Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nguyên tắc quyền và nghĩa vụ của công dân do hiến pháp và luật quy định lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG

NGUYÊN TẮC “QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CÔNG DÂN DO HIẾN PHÁP VÀ LUẬT QUY ĐỊNH”
– LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Nhóm tác giả
1. LƢU ĐỨC QUANG (chủ nhiệm)
2. NGUYỄN MẠNH HÙNG
3. NGUYỄN THANH MINH
(GV. KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH)

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

03

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC “QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CÔNG DÂN DO HIẾN PHÁP VÀ LUẬT QUY ĐỊNH”
1.1. NHẬN DIỆN NGUYÊN TẮC


07

1.2. KINH NGHIỆM LẬP HIẾN QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN NGUYÊN TẮC 12
1.2.1. Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1787

12

1.2.2. Hiến pháp Liên bang Úc năm 1900
1.2.3. Hiến pháp Indonesia năm 1945
1.2.4. Hiến pháp Nhật Bản năm 1947
1.2.5. Hiến pháp Hàn Quốc năm 1948
1.2.6. Hiến pháp CHLB Đức năm 1949
1.2.7. Hiến pháp Singapore năm 1963

13
14
14
14
15
16

1.2.8. Hiến pháp Thụy Điển năm 1974
1.2.9. Hiến pháp Trung Quốc năm 1982

17
18

1.2.10. Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993
1.2.11. Hiến pháp Ba Lan năm 1997


18
20

1.2.12. Hiến pháp Thái Lan năm 2007

21

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC “QUYỀN VÀ NGHĨA
VỤ CỦA CÔNG DÂN DO HIẾN PHÁP VÀ LUẬT QUY ĐỊNH” VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ
2.1. THỂ CHẾ HÓA PHÁP LÝ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CƠNG
DÂN
25
2.1.1. Thể chế hóa pháp lý quyền cơ bản của cơng dân trong lĩnh vực chính trị
25
2.1.2. Thể chế hóa pháp lý quyền cơ bản của cơng dân trong lĩnh vực dân sự
27
2.1.3. Thể chế hóa pháp lý quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa
và xã hội
31
2.1.4. Thể chế hóa pháp lý nghĩa vụ cơ bản của công dân
41

2


2.2. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG LIÊN QUAN ĐẾN NGUYÊN TẮC VÀ BÌNH LUẬN
2.2.1. Tình huống thứ nhất – Sự chậm trễ “luật hóa” quyền biểu tình của cơng dân
nhìn từ tư duