thời Mạc
Kính Cung đến Mạc Kính Vũ (1592-1688) khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng.


Phố Sóc Giang, đồn biên giới ẩn hiện sau từng lượt núi sừng sững, một vị trí xung yếu
bao thời, nơi "quan hà bách nhị do thiên thiết" (chỗ xung yếu, hai người có thể chống được
trăm, do trời đặt ra). Đường này là ngã ba Đôn Chương ngược lại là về bản Nà Toàn - quê
hương'của đồng chí Hồng Đình Giong tức Vũ Đức, chỉ huy trưởng khu 9 Nam bộ những
ngày đầu kháng chiến ehống Pháp. Kia là lối đi các bản Nà Mạ, Nà Kéo, bản Hoong, bản
Hoàng... đền thờ nhà Lê trước mặt ở dốc chùa Đống Lân, chỗ rừng cây cổ thụ ngả bóng mát
suốt ngày. Sau đền thờ vua Lê là khu Lam Sơn, Hào Lịch - nơi cơ sở cách mạng vững vàng
trong những năm 30. Đến gần bản Hoàng là đền thờ cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Chí Cao,
anh hùng dân tộc có cơng đánh qn xâm lược Tống từ đầu thế kỷ thứ II.


Dọc con sông trừng, nước xanh trong, từ Pắc Bó chảy ra, giữa dãy Lục Khu, Mã Lịp, mộ
Kim Đồng xây bên sườn vách núi Tẻo Lài, tựa lưng vào những tường đá xanh đen nhấp nhô
như đàn trâu rừng phủ phục bên anh. Con suối êm ả ngày đêm chảy qua trước mộ. Một cây cơ
thụ ngả mình làm cầu đón khách đến thăm. Dòng chữ ghi đậm nét trên bia: "Nhớ ơn liệt sĩ
Nông Văn Dền tức Kim Đồng" nhắc chúng tôi đến với người đội viên thiếu niên cứu quốc dân
tộc Tày do Bác Hồ đào tạo đã vì nước qn mình. Chào Kim Đồng, chúng tơi đi tiếp con
đường về Pắc Bó, bản Nà Mạ - làng Tiền trạm - mở rộng cửa đón khách thập phương đến
thăm khu di tích cách mạng. Ngày trước, mỗi khi giặc Pháp, giặc Nhật lùng sục qua làng,
nhân dân vùng này đưa khăn mặt treo ngoài sàn làm mật hiệu cho "đài quan sát" trên đỉnh núi
Mác biết để báo tin cho "đại bản doanh" Pắc Bó.



Lần trước vào năm 1970, mùa xuân chúng tôi ghé thăm mẹ Kim Đồng. Mẹ già lắm, tuổi
mẹ cao bằng tuổi Bác. Hơm đó mẹ mệt. Cơn rét cuối mùa còn quẩn quanh ở vùng núi cao làm
mẹ khó ở. Mẹ chào khách và mời ngồi bên giường mẹ . Bà mẹ anh hùng đã hiến dâng Kim
Đồng cho Tổ quốc cũng bình thường như mọi bà mẹ Việt Nam khác. Mẹ rất vui mừng khi biết
có khách xa về thǎm, nhưng mắt mẹ lại ứa lệ khi nhìn lên bàn thờ gặp chịm râu và mái tóc
bạc phơ đơn hậu của Bác Hồ và nghĩ đến Kim Đồng ngọc vàng của mẹ. Biết mẹ mệt, chúng
tôi không dám động đến chuyện cũ. Người chị của Kim Đồng pha nước tiếp chúng tôi. Chị kể
chuyện cho nghe về bản làng mới, đẹp kể từ khi có cách mạng về. Đồng chí Lê Duẩn, ngày về
thǎm Pắc Bó, có đến chào mẹ và tặng mẹ chiếc quạt bàn, vì lúc đó Pắc Bó đã có thủy điện
nhỏ. Cả nhà, cả bản gọi chiếc quạt ấy là quạt của Đảng cho.


Ngồi trời mưa, trận mưa núi khơng to nhưng nghe chừng dữ dội. Nước chảy ào ào
dưới suối. Dòng suối quay nhanh những guồng nước đạp chày giã gạo liên hồi phía đầu bản.
Bất giác chúng tơi nhớ đến câu thơ của Ngơ Thì Sĩ thời Lê Cảnh Hưng đã ghi về vùng này:
<i>Cư dân Thái bản Thổ tham Nùng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>Thủy cửu tùy cơ nhật dạ thung...</i>


(Nhân dân quá nửa là người Thái người Tày, người Nùng. Nhà ở dùng tre, gỗ làm sàn
xoay theo hướng đông tây Tùy nước chảy, đặt cối giã gạo, giã suốt đêm ngày).


Ngày nay, vùng châu Hồng Phong (Hà Quảng) khơng những chỉ có guồng lấy nước và
cối giã gạo bằng nước suối mà nước đã quay các tuốc-bin trên nhà máy thủy điện bên đồi.
Điện đã đưa về tận Pắc Bó thắp sáng cả vùng đồi núi bao la.


Nhà lưu niệm Pắc Bó trên triền đồi đất đỏ. Ngày 8-2-1970 Văn hóa Cao Bằng làm lễ
khánh thành rất trọng thể, từ mùa xuân 1941 Bác về Pắc Bó theo bút tích Bác ghi trong hang
đá "8-2-1941" thì tới nay vậy là vừa đúng 44 năm. Trong cuộc tấn cơng hèn hạ vừa qua, giặc
đã cho nổ mìn phá hoại cửa hang và phá sạch Nhà lưu niệm Bác, đã gây một sự phẫn nộ cho
đồng bào cả nước và lương tri của nhân dân thế giới.



Bây giờ, từ thị xã Cao Bằng về thăm Pắc Bó, ơ tô đi thẳng đến cột kilômét 52. Năm
<b>1961, tức là "20 năm trước ở hang này" từ Đôn Chương vào, chỉ có đường đi bộ. Ngày ấy,</b>
Bác trở về Pắc Bó, Bác cũng cịn đi một đoạn đường ngựa. Dân bản hơm ấy đổ ra đón Bác,
đón đồng chí Tố Hữu, đồng chí Nguyễn Khai và các đồng chí cùng đi. Những màu áo chàm
còn thơm mới, những chiếc áo hoa, nhiều màu đỏ và những giọt nước mắt đầy xúc động:


- Sin hổ lai lố Bác á! (Bác ơi, Bác vất vả quá!)
- Tôi về thăm nhà, sao bà con lại ra đón?


Bác rưng rưng nước mắt. Các cụ, các mẹ cảm động cũng khóc ịa. Thanh niên trai gái cả
mấy bản gần xa hôm ấy đều về để biểu diễn Pile, múa khèn chào Bác. Bác hỏi thăm từng
người, từng gia đình và cơng việc làm ăn trong hợp tác xã, Bác nói:


Cao Bằng, ít nhất phải cao, bằng nơi cao nhất. Hay Cao Bằng lại cao không nơi nào
bằng. Theo phong tục địa phương, đồng bào mời Bác trồng ba bụi trúc để làm kỷ niệm. Ba bụi
trúc Bác trồng, giờ đây đã sinh sôi nẩy nở thành hàng trăm bụi trúc lớn nhỏ. Những khóm trúc
xanh mượt mọc rậm bên bờ suối Lênin, bên cạnh cây ổi ngày xưa Bác dùng lá đun nước thay
chè. Trúc là cây trường thọ, là tượng trưng cho người anh hùng, quân tử bền lòng trước gian
nan. Giờ đây nhân dân địa phương nâng niu từng kỷ vật Bác để lại. Những cây cải xoong Bác
trồng, nay thành hàng dãy, hàng dãy trải dài khắp hai bên bờ suối. Những khúc củi Bác đun dở
trong hang lạnh hình như vẫn còn hơi ấm của người. Phòng bảo tàng Cao Bằng đã sưu tầm
được 314 hiện vật. Bác để lại cho Pắc Bó một chiếc vali mây. Tài sản 30 năm chu du khắp các
nước từ Đông sang Tây. Bác xách về nay vẫn cịn đó! Một bộ áo chàm với quyển lịch sử Đảng
cộng sản Liên Xô. Gia tài trong chiếc vali quá nghèo và quá ít, nhưng Bác mang về Pắc Bó,
cho cách mạng Việt Nam, cho cả nước một gia tài vô giá, một ngôi sao Bắc đẩu một ngọn lửa
thần kỳ hướng dẫn và soi sáng con đường đấu tranh giải phóng dân tộc ta. Nhân dân Việt Nam
ngàn đời nhớ ơn Bác.


Trong nhà đồng chí Dương để chiếc linh xa<b>(1)</b> của đồng bào Pắc Bó thờ Bác. Tự tay


một đồng chí họ Dương viết dịng chữ: "Tâm Bá chỉ khiêu thủ chỉ lộ" (Tim Bác ngừng đập
nhưng tay Bác vẫn chỉ đường).


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

- Tôi già, các bác cũng già cả. Tôi làm cách mạng được, các bác có nên làm cách mạng
khơng?


- Bác tốt bụng q đi thơi! Đồng chí Đại Vinh nói tiếng phổ thơng chưa nhiều, có đoạn chen
tiếng Nùng. Đồng chí Vĩnh Xn dịch lại cho chúng tơi nghe. Việc gì Bác cũng làm cả. Ai
Bác cũng thương, cũng giúp. Bác tắm cho trẻ, chữa ghẻ, chốc cho các cháu. Bác là "ơng Ké có
thuốc tiên". Bác đến nhà là trẻ con xúm lại đông. Đứa nào Bác cũng cho quà và trò chuyện với
các bạn nhỏ. Quà của Bác ngày tết là một phong bao gói một vài xu, ngày thường thì con
chim, con gà, con cá Bác lấy lá cây hoặc cỏ rừng tết lại. Có những cháu ngày trước Bác tắm
cho giờ đã cầm súng đánh thắng Mỹ và chỉ huy bộ đội đánh bọn xâm lược, Bác kính già yêu
trẻ, Bác đã ví: "Trẻ em như búp trên cành..."


Chao ôi! Bác của chúng ta sao có tấm lịng thương yêu trẻ sâu xa đến vậy!
Từ giã nhà họ Dương, xuống cầu thang gác nhà sàn chị Vương Kim Liên mẹ của Chí Thâm
-người con gái mang tên làng Sen ở thơn Pắc Bó. Chị trước tên là Hú, Bác đổi lại tên Kim Liên
- tên quê Bác cho chị. Những ngày Bác mới về Pắc Bó, chị theo chồng là anh Đại Lâm lên
thăm Bác. Thấy "ông Ké" ở hang lạnh, chị về bàn với bà con may cho "ông Ké" hai bộ áo
chàm. Chị nghĩ thương "ông Ké" như cha, "ông Ké" gầy làm việc suốt đêm ngày mà ăn mặc
khơng có gì.


Hơm chúng tơi đến, các em trong bản lại sà vào lòng nghe kể chuyện về Bác, mặc dầu
những chuyện ấy có chuyện các em đã nghe đến lần thứ mấy mươi. Em nào nghe cũng say sưa
như nghe chuyện cổ tích của dân tộc Nùng vậy. Chuyện kể về Bác Hồ ở bản Pắc Bó, có thể
ghi lại thành một pho sách. Nhiều giai thoại đẹp lắm, thần kỳ lắm! Cuộc đời sôi nổi và phong
phú của Bác là những sự thật đẹp hơn những truyền thuyết.


Chuyện về Bác ở thôn Nậm Quang - một bản bên kia mốc l08 - chuyện khi Bác về


nước, cho đến những ngày Bác xuống làng hoạt động. Bác dạy học, Bác tăng gia, Bác giác
ngộ quần chúng, những ngày "cháo bẹ rau măng" sinh hoạt kham khổ của Bác...
Đến Pắc Bó mà chưa đi Khuổi Nậm là điều đáng tiếc. Khuổi Nậm là nơi họp Trung ương
Đảng lần thứ 8. Lần họp ở Khuổi Nậm nằm trong khu rừng vắng phía bên phải dòng suối
LêNin, hai bên là núi cao, dòng suối cạn ở chính giữa. Lán cỏ đơn sơ, tương phản với những
quyết định thật cực kỳ quan trọng: Thành lập Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang, Bác chủ tọa buổi họp lịch sử này?


Mùa xuân năm 1961, Bác về thăm lại Pắc Bó , tức cảnh, Bác ngâm bốn câu thơ:
<i>Hai mươi năm trước ở hang này,</i>


<i>Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây.</i>
<i>Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu,</i>


<i>Non sơng gấm vóc có ngày nay.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

- Hỡi các chiến sĩ cách mạng, giờ giải phóng đã đến! Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo
toàn dân đánh tan thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đang vang dội bên tai các
đồng chí! Máu nóng các bậc anh hùng đang sơi sục trong lịng các đồng chí!...


Những lời hịch của Bác vang vọng khắp trong Nam ngồi Bắc, trùm lên cả non sơng,
đến hơm nay vẫn cịn giục giã thanh niên lên đường ra biên giới.


Muốn vào hang phải men theo dòng suối LêNin qua những lớp đá và rừng cây xanh um.
Nơi Bác ngồi làm việc là một phiến đá không lớn lắm. Hang rộng dài không quá một toa tàu
hỏa, từ chân núi trèo lên miệng cao hơn 50 mét. Chỗ Bác nằm bên phải, chỗ các đồng chí bảo
vệ Bác bên trái. Tượng Các Mác do Bác khắc bằng những nhũ đá nhấp nhơ giống hình người.
Bác tơ điểm thêm một chú vượn dưới chân Các Mác.


Trước khi chúng tôi đến thăm hang này, Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên nhi đồng


Pắc Bó đã kéo nhau về đây làm lễ mang tên Bác cho đồn, đội của mình. Đội thiếu niên mời
một chiến sĩ cách mạng lão thành châm bó đuốc, tượng trưng cho "năm điều Bác dạy". Ngọn
đuốc sáng nhất là ngọn đuốc "Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào". Năm ngọn đuốc bừng lên nơi Bác
Hồ ở và làm việc ngày trước như khí thiêng của sơng núi tụ về. Nhiều em gái nhỏ, hôm ấy dậy
sớm hơn thường lệ , cùng các bạn về hang Bác ở. Đường vào hang, em đi mấy lần suýt ngã.
Em nghĩ thương Bác vô vàn. Nghe các cụ kể: lúc ở nước ngồi về Pắc Bó, chân Bác mang
"hài sảo" dây rơm cắt nát bàn chân Bác. Thế mà ngày ngày Bác vẫn "Sáng ra bờ suối, tối vào
hang". Bác ơi? Vì thế hệ chúng cháu mà Bác chịu gian nan cả đời. Giờ tổ chức của chúng
cháu được mang tên Bác, chúng cháu phải ra sức rèn luyện cho xứng đáng. Nghĩ như vậy, các
em lại vui vẻ cùng các bạn đi thắng về hang Pắc Bó một cách khỏe khoắn. Hơm về Pắc Bó,
chúng tơi có gặp nhiều đồng chí cách mạng lão thành, tuổi các đồng chí đều "cổ lai hi" nhưng
đến Pắc Bó chân thêm cứng, tinh thần thêm vững và càng leo ngươi càng khỏe thêm ra. Phải
chăng đây là sức mạnh vơ hình do Bác truyền lại?


Bác về Pắc Bó cách đây ngót 50 năm. Ngày ấy Bác bí mật từ nước ngồi về, sau bao
nhiêu năm rịng với hình ảnh anh Ba làm nghề phụ bếp dưới tàu đã rời bến Sài Gòn, vượt sóng
đi khắp năm châu và tìm đường về với Tổ quốc. Chỉ hai bàn tay trắng mà xây dựng một sơn
hà: Bác làm rạng rỡ lịch sử của cha ông từ thuở Vua Hùng dựng nước đến ngày nay. Giờ đây,
chúng ta về Pắc Bó, đường đã mở rộng thênh thang. Đồng chí Lê Duẩn ngày đến Pắc Bó có
căn dặn cán bộ Cao Bằng: "Đường về Pắc Bó phải là con đường Đỏ". Và kể tử ấy đến nay,
trên con đường từ thị xã Cao Bằng về Hà Quảng, nhân dân dã xây dựng bao nhiêu hợp tác xã
cao cấp. Hợp tác xã Bản Ngần đã hơn 7 tấn, hợp tác xã Tiên Hoàng dẫn đầu về trồng cây.
Đường về có hoa đỏ, và với tinh thần Bác ln luôn bênh cạnh, những chi bộ, Đảng bộ 4 tất
cũng sẽ nảy hở trên khắp dịa phương này. Trong câu cuối bài thơ ghi ở sổ lưu niệm nhà bảo
tàng Pắc Bó, đồng chí Đại Long có viết:


<i>Bác cịn sống, sống mãi</i>
<i>Sống trong lịng mọi người</i>
<i>Bảo tàng nay mở cửa</i>



<i>Đón khách bốn phương trời</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

hội chủ nghĩa các nước tư bản đến. Bạn từ các nước còn đang hoạt động bí mật, nhiều đại biểu
các Đảng anh em đang trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc đến thǎm Pắc Bó để tìm
hiểu thêm cuộc đời của Bác, tìm hiểu thêm những bước đường cách mạng của nhân dân ta
theo ngọn cờ của Bác. Các đồng chí miền Nam cũng lần lượt về quê hương của cách mạng
Việt Nam. Những người "hành hương" về Pắc Bó tất cả đều một lịng kính u Bác là con
người Việt Nam đẹp đẽ nhất, anh hùng nhất.


Về Pắc Bó để học tập cuộc sống, tinh thần tự do của một chiến sĩ vĩ đại suốt đời đấu
tranh không mệt mỏi.


Đường về Pắc Bó tuy xa tít tận biên giới phía bắc, nhưng lịng ta vẫn ln ln hướng
về đó. Vì đó là con đường Bác về Tổ quốc. Đối với chúng ta, đó là con đường Bác vạch ra cho
ta đi đến tương lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>BÁC ĐÃ DẠY TÔI YÊU THƯƠNG CON TRẺ </b>



Vào cuối tháng tư năm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ "5 tốt" tồn miền Bắc họp tại
Thủ đơ. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cơ cịn trẻ hơn con dâu út của tơi, duy
chỉ tôi là đầu đã bạc.


Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến.


Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô "Bác Hồ muôn năm" vang lên bắt
đầu từ những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phịng họp rộng lớn này. Tơi
mừng vui và cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác
lại nhắc đến tên tơi. Tơi run lên, thú thật tơi khơng cịn tin ở tai mình nữa. Tơi cứ tưởng mình
đang nằm mơ! Bên cạnh tơi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên đồn văn cơng qn đội ghé
sát vào tai tơi nói khẽ : "Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!". Lúc đó tôi mới tin là không phải


trong mơ, mà là sự thật. Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao
giờ tôi dám nghĩ đến. Tơi là một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ
thủ công già, thế mà Bác lại quan tâm đến công việc làm của tôi!


Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác... Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời
tôi ghi tạc lời dạy của Người:


"Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm
là tay trái của hạnh phúc".


Rồi Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào "5 tốt" vấn đề xây dựng gia đình ni dạy
con cái, Bác nói: "Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là
đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:


<i>Nhiễu diều phủ lấy giá gương</i>


<i>Người trong một nước phải thương nhau cùng</i>


Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:
<i>Lọ là thân thích ruột rà</i>


<i>Cơng nơng thế giới đều là anh em.</i>


Đã là đại gia đình, thì sự săn sóc dạy dỗ cũng khơng chỉ nhằm làm cho con cháu mình
khỏe và ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này
chúng ta có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có
cơng giáo dục mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều
cố gắng làm được như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt.



Hội trường hướng về phía tơi vỗ tay ầm vang. Lúc này tơi lúng túng q, chẳng biết làm
gì. Tơi cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại căn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền
cần thiết thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhièu
cho cuộc chống Mỹ cứu nước.


Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi:


Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cơ có
làm khơng?


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

- Dạ, họp xong về làm ngay.
Làm được bao nhiêu?


- Thưa Bác làm khắp nơi ạ!


Tơi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.


Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà
Quế đi đến chỗ tôi ngồi, chị gọi:


Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác.


Lúc đó tơi bàng hồng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tơi cố nhấc bước lên
nhưng chân tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác
cầm tay tôi. Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì.


Nhưng tơi tốt mồ hơi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn
sáng rực vào phía tơi.


Như biết tơi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế:


- Cụ ngồi xuống đây


Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thăm hỏi gia đình tơi.
- Cụ ông có khỏe không?


Thưa có ạ!


- Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không?


Tôi rất kinh ngạc, thế ra mọi việc làm của tôi và của các cháu Bác đều biết. Tôi lần lượt
thưa cùng Bác số cháu nơi tôi đỡ đầu có 30 cháu. Đó là những cháu chưa ngoan. Các cháu
mảng học, ham chơi bời, trèo cây, đánh nhau, có cháu ăn cắp làm mất trật tự trị an đường phố.
Mẹ cha thì buồn phiền, nhà trường lo lắng. Tơi cũng thưa với Bác những khó khăn bước đầu
trong việc tập hợp các cháu lại, tổ chức cho các cháu vui chơi, lao động và học tập. Và đến
nay tơi đã có một đóng góp nhỏ đã là giáo dục được 180 cháu trở thành những đội viên thiếu
niên tốt, những cháu ngoan của Bác. Có 8 cháu được chọn đến Phủ Chủ tịch liên hoan cùng
thiếu nhi Thủ đô, hè năm 1962. nhiều Cháu đã được đeo huy hiệu Đoàn.


Bác lại hỏi thêm.


- Các cháu đối với cụ thế nào?


- Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng "bà nội". Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực
hiện "5 điều Bác Hồ dạy".


Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp:
- Đảng ủy, chính quyền, đồn thể có giúp gì cụ khơng?


có ạ!



- Cụ cịn nguyện vọng gì nữa khơng?


Thưa Bác, được gặp Bác, biết Bác khỏe, là điều sung sướng nhất, và ước mong cho
miền Nam giải phóng để chị em phụ nữ và đồng bào miền Nam được đón Bác, đó là nguyện
vọng duy nhất của tơi, cùng là nguyện vọng của mọi người ạ.


Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói:


- Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua.
Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: "Bác Hồ muôn năm?" và cứ vây lấy Người, không muốn rời
Người nửa bước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

kêu gọi thi đua của Bác đã được đăng lại trên báo Đảng ngay ngày hôm sau "Trong lúc miền
Nam chúng ta đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới thì phụ
nữ ở phía bên kia sơng Bến Hải đang cùng toàn thể đồng bào miền Nam anh dũng, hy sinh
anh dũng chống đế quốc Mỹ cướp nước và bọn Việt gian bán nước. Tôi đề nghị Đại hội hoan
hô đồng bào miền Nam anh hùng và chúc đồng bào miền Nam giành nhiều thắng lợi hơn nữa!
Chính vì chúng ta đang xây dựng trong hồn cảnh hịa bình, cịn đồng bào miền Nam đang
phải ngày đêm chiến đấu nên nhân dân miền Bắc chúng ta cần phải thi đua mỗi người làm
việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt". Thế là thành một cao trào thi đua
"vì miền Nam" trong các cháu. Các cháu vừa học vừa làm tăng giờ lấy tiền mua sách, xây
dựng tủ sách kết nghĩa với các bạn thiếu niên Huế, Sài Gòn, kết nghĩa anh em và góp tiền mua
vũ khí ủng hộ đồng bào miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Nhiều cháu đã trở thành những cơng
nhân, cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp. Nhiều cháu đã lên đường giết giặc, như cháu
Quách Văn Long cùng anh em bắn rơi máy bay Mỹ được Bác tặng huy hiệu.


Cháu Phạm Văn Phương, Nguyễn Văn Ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Văn
Thanh, Nguyễn Văn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã
về làm thợ, làm cán bộ như các cháu Hồng Đình Nội, Cao Đắc Q... các cháu cùng chúng
tơi có chút ít thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, cửa Đảng. Và chính Bác


là người dạy cho tơi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là "ông cụ trồng cây
giỏi nhất nước". Và cũng vì u cây u người, Bác đã từng nói "Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người cho thế hệ mai sau.


Ghi sâu lời Di chúc của Bác "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết", tơi xin hứa trước anh linh Người cịn được ngày nào, tôi ra sức
làm việc "bằng hai" để cho miền Nam chóng được giải phóng và để Bác vui lịng nơi chín
suối.


Những điều này đã được ghi lại từ 1969 - một ngày thu mưa sầu gió thảm lưu luyến tiễn
Bác đi xa...


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<b>VÀNG LÀ Ở HAI BÀN TAY LAO ĐỘNG</b>



Bác Hồ vào Phan Thiết dạy học ở trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Bác sĩ
Nguyễn Kinh Chi ở Bộ Y tế là học trò của thầy Thành kể lại:


- Thầy giáo Thành dạy lớp ba, thầy thường mặc áo vải, chân đi guốc. Trong giờ địa lý,
thầy giáo Thành dạy tiếng Pháp, tơi cịn nhớ mãi buổi học đầu tiên của thầy Thành:


"Montagne" là núi, "rivière" là sông
<i>Núi kia là núi của ai </i>


<i>Sông xanh nước biếc chảy dài đi đâu?</i>


Thầy giáo Thành bảo núi thì có rừng. Trên rừng rất nhiều gỗ quí như lim, trai, sếu, táu,
vàng tâm, v.v.. . Có nhiều cây thuốc q, có nhiều mng thú như hổ, báo, hươu, nai, voi...
Trong núi có nhiều khống sản như vàng, bạc, châu báu, dưới sơng có nhiều cá ngon, nước
sơng có nhiều phù sa, nên nguồn nước ấy lại tưới cho đồng ruộng thì màu mỡ tươi tắn. Tổ tiên
ta kiên cường, giang sơn ta gấm vóc: thầy giáo Thành dạy chúng tôi như vậy?



Ông Chi đọc học xong rồi đi du lịch. Ông thắc mắc tại sao thầy giáo Nguyễn Tất Thành
dạy rừng núi, sơng ngịi, đất đai là của ta. Thế mà bây giờ Tây nó lại lấy. Đời sống của người
lao động thì khổ cực, nghèo đói. Ngày ngày làm nghề thuốc tiếp xúc với người bệnh, bao
nhiêu câu hỏi đã gieo vào đầu óc ông: tại sao người đàn bà làm ăn vất vả, sớm tối ngày đêm
sương gió, thế mà chỉ có một cái yếm bằng vải và chiếc khố tải che thân? Người đàn ơng cũng
chỉ có cái quần đùi? Các em bé tám chín tuổi vẫn trần truồng chưa có áo quần mặc? Ơng Chi
suy nghĩ và càng thấm thía những lời giảng của thầy giáo Thành gieo vào lòng tuổi trẻ nhiều ý
nghĩa. Ông và các bạn ở trường Dục Thanh cũ dần dần ghét Tây. Từ đó ơng bắt đầu đi tìm
cách mạng và ơng cũng như nhiều bạn bè khác trở nên người Cộng sản.


Rời Phan Thiết, Bác Hồ đi vào Sài Gòn học nghề. Ngày ngày, lúc học xong, Bác thường
xuống xem cảng Sài Gòn. Bác đi để biết tình hình. ở cảng này, Bác Hồ làm quen với ông Mai,
được ông giới thiệu xuống làm ở chiếc tàu của hãng "Vận tải hợp nhất" của Pháp. Tàu Đô đốc
Latútsơ Trêvin chuyên chở thực phẩm cho Pháp ở thuộc địa. Ơng Mai người ở An Dương
(Hải Phịng), gặp Bác lần đầu đã thấy mến. Bác Hồ ngỏ ý muốn xin làm ở dưới tàu. Ông Mai
vui vẻ nhận lời giới thiệu giúp Bác. Ông đưa Bác đến gặp thuyền trưởng người Pháp. Người
thuyền trưởng nói:


- Nếu cần làm việc ở đây, tám giờ sáng mai đến?


- Tối hôm ấy về chỗ ở, Bác rủ thêm một người bạn cùng đi Pháp. Người bạn thân
đó nói:


Ta đi Pháp sẽ chết đói thơi, bởi vì chúng ta khơng có tiền để ăn.
Bác đã giơ tay ra và nói:


- Tiền là ở đây, vàng là ở đây. Chúng ta còn trai trẻ. Chúng ta sẽ làm lụng để sống.
Sáng hôm sau, người bạn ấy ngần ngại từ chối, khơng đi. Bác chia tay anh ta. Ơng Mai
đưa Bác xuống tàu gặp người thuyền trưởng. Nhìn Bác một lát, người thuyền trưởng Pháp nói:


- Ở đây khơng có việc gì nhẹ cho anh làm cả. Chỉ có những việc nặng thôi, trông anh
gầy yếu thế kia. Làm sao nổi?!


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

- Vâng, tôi gầy yếu thật, nhưng tôi cịn trai trẻ, tơi có nghị lực, tơi có thể làm được tất cả!
Người thuyền trưởng thấy Bác nhanh nhẹn giỏi tiếng Pháp nên cho làm phụ bếp. Bác
nhận lời làm việc ở đây và lấy tên là Văn Ba.


Qua những ngày làm việc đầu tắt mặt tối ở dưới tàu, Bác nhận thấy ở đây có hai hạng
người: người bị bóc lột và người đi bóc lột. Hai thái cực đó thật là rõ ràng. Công việc mà Bác
phải làm hàng ngày thật là cực nhọc: hết bưng những sọt khoai tây lên mặt bàn để gọt rửa, lại
bê những thùng rượu để phục vụ các bữa ăn, rồi rửa bát, nồi, soong, giặt giũ, lau bàn ghế,
đánh bóng boong tàu. Suốt ngày Bác nhễ nhại mồ hơi và mình đầy than bụi. Công việc vất vả
thật nhưng khi được nghỉ tay là Bác tranh thủ dạy ông Mai chữ quốc ngữ.


Trong phong trào Đông Du do cụ Phan đề xướng, cụ chủ trương "Gương Nhật Bản, đất
A' Đông". Cụ mong nhờ vào bọn Nhật cơ lập giặc Pháp thì thật khác nào "đưa hổ cửa trước,
rước hùm cửa sau". Cụ Phan Chu Trinh lúc này đã bị bắt và theo quan niệm của cụ thì "Học
Pháp càng nhiều; làm bồi càng to".


Vậy tại sao Bác Hồ lại đi Pháp? Vừa rồi chúng ta tìm được cuốn lược dịch "Binh thư
Tơn Tử" của Bác, Bác nói là lược dịch, nhưng khi đọc chúng ta nhận thấy là chiến lược của
Bác. Qua sự giáo dục của gia đình và cuốn lược dịch "Binh thư Tôn Tử", qua trao đổi với một
số cụ đương thời có học với Bác và ngay cụ thân sinh ra Bác vẫn thường dạy học trò là "biết
địch biết ta, trăm trận trăm thắng", chúng ta càng thấy rõ việc Bác đi Pháp là Bác có suy nghĩ
chín chắn. Với lại hồi ấy, những từ Pháp "Tự do, bình đẳng, bác ái rất hay, Bác muốn biết
đằng sau nhừng từ ấy ẩn giấu cái gì...


Bác lĩnh được mười quan, dần dà sau này được năm mươi quan (trong khi đó mỗi nhân
viên người Việt Nam ít nhất cũng phải lĩnh đến một trăm quan). Lên đất pháp, vì tiền ít Bác
thường phải thuê chỗ ngủ đứng. ở nước Pháp lúc này có hai loại tiệm ngủ. Một loại ngủ


giường đệm, màn và lò sưởi. Một loại là lấy vé vào ngủ đứng. ở Pháp ít lâu, Bác đi châu Phi,
rồi Bác lại trở về Pháp. Lúc rời châu Phi, Bác có nói:


- Người ta nói ở châu Phi có nhiều ác thú, nhưng ác thú ở đây mà ác hơn cả, chính lại là
lũ thực dân. Sau này, các đồng chí cộng sản quốc tế sang dự lễ tang Bác có cho biết:
Bác đi châu Phi trên một chiếc tàu buôn. Chiếc tàu buôn này rời cảng Lơ Havơrơ đỗ tại
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi và các cửa biển phía đơng châu Phi cho đến
Cơng gơ. Mỗi khi tàu cập bến, Bác tìm cách lên thăm thành phố, khi chiếc tàu này trở về Pháp
sửa chữa, người thuyền trưởng thấy anh Ba làm được việc, bèn giới thiệu đi làm bồi ở một
chiếc tàu chở sĩ quan Pháp đi Anh nghỉ mát. Đến nước Anh, Bác không đi làm bồi tàu nữa.
Lên thủ đô nước Anh, Bác tìm đến một trường trung học. Bác rất thích cuộc đời học sinh. Bác
ngồi xem các em học và Bác làm quen được với một người gác cổng. Bác xin làm việc quét
tuyết ở trường học này. Làm được một tuần lễ, vì lao động cực nhọc quá trời lại rét buốt nên
Bác bị cảm lạnh và sưng phổi phải thôi việc.


Khi khỏi bệnh Bác xin làm ở tiệm ăn Cáclơtông, một khách sạn lớn nhất nước Anh lúc
bấy giờ. Khách sạn có một người Pháp tên là ÊcƠpphie làm bếp nổi tiếng, được người ta đặt
tên là "Vua bếp". Những tiệc lớn của nữ hồng Anh đều do ơng ta đứng ra đảm nhận.
Một hôm anh Ba đang rửa bát. Vua bếp đi qua hỏi:


Anh Ba, anh đổ các thứ thừa đi, chứ anh để lại làm gì? ở đây thừa đổ đi - anh Ba trả lời
- nhưng ngồi kia những người đói lại đang cần, tơi để lại lát nữa cho người ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

- Xin ơng cho tơi làm cơng việc gì có nhiều tiền để tôi chi trả tiền học tiếng Anh. Tôi
học năm bài đã mất năm đồng, trong khi đó tơi chỉ được trả có sáu đồng, cịn lại khơng đủ ăn
trong một tuần lễ.


Vua bếp cười bảo:


- Tôi là người Pháp mà khơng học được tiếng Anh, cịn anh là người châu A' mà dám


học tiếng Anh cơ à? Tôi ở đây hai năm rồi mà chỉ biết có vài ba tiếng "vâng" và "khơng. Nói
vậy, ơng này vẫn giúp Bác, Bác được bố trí đốt lị.


Thế là từ năm giờ sáng đến tám giờ tối Bác phải nặng nhọc đưới hầm lị. Tuy tiền cơng
có được nhiều hơn, nhưng khơng được học hành, vì đêm về mệt lả làm sao đi học được nữa.
Do đó Bác tìm gặp Vua bếp u cầu cho Bác làm một nghề khác. Vua bếp xếp cho Bác
làm bánh ga tơ, đỡ nặng nhọc hơn và có thêm tiền để học. Thời kỳ này Bác tranh thủ học
nhiều ngoại ngữ: Năm một ngàn chín trăm mười ba, một ngàn chín trăm mười bốn ở Anh, Bác
học tiếng Anh do một giáo sư người ý dạy. Thầy giáo này biết tiếng Đức, cho nên Bác học cả
tiếng Đức và Y' của giáo sư này. Hàng ngày, Bác ra ngồi ở vườn hoa Hayđơ để học. Lúc này,
Bác có quan hệ với các nhà yêu nước ở Â'n Độ như Găngđi. Nhà sử học Thụy Điển, trong một
cuốn sử viết về Bác, cho biết: năm mộ ngàn chín trăm mười lăm Bác ở khu vực người da đen
Háclem (nước Mỹ) và làm nghề chụp ảnh. Năm 1916 sang Đức, trước chiến tranh thế giới lần
thứ nhất. Bác trở lại Pháp và ở nhà cụ Phan Chu Trinh. ở Pháp, Bác tham gia phong trào của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp. Bác tổ chức nhóm Việt kiều. Bác đã gặp Sác
lông ghê (Charles Longuet), chủ bút tờ báo "Dân chúng" là cháu ngoại của Các Mác. Ông này
đã giúp đỡ Bác viết báo. Lúc đầu Bác viết năm dòng rồi sửa hết, rồi lại viết. Bài báo đầu tiên
của Bác là bài báo năm dòng đăng ở tờ "Đời sống thợ thuyền", năm 1917. Sau đó Bác viết cho
nhiều tờ báo ở Pháp như tờ "Nhân đạo và "Dân chúng"... hồi đó Bác ở nhà số 9 ngõ hẻm Công
poăng (compoint). Đạo diễn Phạm Kỳ Nam đi Paris làm phim về Bác cung cấp thêm nhiều tư
liệu: Nhà số 9 Công poăng tầng dưới là quán cà phê, tầng trên, Bác thuê ở, Bác làm nghề rửa
ảnh. Nhà Bác kê vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn con. Trên bàn có cái chậu thau,
trong thau có một xơ nước. Khi viết, Bác phải đút thau và xô xuống gầm giường. Hàng ngày,
Bác nấu một nồi cơm (gọi là nồi nhưng thật ra nó là cái hộp bích qui vng thấp). Khi thổi
cơm, Bác hấp vào đó một con cá khơ, Bác ăn một nửa, cịn một nửa lấy giấy báo gói mang đi,
làm việc xong, Bác mang ra ăn nốt suất cơm còn lại. Bác làm việc rất khẩn trương để có đủ
tiền sống, để có nhiều thời gian vào thư viện đọc sách. Bác còn tranh thủ đi nghe người ta
giảng thuyết để học tập. Khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Bác rất vui mừng, phấn
khởi. Bác vào đảng xã hội Pháp. Tháng ba năm một ngàn chín trăm mười chín, Quốc tế thứ ba
(tức quốc tế Cộng Sản) thành lập, Lênin có đọc bản luận cương về cách mạng thuộc địa. Khi


tiếp thu bản luận cương ấy, Bác đã nói:


- Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết
bao. Tơi vui mừng phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng, mà tơi nói to, như đang nói
trước quần chúng đơng đảo. Hỡi đồng bào bị đọa đày đây là cái cần thiết cho chúng ta?
Bác tiếp thu điều này rất sâu sắc. Báo Gramma Cuba đã viết: "Nhân loại tiến bộ trên thế
giới đời đời mắc nợ nhân dân Việt Nam".


Dư luận nhiều nước trên thế giới nêu rõ: Các Mác đề ra chủ nghĩa xã hội khoa học,
Lênin là người tổ chức thực hiện. Lênin là người đề ra cách mạng ở các nước thuộc địa, Hồ
Chí Minh là người tổ chức thực hiện và rút những kinh nghiệm q báu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i>Khơng có việc vì khó,</i>
<i>Chỉ sợ lịng khơng bền.</i>
<i>Đào núi và lấp biển,</i>
<i>Quyết chí ắt làm nên.</i>


Bác chỉ có hai bàn tay trắng mà Bác xây dựng cả sơn hà. Vàng là ở đôi bàn tay lao động,
như thế đấy?


<b>MÙA XUÂN NHỚ BÁC</b>



Sau 20 năm, Xuân Khải, tác giả bài thơ <i><b>Mùa Xuân nhớ Bác</b></i> có dịp được giãi bày tâm
tư tình cảm, trao đổi với bạn đọc yêu quý những điều mà lâu nay được nhiều bạn đọc hết sức
quan tâm...


Từ bài thơ ngày ấy. . .


Loạt bài phóng sự nhiều kỳ Từ bài thơ gây chấn động dư luận và “đêm trước đổi mới”
và những ý kiến phản hồi của độc giả trên báo Tiền Phong cho thấy khơng khí dân chủ, tự do


ngơn luận ở nước ta đang được cải thiện rõ rệt.


Ý chí vươn lên, tinh thần trách nhiệm cơng dân đối với vận mệnh quốc gia của nhân dân
cả nước là động lực mạnh mẽ, tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới ở nước ta, dưới sự lãnh đạo
của Đảng CSVN


Thật xúc động và hạnh phúc, vì đối với tiến trình phát triển của nhân loại thì thời gian
<b>20 năm chỉ là “cái chớp mắt của lịch sử” nhưng là quãng thời gian quá dài đối với đời người</b>
phải trải qua nhiều gian nan vất vả, thế mà bạn đọc xa gần vẫn còn nhớ đến bài thơ Mùa Xuân
<i>nhớ Bác, nhớ đến tác giả Phạm Thị Xuân Khải. </i>


Nhờ vậy, sau 20 năm, Xuân Khải mới có dịp được giãi bày tâm tư tình cảm, trao đổi với
bạn đọc yêu quý những điều mà lâu nay được nhiều bạn đọc hết sức quan tâm nhưng vẫn
chưa nhận được sự hồi âm của tác giả và Tòa soạn báo Tiền Phong.


Suốt 20 năm qua, Xuân Khải luôn mang nặng nỗi băn khoăn và áy náy trong lòng, vì
vẫn chưa biết cơ hội nào để Xuân Khải và “những người trong cuộc” có thể giãi bày tâm sự
với bạn đọc, sau sự kiện bài thơ MXNB đăng trên báo Tiền Phong ngày 25/3/1986.


Mỗi năm trôi qua, Xuân Khải càng thêm áy náy hơn, vì biết rằng trong số hàng trăm, hàng
nghìn bức thư và hàng triệu tấm lịng đầy nhiệt huyết với q hương, đất nước có khơng ít
những cụ già, những thương bệnh binh, những người gặp điều oan trái không thể sống để tiếp
tục chờ đợi…


Biết làm thế nào được, khi mà tất cả đều phải kiên trì chờ đợi, nơn nóng cũng chẳng
giải quyết được vấn đề gì. Xuân Khải hy vọng rằng, loạt bài đăng trên báo <i>Tiền Phong vừa</i>
rồi, phần nào đã đem đến bạn đọc những thông tin về sự kiện chung quanh bài thơ gây chấn
động dư luận từ 20 năm trước, về những gì đã xảy ra đối với tác giả bài thơ MXNB.


Khi chưa có điều kiện công khai thông tin rộng rãi những điều bạn đọc muốn được biết, Xuân


Khải và những người trong cuộc hồi ấy vẫn lưu giữ tư liệu, lặng lẽ hồi tưởng, ghi chép lại, với
ý nghĩ rằng: Cần phải viết cái gì đó để lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

ghi chép lại để giữ làm tư liệu về những sự kiện sôi động, sau khi bài thơ MXNB ra đời, chuẩn
bị dần cho tác phẩm sau này..


Hiện nay Xuân Khải đã viết thành cuốn sách, dưới dạng bản thảo để đấy. Bởi vì, thời
gian và cuộc sống trơi qua khơng đợi ai cả, sức khỏe và trí nhớ của con người cũng có giới
hạn theo tuổi tác nên mỗi buổi sáng sớm từng ngày, dù bận đến thế nào đi nữa, Xuân Khải vẫn
dành thời gian từ 4 giờ đến 7 giờ sáng để viết một cái gì đó.


Viết để lưu giữ tư liệu, sau này có điều kiện sẽ hình thành những tác phẩm. Viết cũng
để tự mình làm vợi đi những nỗi niềm suy tư, vơi đi những nỗi buồn không thể chia sẻ
cùng ai, dù là người thân gần gũi nhất trong gia đình.


Bạn bè thân thiết cũng ít ai nghe Xuân Khải tâm sự điều gì liên quan đến chuyện riêng tư
trong 20 năm qua. Mãi đến năm 2005 thì Xuân Khải mới bắt đầu hé mở vài câu chuyện liên
quan bài thơ MXNB năm 1986 với các con.


Với các con, Xuân Khải càng phải giữ kín câu chuyện đời quá buồn của riêng mình, vì
khơng muốn để cho các con biết sớm, trong khi cần tập trung vào việc học hành, không nên để
các cháu bận tâm quá sớm về chuyện buồn của mẹ, sẽ ảnh hưởng không tốt cả một qng đời
tương lai cịn dài của con cái.


Thật ra, có nhiều lúc buồn lắm chứ. Lẽ ra, nếu khơng vì sự kiện bài thơ MXNB, với
bằng tốt nghiệp Đại học vào loại khá, với chứng chỉ Triết học sau Đại học vào loại giỏi, Xuân
Khải có thể tiếp tục trở về cơ quan Nhà nước, tiếp tục cống hiến khả năng, sức lực của mình
cho đất nước. Có thêm kiến thức mà ngày trở về chịu trắng tay là điều không dễ chịu chấp
nhận đối với một người đã từng trải qua thực tế.



Sau khi học xong, Xuân Khải mới ở lứa tuổi 40 – Là thời kỳ con người đã đạt “độ chín”
về nhiều mặt, nếu có kiến thức thì đó là thời kỳ làm được nhiều việc nhất.


Nhiều lúc Xn Khải đã khóc một mình nhưng rồi lại tự an ủi, động viên mình khơng
biết bao nhiêu lần trong suốt 20 năm qua. Để buồn lâu sẽ dễ mất phương hướng trong cuộc
sống. Và Xuân Khải lại một mình tự tìm lối thốt cho nỗi buồn về sự thiệt thòi, phải trả giá
quá đắt, bằng chính sự nghiệp của mình.


Có những lúc cuộc sống vất vả, căng thẳng tưởng chừng khơng cịn đủ sức chịu đựng,
khơng thể tiếp tục vượt qua khó khăn được nữa. Cũng may là thần kinh của Xuân Khải vững
vàng, thừa hưởng được trí nhớ và sự bình tĩnh của người cha mỗi khi gặp khó khăn và sự cần
cù chịu khó của mẹ, cộng với nếp sống khá điều độ, phân chia thời gian làm việc và nghỉ ngơi
hợp lý mỗi ngày từ khi còn nhỏ, lúc Xuân Khải học ở Trường học sinh miền Nam, đã giúp
Xuân Khải vượt qua, cố gắng đứng vững trong cuộc sống.


Giá như những lúc khó khăn như vậy, nỗi buồn được giãi bày với người thân, bạn bè thì
nỗi buồn ấy được chia sẻ, cũng vợi đi nỗi lòng. Nhưng suốt <b>20</b> năm qua, Xuân Khải không thể
chia sẻ cùng ai câu chuyện dài, có liên quan đến sự kiện bài thơ MXNB năm <b>1986</b>. Nhưng Xuân
Khải sống tự lập, tự tin, nên cũng đỡ phần nào.Những người trong cuộc


<i><b>Mùa xuân về nhớ Bác khôn nguôi</b></i>


<i><b>Tiếng pháo giao thừa nhớ ngày xuân Bác còn chúc Tết</b></i>
<i><b>Vần thơ thân thiết</b></i>


<i><b>Ấm áp lòng người</b></i>
<i><b>Bác đã đi xa rồi</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<i><b>Các anh ơi, Mùa xuân về đọc thơ xuân các anh trên báo Đảng</b></i>
<i><b>Lịng càng nhớ Bác nhiều hơn</b></i>



<i><b>Làm sao có thể quên</b></i>
<i><b>Mỗi lần gặp Bác</b></i>


<i><b>Bác bắt nhịp bài ca đoàn kết</b></i>
<i><b>Người thường nhắc nhở: </b></i>
<i><b>u nước, thương dân</b></i>


<i><b>Dẫu thân mình có phải hy sinh</b></i>


<i><b>Cũng chỉ vì trường xuân cho đất Việt.</b></i>
<i><b>Mùa xuân về đọc thơ xuân các anh</b></i>


<i><b>Tuổi trẻ chúng tôi thấy lịng mình day dứt</b></i>
<i><b>Day dứt vì mình chưa làm được</b></i>


<i><b>Những điều hằng ước mơ</b></i>
<i><b>Những điều chúng tôi thề</b></i>


<i><b>Dưới cờ Đồn trong giờ kết nạp, </b></i>
<i><b>Tuổi trẻ chúng tơi tha thiết</b></i>


<i><b>Được Đảng chăm lo</b></i>


<i><b>Được cống hiến cho quê hương nhiều nhất</b></i>
<i><b>Nhưng tuổi trẻ chúng tơi</b></i>


<i><b>Khơng ít người đang lỡ thì, mai một.</b></i>
<i><b>Theo năm tháng cuộc đời</b></i>



<i><b>Ngoảnh lại nhìn, mình chưa làm được bao nhiêu</b></i>
<i><b>Bởi một lẽ chịu hẹp hịi, ích kỷ</b></i>


<i><b>Thanh niên chúng tôi thường nghĩ:</b></i>
<i><b>Bỏ công gieo cấy, ai quên gặt mùa màng</b></i>
<i><b>Mỗi vụ gieo trồng</b></i>


<i><b>Có phải đâu là lép cả?</b></i>


<i><b>Tuổi trẻ chúng tôi vẫn tự hào</b></i>
<i><b>Những trang sử vẻ vang dân tộc</b></i>
<i><b>Chúng tôi được học</b></i>


<i><b>Được thử thách nhiều trong chiến tranh</b></i>
<i><b>Chúng tôi nghĩ: Nguyễn Huệ - Quang Trung</b></i>


<i><b>Lứa tuổi hai mươi lập nên nhiều chiến công hiển hách.</b></i>
<i><b>Lẽ nào tuổi trẻ hơm nay thua thiệt</b></i>


<i><b>Có học hành, lại phải sống cầu an</b></i>
<i><b>Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”</b></i>
<i><b>Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?</b></i>
<i><b>Đồng chí khơng bằng đồng tiền</b></i>


<i><b>Bằng lịng vẫn hơn bằng cấp</b></i>
<i><b>Có ai thấu chăng </b></i>


<i><b>Và ai phải sửa?</b></i>


<i><b>Mỗi xuân về con càng thêm nhớ Bác</b></i>


<i><b>Lòng vẫn thầm mơ ước</b></i>


<i><b>Bác Hồ được sống đến hôm nay</b></i>
<i><b>Làm nắng mặt trời xua tan hết mây</b></i>
<i><b>Trừ những thói đời làm dân ốn trách</b></i>
<i><b>Có mắt giả mù, có tai giả điếc</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i><b>Sợ trẻ hơn già</b></i>


<i><b>Quên mất lời người xưa:</b></i>
<i><b>“Con hơn cha là nhà có phúc”</b></i>
<i><b>Thời buổi này,</b></i>


<i><b>Không thiếu người xông pha thuở trước</b></i>
<i><b>Nay say sưa trong cảnh giàu sang</b></i>


<i><b>Thối hóa, bê tha khi dân nước gian nan?</b></i>
<i><b>Mùa xuân đất nước</b></i>


<i><b>Nhớ mãi Bác Hồ</b></i>


<i><b>Ta vẫn hằng mong lý tưởng của Người</b></i>
<i><b>Cho đất nước khải hoàn, mùa xuân mãi mãi.</b></i>


Qua một loạt bài viết về Bài thơ gây chấn động dư luận và “đêm trước đổi mới” trên
báo Tiền Phong, các anh gợi ý Xuân Khải nên viết bài để giãi bày cùng độc giả về sự kiện bài
thơ Mùa Xuân nhớ Bác. Xuân Khải nhận thấy thời điểm này là thuận lợi để nói về những điều
liên quan đến bài thơ.


Quả thật thời ấy, từ ý kiến cho phép đăng báo bài thơ Mùa Xuân nhớ Bác của đồng chí


Lê Đức Thọ đến việc đồng chí Lưu Văn Lợi (thư ký đồng chí Lê đức Thọ - người đầu tiên đọc
bài thơ Mùa Xuân nhớ Bác đã bày tỏ suy nghĩ của mình về bài thơ với đồng chí Lê Đức Thọ),
Vũ Mão, Đinh Văn Nam, Lê Văn Ba.


Và các đồng chí trong Ban biên tập đã dám quyết định đưa bài thơ lên trang báo Tiền
<i>Phong lúc bấy giờ là một hành động can đảm, khơng hề đơn giản như dư luận cho rằng: Đồng</i>
chí Lê Đức Thọ đã “bật đèn xanh” là được, chẳng việc gì phải lo ngại gì nữa (!?)


Thời điểm ấy không phải ai cũng dám làm, cấp lãnh đạo khơng phải ai cũng sẵn sàng đồng
tình ủng hộ cho việc "nói thẳng, nói thật” như bây giờ. Với tinh thần trách nhiệm của mình
trước tình hình chung của đất nước có thể nói, lúc thực hiện một cách thận trọng nhất các
bước chuẩn bị cho việc đăng bài thơ Mùa Xuân nhớ Bác trên báo Tiền Phong, luôn tuân thủ
các ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Thọ cũng là lúc các anh và báo Tiền Phong phải ln
chuẩn bị những tình huống khó khăn, sẵn sàng đối phó với mọi điều có thể đến bất kỳ lúc nào.
Phải nói, đó là thời kỳ “những người trong cuộc” đã sống những tháng ngày hết sức căng
thẳng về tinh thần, lắng nghe dư luận quần chúng, theo dõi những vụ việc diễn ra trong “thời
điểm nóng”, hết sức nhạy cảm này.


Tơi vẫn cịn nhớ mãi nét mặt luôn luôn căng thẳng của Tổng Biên tập báo Tiền Phong
Đinh Văn Nam. Anh Đinh Văn Nam đã già đi trơng thấy, tóc bạc rất nhanh trong những ngày
tháng căng thẳng ấy.


Sau này, trong cuộc gặp gỡ với báo Tiền Phong tháng 3/2006 vừa qua, anh Dương
Xuân Nam, Tổng Biên tập hiện nay của báo Tiền Phong đã kể chuyện lại về anh Đinh Văn
Nam giữa thời điểm hết sức khó khăn phức tạp ấy, cũng trùng khớp với điều Xuân Khải đã
biết và luôn nhớ về anh Đinh Văn Nam – Cố Tổng biên tập đầy tâm huyết với nghề báo và
dũng cảm đương đầu với mọi khó khăn phức tạp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Giữa những ngày sôi động trước thềm Đại hội X, bài thơ MXNB gây chấn động dư
luận thuở nào được đăng trở lại, báo Tiền Phong và tác giả bài thơ lại được đón nhận tình cảm


chân thành của độc giả và có thêm nhiều ý kiến phản hồi, để vừa đồng tình với việc đăng tải
bài thơ của báo Tiền Phong, vừa muốn đóng góp thêm nhiều ý kiến với Đảng sắp khai mạc
Đại hội lần thứ X sắp đến.


Họ mang theo vào bài viết những kỳ vọng với Đại hội X, mong muốn đất nước tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ hơn nữa. Giữa những ngày này, “những người trong cuộc” ngày ấy còn hiện
diện ( Lưu Văn Lợi, Vũ Mão, Lê Văn Ba và Xuân Khải) vẫn nhắc đến bác Sáu Thọ, nhớ đến
cố Tổng biên tập báo Tiền Phong Đinh Văn Nam và thấy mình càng gắn bó hơn với báo <i>Tiền</i>
<i>Phong.</i>


Khi tiến hành nhiệm vụ này, chính là lúc các anh Vũ Mão, Đinh Văn Nam, Lê Văn Ba
đã đặt uy tín và sự nghiệp cơng danh của mình trên “bàn chính trị” của đất nước. Nhất là sau
đó một thời gian, có một số ý kiến khơng đồng nhất như ban đầu thì vấn đề càng trở nên phức
tạp hơn và căng thẳng hơn đối với việc Ban biên tập báo Tiền Phong đưa bài thơ Mùa Xuân
<i>nhớ Bác trên trang báo. </i>


Từ trạng thái phấn khởi,vì nghĩ mình đã làm được một việc hết sức khó khăn phức tạp
cho dân cho nước, được đại đa số quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ nhưng đến khi có
những ý kiến thay đổi, có phần khác đi so với ý kiến chỉ đạo ban đầu, do có q nhiều sức ép
từ nhiều phía, càng gần đến ngày chuẩn bị khai mạc Đại hội VI, sức ép càng lớn. . .


Để dung hòa bớt những căng thẳng ấy, các anh đã phải đi xin lỗi cho tình hình phản ứng của
một số Bí thư Tỉnh ủy dịu xuống. Sau đó là những ngày hết sức căng thẳng với mấy anh em
chúng tôi.


Tuy vậy, chúng tơi vẫn kiên định, động viên nhau bình tĩnh để vượt qua được những
tháng ngày vơ cùng khó khăn ấy. Chính vì lý do này mà Xn Khải phải đành sống trong cảnh
“ tranh tối, tranh sáng” như bạn đọc đã nói.


Xuân Khải rất cám ơn các đồng chí Lê Đức Thọ, Lưu Văn Lợi, Vũ Mão, Đinh Văn Nam, Lê


Văn Ba và Ban biên tập báo Tiền Phong, về việc đã can đảm quyết định cho đăng bài thơ Mùa
Xuân nhớ Bác giữa “thời điểm nóng”, đúng vào dịp kỷ niệm ngày sinh nhật Đoàn 26/3/1986.


Tơi xin cám ơn độc giả đã đồng tình, ủng hộ bài thơ Mùa Xuân nhớ Bác, đã động viên
tinh thần để Xuân Khải vững vàng hơn trong những lúc khó khăn.


Đến nay, nhiều độc giả vẫn cịn hỏi: Vì sao Phạm Thị Xuân Khải đã viết bài thơ Mùa
<i>Xuân nhớ Bác? Vì sao sau khi bài thơ Mùa Xuân nhớ Bác được độc giả chào đón, mến mộ,</i>
muốn biết rõ hơn về tác giả, muốn gặp gỡ Xuân Khải nhưng hầu như rất ít người biết thêm
những thơng tin về người đã viết bài thơ “động trời dư luận”...


Thậm chí, vợ chồng anh Minh Thảo cơng tác ở Thông tấn xã Việt Nam cho biết đã ngậm ngùi,
thương bạn, khi nghe có người nói: Xuân Khải đã qua đời lâu rồi. Mãi đến tháng <b>3/2006 , khi</b>
đọc loạt bài trên báo Tiền Phong, anh Minh Thảo đã cố tìm cách liên hệ để gặp được Xuân
Khải tại Hà Nội thì họ mới biết là Xuân Khải vẫn cịn sống, đang có mặt tại Hà Nội và vẫn
tiếp tục viết.


Lẽ ra, khi nhận được hàng trăm bức thư bạn đọc, Xuân Khải rất muốn được hồi âm
ngay, không nên im lặng quá lâu như vậy nhưng hoàn cảnh lúc ấy chưa cho phép.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

nên Xuân Khải khơng muốn bạn đọc phải bị liên lụy vì đã đồng tình ủng
hộ bài thơ Mùa Xuân nhớ Bác.


Vừa qua, thời gian ở Hà Nội, Xuân Khải gặp được một số bạn đọc
từ những vùng quê xa xôi, liên hệ tìm gặp tác giả bài thơ <i>Mùa Xuân nhớ</i>
<i>Bác, được nghe câu chuyện quá khứ đau buồn của gia đình họ, có liên</i>
quan đến việc vì đồng tình ủng hộ bài thơ Mùa Xuân nhớ Bác của Xuân
Khải, khiến cho Xuân Khải suy nghĩ , mất ngủ mấy đêm liền, vì thương
cho tình cảnh của gia đình ấy, thương cho các cháu bé đã sớm có những
ấn tượng ngay từ thời niên thiếu về những điều không vui.



Đối với Xuân Khải, sau sự kiện bài thơ là thời kỳ đầy khó khăn và thách thức, khơng thể chia
sẻ cùng ai, kể cả người thân trong gia đình mà trong một loạt bài viết của các phóng viên
Phùng Nguyên, Phương Hiếu, đăng trên báo Tiền Phong gần đây, cũng mới chỉ nêu được một
phần khó khăn vất vả mà Xuân Khải đã phải trải qua suốt 20 năm qua...


<i>(Trích bài viết của tác giả bài thơ “Mùa Xuân nhớ Bác” vừa gửi cho báo Tiền Phong)</i>


<b>LẤY CÁI LỢI CỦA DÂN LÀM MỤC TIÊU HOẠT ĐỘNG </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i><b>yêu thương đồng chí, đồng bào sâu sắc mà các thế hệ hôm nay và mai sau cần phải luôn</b></i>
<i><b>phấn đấu noi gương học tập.</b></i>


Lợi ích của nhân dân là một phạm trù rộng lớn mà mỗi cán bộ khi đã xác định là “công
bộc của dân” cần phải hiểu thật rõ, thật đầy đủ. Đối với các cơ quan công quyền, khi xây dựng
kế hoạch, hoặc tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ ban hành một chính sách nào đó
liên quan đến đời sống của nhân dân cần phải xem xét, cân nhắc việc làm đó, văn bản đó khi
ban hành ra có lợi cho nhân dân hay khơng. Trên thực tế, đã có khơng ít văn bản của các cơ
quan chức năng, nhất là ở các địa phương sau khi áp dụng vào thực tế đã gây những phiền hà
cho dân. Chính những phiền hà đó lại tạo kẽ hở để một số cán bộ thối hóa, biến chất nhũng
nhiễu nhân dân. Nguy hiểm hơn, một số cán bộ còn lợi dụng vào những khe hở của văn bản
pháp quy để “lách luật”, tư lợi cá nhân gây thiệt hại cho dân, cho nước. Đây là một nguyên
nhân khiến thời gian vừa qua đã xảy ra một số vụ tham nhũng gây bức xúc trong dư luận mà
cơ quan chức năng đã khám phá.


Để hạn chế những cái xấu nảy sinh trong xã hội, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên cần
phải thấu rõ quan điểm “có lợi cho dân” trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và phải lấy đó làm
mục tiêu hoạt động của mình. Rõ ràng, khi người cán bộ làm việc với suy nghĩ “có lợi cho
dân” thì tất yếu các vướng mắc nảy sinh trong công việc sẽ được giải quyết một cách nhẹ
nhàng, nhưng triệt để. Thế nhưng thật tiếc, hiện nay còn nhiều cán bộ ăn lương Nhà nước, làm


việc cho dân, nhưng lại luôn mang trong đầu suy nghĩ là mình làm việc này thì “được cái gì”.
Với suy nghĩ đó nên anh ta làm việc một cách qua loa, đại khái, được chăng, hay chớ; hoặc là
thiên vị, thiếu công bằng.


Học tập, thấm nhuần tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng phải là chỉ đọc
cho thuộc lòng những lời dạy của Người mà cần phải suy nghĩ xem từ những lời dạy ấy, hằng
ngày mình đã làm được những gì có lợi cho dân, có lợi cho nước. Đạo đức của Người khơng
phải là cái gì cao siêu khiến chúng ta khơng thể học được mà chính là những việc làm giản
đơn ta vẫn làm hằng ngày, nhưng mà làm bằng cái tâm trong sáng.


<b>GƯƠNG MẪU TÔN TRỌNG LUẬT GIAO THÔNG</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i>nạn và chống ùn tắc trong giao thông, cả nước đang sôi động các biện pháp tổ chức thực hiện</i>
<i>Nghị quyết <b>32</b> của Chính phủ. Suốt mấy tháng qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng</i>
<i>và trên các tuyến đường, ngõ phố, công tác thông tin, tuyên truyền đang được đẩy mạnh. Là</i>
<i>người dân Hà Nội, khi tham gia giao thông, tôi đặc biệt chú ý và suy nghĩ mãi về câu khẩu</i>
<i>hiệu: “Nhường đường là nét đẹp văn hóa của người Hà Nội”. Khẩu hiệu ấy đang treo nhiều</i>
<i>trên các tuyến phố Thủ đơ.</i>


Chẳng riêng gì “người Hà Nội”, dân tộc ta có nền văn hóa lâu đời, chuyện “nhường
<i>cơm, sẻ áo” vốn đã trở thành truyền thống. Xin nhớ, từ thuở xa xưa, chuyện cơm áo đâu phải</i>
là chuyện nhỏ mà ông cha ta đã biết nhường nhịn, chia sẻ cho nhau. Thế mà bây giờ, nếp sinh
hoạt công cộng, chuyện nhường nhịn nhau sao thấy cứ ít đi, điển hình là khi tham gia giao
thông. Cái cảnh chen nhau, cố để lách được nửa vòng bánh xe, để được vượt trước một nhịp
đèn đỏ khá phổ biến. Nhiều lúc, tôi tự đặt câu hỏi: Trên đường phố, có bao nhiêu phần trăm là
cán bộ, cơng chức, thậm chí cịn là đảng viên đang tham gia giao thơng nhỉ?


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dạy mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự là tấm
gương sáng để quần chúng và nhân dân noi theo, phải biết ln qn mình phấn đấu hy sinh
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Là


nguyên thủ quốc gia, nhiều lúc đi công tác, để bảo đảm thời gian cho cơng việc, những người
giúp việc cho Bác có khi phải bố trí kế hoạch sao cho tiện. Một lần, khi đi kiểm tra nông dân
chống hạn, trên đường đi, thấy có xe cơng an bấm cịi dẹp đường, Bác cho dừng xe, phê bình
và u cầu khơng phải “ưu tiên” thế. Lần khác, xe của Bác đến ngã tư thì gặp đèn đỏ, đồng chí
cảnh vệ định u cầu công an giao thông bật đèn xanh cho xe Bác, hiểu ý, Bác ngăn lại và nói
“Phải gương mẫu tơn trọng luật lệ giao thông”. Bác thực sự là một tấm gương sáng về lời nói
và hành động cách mạng.


Lấy những hành động của Bác để “soi” vào mình, soi vào nếp sống giao thông bây giờ,
mới thấy chúng ta có nhiều điều cần nghiêm khắc sửa chữa. Trước hết, Luật Giao thông
đường bộ quy định rất rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi người dân, mỗi loại phương tiện khi
tham gia giao thông. Những quy định ấy là bắt buộc, là điều kiện người tham gia giao thông
phải chấp hành. Cán bộ, đảng viên là những người có trình độ văn hóa, hiểu biết và phải có ý
thức gương mẫu chấp hành luật lệ giao thông. Thực ra, đây khơng phải là điều gì q xa lạ.
Hành động dừng xe trước vạch sơn kẻ đường là chuyện bình thường. Mỗi khi gặp sự cố ngồi
ý muốn (đường đơng, nước ngập…) thì chuyện nhường đường cũng là bình thường. Một đồng
chí cảnh sát giao thơng làm nhiệm vụ lâu ngày tại ngã tư Long Biên, Hàng Đậu đã nhận xét:
Nếu mỗi người tham gia giao thông biết nhường nhau một chút thì tình trạng vi phạm Luật
Giao thơng sẽ bớt đi rất nhiều. Thiết nghĩ, mỗi cán bộ, đảng viên, chấp hành tốt Nghị quyết 32
của Chính phủ, bắt đầu từ sự gương mẫu tôn trọng luật và biết gương mẫu nhường nhịn…


<b>HỌC ĐỂ LO CHO ĐẤT NƯỚC LÂU DÀI"</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

“Không ngờ ước mơ ấy trở thành sự thật. Tôi hạnh phúc được bên cạnh Bác suốt 13 tiếng
đồng hồ”. Hơn 50 năm sau, “vệ út” Nguyễn Ngọc Sơn (hiện đang sống tại phường Thắng Lợi,
thị xã Sông Công, Thái Nguyên) bồi hồi nhớ lại. Và trong ký ức của cậu bé Sơn ngày nào vẫn
là lời Bác Hồ căn dặn khi chia tay: “Còn nhỏ thì phải học, học thật nhiều để lo cho đất nước
lâu dài hơn”.


Chúng tôi được gặp Bác tại ngôi nhà sàn của Bác ở An tồn khu Định Hóa (Thái


Ngun). Ngôi nhà giản dị: một bên là sàn nứa để ngủ dài khoảng 3m, một bên là chiếc bàn
làm việc bằng luồng... 17g, Bác xuất hiện, chiếc khăn kiểu đồng bào dân tộc miền núi an toàn
khu vắt hai nửa vai.


Bác kéo chúng tơi ngồi xuống, nhẹ nhàng hỏi hồn cảnh từng người. “Bố cháu bị Nhật
bắn, mẹ đi tản cư nhưng không biết chỗ nào để liên lạc. Cháu chỉ cịn một mình thơi...”. Tơi
nói đến đó, mắt Bác rưng rưng: “Phải nhớ điều ấy để học tập chiến đấu để sau này khơng cịn
em nhỏ nào có hồn cảnh như các cháu nữa”. Rồi Bác hỏi chuyện học hành của chúng tơi,
thống buồn khi nghe tơi kể: “Cháu đang học lớp 2 thì kháng chiến bùng nổ nên theo các anh
bộ đội. Các anh dạy cháu đến lớp 4 nhưng chỉ có mơn tốn... Khơng biết bao giờ cháu được
học tiếp...”.


Bữa cơm tối được dọn ra. Chúng tôi được ăn cùng Bác và chú Tô (Thủ tướng Phạm
Văn Đồng). Bữa cơm ngon nhất trong những năm kháng chiến với một đĩa nhỏ thịt gà, đĩa cá
kho, bát canh rau cải và mấy quả chuối tráng miệng. Chúng tôi ăn dè dặt. Bác ơn tồn nói: phải
ăn no để có sức kháng chiến rồi sẻ nhiều cá và thịt gà cho chúng tôi.


Kháng chiến thắng lợi, rồi đất nước thống nhất, tôi chuyển sang làm nhiều công tác
khác nhau như sư phạm, lãnh đạo doanh nghiệp, đào tạo rồi thủ lĩnh Đồn... Làm ở đâu, lĩnh
vực nào tơi ln ghi nhớ lời dạy của Bác... Tôi cũng đã đi nhiều nước Đức, Ba Lan, Czech và
nhiều nước phương Tây khác để cơng tác, bao giờ tơi cùng tìm mua những tài liệu chuyên
ngành của nước bạn về nghiên cứu sâu hơn phục vụ công tác đào tạo lớp đi sau


Đêm hôm ấy, thêm một bất ngờ với chúng tôi: Bác ngủ chung lán chúng tơi. Trước khi
ngủ, tơi cịn nghe tiếng Bác hỏi chú bảo vệ: “Các cháu có đủ chăn màn chưa, liệu có lạnh
khơng?”.


Sáng hơm sau Bác dậy rất sớm, tập thể dục xong và chuẩn bị đi đâu đó. Chúng tơi cũng
gói ghém balơ để lên đường về đơn vị. Lúc ấy là 6g sáng, tôi nhẩm tính mình đã có được hạnh
phúc lớn lao: 13 tiếng được ăn cùng, ngủ cùng, sinh hoạt cùng Bác.



Chia tay, Bác cho quà là một nắm cơm nếp ăn đi đường và một tấm ảnh nhỏ chụp Bác đang
bón cơm cho một em bé ở an toàn khu. Sau đó, Bác gặp riêng chú Việt. Mãi sau này chúng tơi
mới biết là Bác nói chú Việt đưa chúng tơi đi học tiếp. Trên đường về, chú Việt bảo chúng tôi
không về đơn vị ngay mà phải đi học, Mặt trận Liên Việt sẽ báo cho đơn vị và Tổng cục
Chính trị biết.


Chúng tơi nằn nì xin chú Việt: “Sắp có chiến dịch, chúng cháu về đơn vị cho kịp”. Chú
Việt nghiêm sắc mặt nói: “Các cháu muốn chiến đấu là tốt, nhưng phải học để tốt hơn. Kháng
chiến thành cơng thì cịn phải lo xây dựng đất nước nữa chứ”. Thấy chúng tơi cịn phân vân,
chú Việt nói tiếp: “Đây vừa là lời dạy, vừa là mệnh lệnh của Bác Hồ đối với các cháu đấy?”.
Sau đó chúng tơi được đi học tại Trường phổ thông Lao động T.Ư và học xong lại trở về quân
đội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

“Năm 1951, trịn 14 tuổi, tơi là một trong hai thiếu sinh quân của đoàn đại


biểu Mặt trận Liên Việt được thăm Trung Quốc, Triều Tiên. Về nước,
chú Hoàng Quốc Việt (phụ trách dân vận và thanh thiếu niên) hỏi có
nguyện vọng gì, tơi trả lời: “Giá được gặp Bác một lần...”.


“Không ngờ ước mơ ấy trở thành sự thật. Tôi hạnh phúc được bên cạnh
Bác suốt 13 tiếng đồng hồ”. Hơn 50 năm sau, “vệ út” Nguyễn Ngọc Sơn
(hiện đang sống tại phường Thắng Lợi, thị xã Sông Công, Thái Nguyên)
bồi hồi nhớ lại. Và trong ký ức của cậu bé Sơn ngày nào vẫn là lời Bác
Hồ căn dặn khi chia tay: “Cịn nhỏ thì phải học, học thật nhiều để lo cho
đất nước lâu dài hơn”.


Chúng tôi được gặp Bác tại ngôi nhà sàn của Bác ở An tồn khu Định Hóa (Thái
Ngun). Ngơi nhà giản dị: một bên là sàn nứa để ngủ dài khoảng 3m, một bên là chiếc bàn
làm việc bằng luồng... 17g, Bác xuất hiện, chiếc khăn kiểu đồng bào dân tộc miền núi an tồn


khu vắt hai nửa vai.


Bác kéo chúng tơi ngồi xuống, nhẹ nhàng hỏi hoàn cảnh từng người. “Bố cháu bị Nhật
bắn, mẹ đi tản cư nhưng không biết chỗ nào để liên lạc. Cháu chỉ cịn một mình thơi...”. Tơi
nói đến đó, mắt Bác rưng rưng: “Phải nhớ điều ấy để học tập chiến đấu để sau này không cịn
em nhỏ nào có hồn cảnh như các cháu nữa”. Rồi Bác hỏi chuyện học hành của chúng tơi,
thống buồn khi nghe tơi kể: “Cháu đang học lớp 2 thì kháng chiến bùng nổ nên theo các anh
bộ đội. Các anh dạy cháu đến lớp 4 nhưng chỉ có mơn tốn... Khơng biết bao giờ cháu được
học tiếp...”.


Bữa cơm tối được dọn ra. Chúng tôi được ăn cùng Bác và chú Tô (Thủ tướng Phạm
Văn Đồng). Bữa cơm ngon nhất trong những năm kháng chiến với một đĩa nhỏ thịt gà, đĩa cá
kho, bát canh rau cải và mấy quả chuối tráng miệng. Chúng tôi ăn dè dặt. Bác ôn tồn nói: phải
ăn no để có sức kháng chiến rồi sẻ nhiều cá và thịt gà cho chúng tôi.


“Năm 1951, trịn 14 tuổi, tơi là một trong hai thiếu sinh quân của đoàn đại biểu Mặt trận
Liên Việt được thăm Trung Quốc, Triều Tiên. Về nước, chú Hoàng Quốc Việt (phụ trách dân
vận và thanh thiếu niên) hỏi có nguyện vọng gì, tơi trả lời: “Giá được gặp Bác một lần...”.
“Không ngờ ước mơ ấy trở thành sự thật. Tôi hạnh phúc được bên cạnh Bác suốt 13 tiếng
đồng hồ”. Hơn 50 năm sau, “vệ út” Nguyễn Ngọc Sơn (hiện đang sống tại phường Thắng Lợi,
thị xã Sông Công, Thái Nguyên) bồi hồi nhớ lại. Và trong ký ức của cậu bé Sơn ngày nào vẫn
là lời Bác Hồ căn dặn khi chia tay: “Cịn nhỏ thì phải học, học thật nhiều để lo cho đất nước
lâu dài hơn”.


Chúng tôi được gặp Bác tại ngôi nhà sàn của Bác ở An tồn khu Định Hóa (Thái
Ngun). Ngơi nhà giản dị: một bên là sàn nứa để ngủ dài khoảng 3m, một bên là chiếc bàn
làm việc bằng luồng... 17g, Bác xuất hiện, chiếc khăn kiểu đồng bào dân tộc miền núi an toàn
khu vắt hai nửa vai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

bộ đội. Các anh dạy cháu đến lớp 4 nhưng chỉ có mơn tốn... Khơng biết bao giờ cháu được


học tiếp...”.


Bữa cơm tối được dọn ra. Chúng tôi được ăn cùng Bác và chú Tô (Thủ tướng Phạm
Văn Đồng). Bữa cơm ngon nhất trong những năm kháng chiến với một đĩa nhỏ thịt gà, đĩa cá
kho, bát canh rau cải và mấy quả chuối tráng miệng. Chúng tôi ăn dè dặt. Bác ơn tồn nói: phải
ăn no để có sức kháng chiến rồi sẻ nhiều cá và thịt gà cho chúng tôi.


Đêm hôm ấy, thêm một bất ngờ với chúng tôi: Bác ngủ chung lán chúng tôi. Trước khi
ngủ, tơi cịn nghe tiếng Bác hỏi chú bảo vệ: “Các cháu có đủ chăn màn chưa, liệu có lạnh
khơng?”.


Sáng hơm sau Bác dậy rất sớm, tập thể dục xong và chuẩn bị đi đâu đó. Chúng tơi cũng
gói ghém balơ để lên đường về đơn vị. Lúc ấy là 6g sáng, tơi nhẩm tính mình đã có được hạnh
phúc lớn lao: 13 tiếng được ăn cùng, ngủ cùng, sinh hoạt cùng Bác.


Chia tay, Bác cho quà là một nắm cơm nếp ăn đi đường và một tấm ảnh nhỏ chụp Bác
đang bón cơm cho một em bé ở an tồn khu. Sau đó, Bác gặp riêng chú Việt. Mãi sau này
chúng tơi mới biết là Bác nói chú Việt đưa chúng tôi đi học tiếp. Trên đường về, chú Việt bảo
chúng tôi không về đơn vị ngay mà phải đi học, Mặt trận Liên Việt sẽ báo cho đơn vị và Tổng
cục Chính trị biết.


Chúng tơi nằn nì xin chú Việt: “Sắp có chiến dịch, chúng cháu về đơn vị cho kịp”. Chú
Việt nghiêm sắc mặt nói: “Các cháu muốn chiến đấu là tốt, nhưng phải học để tốt hơn. Kháng
chiến thành cơng thì cịn phải lo xây dựng đất nước nữa chứ”. Thấy chúng tơi cịn phân vân,
chú Việt nói tiếp: “Đây vừa là lời dạy, vừa là mệnh lệnh của Bác Hồ đối với các cháu đấy?”.
Sau đó chúng tôi được đi học tại Trường phổ thông Lao động T.Ư và học xong lại trở về quân
đội.


Đến giờ ngẫm lời dạy của Bác, tơi thấy vẫn cịn ngun giá trị cho ngành giáo dục đào
tạo và lý tưởng sống của thế hệ trẻ nước nhà hôm nay.



<b>CHỈ MONG ĐỒNG BÀO MÌNH VƠI ĐI KHỔ CỰC</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Qua đó tơi đã phần nào hiểu được sự chịu đựng quá sức tưởng tượng của nhân dân:
cùng sinh ra kiếp con người, cũng có một nền văn hóa, cũng có một đất nước mấy ngàn năm
lịch sử, vậy mà phải chịu dốt nát, phải chịu đem thân làm nô lệ và phải chết đói trên q
hương mình thì có nỗi đau khổ nào hơn.


Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm nhận thức được cảnh nước mất nhà tan,
xác lập ý chí đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành hiểu hơn ai hết mong ước lớn nhất
của đồng bào ta lúc bấy giờ là độc lập tự do, là cơm ăn áo mặc, là được học hành.


Tháng <b>7</b>-<b>1920</b>, lần đầu tiên đọc luận cương của V.I.Lênin “Về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa” đăng trên báo L’Humanité, ngồi một mình trong phịng mà Nguyễn Ái Quốc đã
trào nước mắt, hô to lên như đang diễn thuyết trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.


Ln đau đáu trong tâm trí mong ước của quần chúng lao khổ nên suốt cuộc đời phấn
đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, Bác Hồ luôn đặt hạnh phúc của nhân dân lên trên hết.


Sau ngày tuyên bố độc lập, nói chuyện tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế
hoạch kiến thiết vào ngày <b>10</b>-<b>1</b>-<b>1946</b>, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta tranh đấu được tự do,
độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân ăn no, mặc đủ... Tôi mong rằng các ngài hãy đem hết tài năng
và tri thức giúp Chính phủ về mặt kiến thiết để đạt cho được mục đích làm cho dân có ăn, có
mặc, có chỗ ở và học hành”.


Lịch sử cũng sẽ mãi mãi ghi dấu ấn về một lãnh tụ vĩ đại, một danh nhân văn hóa thế
giới mà trước khi qua đời “chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” và còn
dặn dị: “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân


dân” (Di chúc).


Ham muốn là bản năng vốn có trong mỗi con người. Có những ham muốn bình dị, có
những ham muốn cá nhân tầm thường, ích kỷ. Nhưng có sự ham muốn vượt lên trên mọi
người, mọi thời đại, đó là ham muốn của người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực
vì con người - Ham muốn của Bác Hồ. Ham muốn xuất phát từ trái tim, khơng mong muốn
điều gì cho cá nhân, chỉ mong đồng bào mình vơi đi khổ cực.


Vì độc lập tự do, vì muốn có cơm ăn áo mặc và được học hành nên bao người dân Việt
Nam đã gác lại những mơ ước riêng tư, hi sinh cả tuổi thanh xuân và máu xương của mình vì
lợi ích của dân tộc. Nước ta sau hơn <b>30</b> năm hoàn toàn độc lập, kinh tế đang phát triển, nhiều
người đang giàu lên nhanh chóng.


Nhưng trên con đường đi lên xán lạn ấy vẫn cịn khơng ít những vấn nạn. Vẫn cịn
những mảnh đời, những người đang hằng ngày vật lộn với cuộc mưu sinh mà cơm vẫn không
đủ bữa. Lại xuất hiện thêm những hình thức tội phạm mới, những người băng hoại đạo đức,
lối sống, gây nhiều hậu quả lớn về kinh tế, xã hội...


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>CHỈ MONG ĐỒNG BÀO MÌNH VƠI ĐI KHỔ CỰC</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Qua đó tơi đã phần nào hiểu được sự chịu đựng quá sức tưởng tượng của nhân dân:
cùng sinh ra kiếp con người, cũng có một nền văn hóa, cũng có một đất nước mấy ngàn năm
lịch sử, vậy mà phải chịu dốt nát, phải chịu đem thân làm nô lệ và phải chết đói trên q
hương mình thì có nỗi đau khổ nào hơn.


Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm nhận thức được cảnh nước mất nhà tan,
xác lập ý chí đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành hiểu hơn ai hết mong ước lớn nhất
của đồng bào ta lúc bấy giờ là độc lập tự do, là cơm ăn áo mặc, là được học hành.


Tháng <b>7</b>-<b>1920</b>, lần đầu tiên đọc luận cương của V.I.Lênin “Về các vấn đề dân tộc và thuộc


địa” đăng trên báo L’Humanité, ngồi một mình trong phịng mà Nguyễn Ái Quốc đã trào nước
mắt, hô to lên như đang diễn thuyết trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị đọa đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.


Ln đau đáu trong tâm trí mong ước của quần chúng lao khổ nên suốt cuộc đời phấn
đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, Bác Hồ luôn đặt hạnh phúc của nhân dân lên trên hết.


Sau ngày tuyên bố độc lập, nói chuyện tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế
hoạch kiến thiết vào ngày <b>10</b>-<b>1</b>-<b>1946</b>, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta tranh đấu được tự do,
độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân ăn no, mặc đủ... Tôi mong rằng các ngài hãy đem hết tài năng
và tri thức giúp Chính phủ về mặt kiến thiết để đạt cho được mục đích làm cho dân có ăn, có
mặc, có chỗ ở và học hành”.


Lịch sử cũng sẽ mãi mãi ghi dấu ấn về một lãnh tụ vĩ đại, một danh nhân văn hóa thế
giới mà trước khi qua đời “chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” và còn
dặn dò: “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân
dân” (Di chúc).


Ham muốn là bản năng vốn có trong mỗi con người. Có những ham muốn bình dị, có
những ham muốn cá nhân tầm thường, ích kỷ. Nhưng có sự ham muốn vượt lên trên mọi
người, mọi thời đại, đó là ham muốn của người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực
vì con người - Ham muốn của Bác Hồ. Ham muốn xuất phát từ trái tim, không mong muốn
điều gì cho cá nhân, chỉ mong đồng bào mình vơi đi khổ cực.


Vì độc lập tự do, vì muốn có cơm ăn áo mặc và được học hành nên bao người dân Việt
Nam đã gác lại những mơ ước riêng tư, hi sinh cả tuổi thanh xuân và máu xương của mình vì
lợi ích của dân tộc. Nước ta sau hơn <b>30</b> năm hoàn toàn độc lập, kinh tế đang phát triển, nhiều
người đang giàu lên nhanh chóng.



Nhưng trên con đường đi lên xán lạn ấy vẫn cịn khơng ít những vấn nạn. Vẫn còn
những mảnh đời, những người đang hằng ngày vật lộn với cuộc mưu sinh mà cơm vẫn khơng
đủ bữa. Lại xuất hiện thêm những hình thức tội phạm mới, những người băng hoại đạo đức,
lối sống, gây nhiều hậu quả lớn về kinh tế, xã hội...


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<b>ĐÃ LÀ GƯƠNG, THÌ PHẢI SÁNG</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Mỗi hành động, việc làm, lời nói của người lãnh đạo, của cấp trên, ln được trăm
nghìn con mắt nhìn vào. Người dân nhìn vào để thấy việc người lãnh đạo làm đến đâu, làm có
đúng khơng, làm vì cái gì, làm cho ai. Dân trí càng cao, kiến thức của người dân ngày càng
nhiều thì những địi hỏi với người lãnh đạo nhiều hơn, không chỉ ở năng lực mà cịn ở nhân
cách trong sáng, tính cơng tâm, quang minh, chính đại.


Người ta rất dễ thấy và dễ bàn tán khi thấy một ông chủ tịch xã đi vào nhà hàng, khách
sạn, nhưng lại không mấy để ý khi đó là một chủ doanh nghiệp. Người ta xì xào ngay vì con
ơng cán bộ nhà nước nghiện ngập, chơi bời, sắm xe này nọ đắt tiền và đặt luôn dấu hỏi về
nguồn gốc của hiện tượng, nhưng dư luận lại khơng quan tâm đối với gia đình của một tiểu
thương.


Dân có quyền giám sát, có quyền địi hỏi phẩm giá đạo đức của người làm lãnh đạo. Sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhà nước ta là sự nghiệp vĩ đại của toàn dân. Ai ai, trong thời
đại của hội nhập và phát triển này đều đang làm “cách mạng”. Mỗi người mỗi việc, mỗi người
một nhiệm vụ chung tay xây dựng đất nước.


Xã hội được nhà nước quản lý bằng pháp luật. Hành động, việc làm, cử chỉ thường nhật
của người dân trái pháp luật phải chịu chế tài, vì thế pháp luật muốn đi vào dân, đến với dân
thì cần trước hết những sự nghiêm túc chấp hành ở những người thực thi pháp luật của cơ
quan hành pháp.


Làm sao dân tin khi gặp phải sự rối rắm, rườm rà, thái độ hành dân, bức dân của người


lãnh đạo. Làm sao dân tin khi thấy người lãnh đạo nhưng lại không tuân thủ luật pháp, sống bê
tha, vô lối trái ngược với luật pháp và đạo đức xã hội...


Ở khía cạnh này, có thể ví người làm lãnh đạo như các “ngôi sao” trên các sân khấu ca
nhạc, thời trang, thể thao… Một kiểu người của công chúng, của số đông. Họ rất dễ được để
ý, được nhìn ngắm, được “quan tâm”. Làm lãnh đạo vì thế là vinh dự lớn lao, nhưng vừa là
trách nhiệm vô cùng nặng nề. Cái gốc đạo đức cách mạng là gốc rễ của mọi niềm tin. Chỉ khi
dân tin, dân đồng lịng chia sẽ với mọi cơng việc, mọi vất vả của sự nghiệp cách mạng thì
người lãnh đạo mới hồn thành nhiệm vụ của mình trước nhân dân và trước dân tộc.


Bác Hồ nói <i>“Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo</i>
<i>đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.</i> Trong sự
nghiệp đổi mới, trước sự giao thoa của các giá trị văn hóa đến từ nhiều nơi khác nhau, người
lãnh đạo càng phải đứng vững, để trước tiên đảm bảo được chính mình khơng bị cuốn theo
những giá trị xấu chưa được sàng lọc.


Đứng vững và làm cho dân tin không dễ đối với những người được giao giữ quyền
lực kèm theo những giá trị vật chất tương ứng và tất yếu mà họ nhận được. Thực trạng về sự
hủ hóa, biến chất của nhiều quan chức, lãnh đạo, một số phải đưa tay vào còng sau những vụ
việc tiêu cực, tham nhũng thời gian qua ở nước ta là sự xúc phạm giá trị người cách
mạng. Bác Hồ kính yêu của chúng ta sẽ vơ cùng đau đớn vì những điều như thế.


Bài học về đạo đức cách mạng luôn mới mẻ và nóng hổi tính thời sự. Sao nhãng việc
rèn giũa đạo đức cách mạng trong sự nghiệp đổi mới đất nước hôm nay sẽ buộc chúng ta trả
giá đắt cho tương lai. Nguyện vọng và mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "dân cường,
nước mạnh, nhân dân ấm no hạnh phúc" cần phải được cụ thể hóa bằng những hành động
thấm đẫm những giá trị về đạo đức cách mạng theo tấm gương đạo đức sáng ngời của Người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40></div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Sinh thời, có một lần Bác Hồ hỏi mấy cán bộ tuyên huấn về cách tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Sau khi nghe họ lần lượt báo cáo, Bác nói:



- Các chú làm được khá nhiều việc đấy, có chú thuộc nhiều chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Nhưng theo Bác, cách mạng phân cơng làm việc gì, từ Chủ tịch nước hay người cấp dưỡng
đều phải hồn thành nhiệm vụ. Khơng nên đào tạo ra cán bộ thuộc làu sách vở, biết cụ Mác
nói thế này, cụ Lê-nin nói thế kia, nhưng giao việc quét nhà lại để nhà đầy rác là không được.
Ngừng một lát, Bác hỏi tiếp:


- Các chú có biết nhân dân ta sống với nhau phải thế nào khơng?
Ơng Hà Huy Giáp thưa Bác:


- Nhân dân ta có câu: “Tắt lửa tối đèn có nhau”.
Bác ơn tồn:


- Đúng thế. Nhân dân Việt Nam có truyền thống như vậy. Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin
là phải sống với nhau có tình, có nghĩa như vậy. Thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau
khơng ra gì thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin.


Không chỉ riêng câu chuyện này, mà cả cuộc đời của Bác cho thấy một điều rằng: Bác
rất coi trọng thực tiễn, coi trọng việc làm. Bác rất ghét những căn bệnh thuộc làu làu kinh sử,
giỏi tầm chương trích cú nhưng làm thì dở.


Ơng Trần Thọ Chân, một cán bộ lão thành cách mạng nói rằng: Lúc sinh thời, Bác Hồ
thường nói rất ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Nhưng ai đã nghe Bác nói thì nhớ rất lâu và quyết
chí làm theo. Với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện
nay cũng vậy, cần chú ý nhất là làm sao để mọi người “làm theo”. Chứ nói hay mấy mà khơng
làm thì chỉ là thứ “cách mạng đầu lưỡi”.


Do vậy, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” khơng
phải chỉ thi tìm hiểu, thi báo cáo viên, giảng dạy về đạo đức Hồ Chí Minh mà điều quan trọng
hiện nay là phải hành động. “Điều cơ bản bây giờ là mỗi đảng viên, mỗi chi bộ phải có


chương trình hành động, xác định được những việc cần làm chứ đừng phí thì giờ chỉ đi giảng
giải, chỉ đọc và thi thố về tư tưởng, đạo đức của Bác Hồ, tầm chương trích cú từ những tập
sách dày cộp mà lại khơng làm theo những điều mình đã học, đã nói!” - Ơng Chân tâm sự.
Đó là điều rất đúng. Đó mới là mục tiêu cần phải đạt được. Ngay như chuyên mục “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên các báo, cũng nên bớt các bài dạng “tầm
chương trích cú” mà nên tăng cường các bài giới thiệu kinh nghiệm, thực tiễn.


Ban chỉ đạo cuộc vận động các cấp nên kiểm tra chéo để xem nơi nói hay, có thực sự làm hay
khơng


<b> NOI THEO GƯƠNG BÁC KÍNH YÊU </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

cho ngày hội lớn của dân tộc - ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, chọn ra những người
tiêu biểu vào cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước.


Kỷ niệm ngày sinh của Người cịn có ý nghĩa đặc biệt, khi cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động đang được cả hệ thống
chính trị và tồn xã hội triển khai thực hiện.


Bác là người Việt Nam đẹp nhất. Phẩm chất đạo đức của Bác là kết tinh truyền thống
dân tộc - truyền thống hiếu nghĩa, đoàn kết, bác ái. Trong di sản mà Bác để lại cho Đng ta và
nhân dân ta thì tấm gưng đạo đức trong sáng, mẫu mực của Người có giá trị tinh thần to lớn,
nhằm xác lập và phát triển nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng của Việt Nam.


Trong sự nghiệp gii phóng dân tộc cách mạng nước ta đã giành được hết thắng lợi này, đến
thắng lợi khác mang tính lịch sử, là do Đảng ta và Bác Hồ kính yêu đã dày công xây dựng,
vun đắp lý tưởng, đạo đức cách mạng thành động lực cho hàng triệu người con ưu tú của dân
tộc, không tiếc xưng máu, không sợ hy sinh, xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân.



Bước sang thời kỳ xây dựng đất nước, đồng thời với đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị
việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức của Bác luôn được Đảng ta coi trọng,
nhất là <b>3</b> tháng gần đây, kể từ ngày phát động Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” thì quy mơ càng lớn hơn, với nhiều hình thức phong phú và sinh động.
Tuy nhiên, những chuyển biến trong đời sống đạo đức của Đảng và xã hội vẫn chưa tương
xứng; Sự suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên, nhất là tệ tham nhũng, lãng phí có chiều hướng gia tăng, nếu không được ngăn
chặn, nguy cơ dẫn đến tồn vong chế độ. Nguyên nhân của suy thoái đạo đức, là do một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, hoặc là coi nhẹ, hoặc là học đạo đức của Bác mà khơng
làm theo; học chỉ là hình thức, học để đối phó mà thiếu tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất
đạo đức cho bản thân mình.


Chưa bao giờ việc đòi hỏi nâng cao đạo đức xã hội nói chung, phẩm chất đạo đức cách
mạng nói riêng lại cấp bách như hiện nay. Chính vì thế kỷ niệm <b>117</b> năm ngày sinh của
Người, thiết thực nhất là các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi chúng ta, nhất là cán bộ,
đảng viên - những công bộc của dân, hãy thấm nhuần nội dung và nhận thức sâu sắc vị trí, vai
trị, giá trị to lớn của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội để
học tập, làm theo.


Giữa học và làm theo tấm gương đạo đức của Bác thì phải đặc biệt chú trọng việc làm
theo, việc thực hành về đạo đức; tuyệt đối chống nói mà khơng làm, nói nhiều, làm ít, nói
khơng đi đơi với làm. Chống phơ trưng hình thức ngay trong triển khai, thực hiện Cuộc vận
động.


Cuộc vận động phải được thực hiện tốt trước hết ở cán bộ, đảng viên cấp cao, ở cơ quan
cấp trên, lấy chuyển biến đạo đức trong cán bộ, đảng viên, trong tổ chức đảng làm trọng điểm
và đòn bẩy để thúc đẩy sự chuyển biến đạo đức trong toàn xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển đất nước vì
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.



<b>CÁI GIẢN DỊ CỦA BÁC, TA PHẢI HỌC CẢ</b>


<b>MỘT ĐỜI</b>

<b>!</b>

<b> </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

được gặp và làm việc bên Bác mở đầu như thế trong cuộc trị chuyện với chúng tơi. Ông kể:
"Sau <b>1945</b>, tôi từ Côn Đảo trở về được tổ chức phân cơng làm Bí thư Ban cán sự nội thành Sài
Gòn - Chợ Lớn và tham gia vào phái đoàn miền Nam ra họp Đại hội lần thứ <b>2</b> của Đảng vào
năm <b>1949</b>. Đây là lần đầu tiên tơi được gặp Bác. Lúc đó đồn cán bộ qn dân chính miền
Nam đến chào Chính phủ đang họp tại rừng Việt Bắc. Quây quần bên Bác là các nhân sĩ như
cụ Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Bá Trực... và các bộ trưởng, thứ trưởng khác. Sau
khi nghe ông Phạm Hùng, lúc ấy là trưởng đồn, báo cáo với Chính phủ tình hình kháng chiến
của Nam Bộ, Bác Hồ nói với các vị nhân sĩ: Phái đồn Nam Bộ đã báo cáo tình hình, bây giờ
tôi mời các cụ cho ý kiến trước. Nghe thế, các vị đều nói: Chúng tơi khơng có ý kiến gì, xin
mời chủ tịch".


Trong bữa ăn sáng hơm sau, trên bàn ăn của Bác Hồ và các cán bộ cao cấp khác thì chỉ
có xơi đậu xanh chấm với muối vừng, cịn các vị nhân sĩ thì được ngồi bàn riêng có thêm sữa,
thịt kho và nhiều thứ khác nữa. Ý tơi muốn nói rằng, nhân sĩ trí thức theo kháng chiến thì ln
được Bác biệt đãi.


Lúc tối đến, cả Chính phủ đều ngủ quây quần trên chiếc sạp bằng nứa, trời rét, không
đủ chăn. Thấy thế tôi đánh bạo hỏi các cụ nhân sĩ: Sao các cụ đã nhiều tuổi như thế mà các cụ
không nghỉ ngơi? Một cụ đáp: Cụ Hồ cũng cao tuổi, cụ Hồ cịn làm việc thì chúng tơi cũng
khơng thể nghỉ ngơi được.


Cuối năm <b>1949</b>, sau khi từ Việt Bắc trở về, tơi bị địch bắt giam đến năm <b>1954</b> thì được
trao trả. Năm <b>1959</b>, tơi được cử về làm Phó bí thư thường trực Thành ủy Hà Nội. Thời gian
này thỉnh thoảng tôi được gặp Bác Hồ. Vào năm <b>1960</b>, khi được bầu vào T.Ư Đảng thì tơi mới
được làm việc bên Bác nhiều. Qua những lần gặp Bác, tôi ln thấy rằng, Bác Hồ khơng bao
giờ nói dài. Nhớ lần Bác về làm việc với Hà Nội về chuyện quy hoạch thủ đơ.



Trong hội nghị có rất nhiều ý kiến phát biểu rằng, Đảng ta công lao to lớn như thế, hy
sinh to lớn như thế thì nên xây dựng trụ sở T.Ư Đảng cho nó to, cho thật xứng đáng. Lúc bấy
giờ T.Ư Đảng đang làm việc trong ngôi nhà nhỏ tại số <b>4</b> Nguyễn Cảnh Chân. Nghe thế Bác
bảo: "T.Ư Đảng làm việc như thế được rồi! Xây dựng làm gì trong lúc đồng bào miền Nam
đang chiến đấu". Rồi quay sang tôi, Bác hỏi: "Theo chú, trụ sở T.Ư Đảng nên xây thế nào?
Xây ở đâu thì đẹp?". Khi tơi đang tìm câu trả lời thì Bác nói: "Trụ sở T.Ư Đảng nên đặt trong
lịng dân ấy. Xây trong lịng dân thì nó mới bền vững và đẹp". Bác chỉ nói ngắn thế thơi nhưng
mà ai cũng thấm thía.


Bác của chúng ta là người vơ cùng giản dị, đi đâu, làm gì khơng bao giờ Bác làm phiền
địa phương. Tôi nhớ vào trước Tết năm <b>1965</b>, lúc ấy tơi đang làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh.
Bác Hồ cho gọi tôi lên bảo: "Này chú! Tết này mình muốn về Quảng Ninh, muốn về Hịn Gai
mấy ngày Tết có được khơng?".


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Bỗng nhiên, tơi thấy đồng chí Kháng, Cục trưởng Cục Cảnh vệ lúc ấy chạy đến bảo tôi: "Mời
anh xuống phà".


Tôi hỏi: "Thế Bác đâu hả anh?". Anh Kháng bảo: "Bác xuống phà rồi". Nghe thế, tôi
thực sự bất ngờ. Một vị chủ tịch nước mà đi chỉ có một xe, khơng xe dẹp đường, không xe tùy
tùng, không tiền hô, hậu ủng gì cả... Sáng mồng <b>1</b> Tết, sau khi thăm cơng nhân mỏ, Bác lên xe
trở về Hà Nội.


Năm <b>1967</b>, tôi về Bộ Ngoại giao cơng tác, sau đó được cử đi làm đại sứ tại Liên Xô và
Thụy Điển. Khi nghe tin sẽ đi làm đại sứ, tôi vào thưa với Bác: "Tôi lùn và xấu thế này, làm
sao mà làm ngoại giao được?". Bác bảo: "Chú làm được đấy. Tơi biết. Chú có nhận thì Bộ
Chính trị mới quyết". Trước khi đi Bác dặn: "Này chú! Chú làm ngoại giao nhưng đừng có
ngoại giao quá, đừng có lễ tân lắm, cốt nhất là ở lòng chân thành của mình với người ta".
Những điều Bác dặn đã giúp tơi làm tốt cơng việc của mình".



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×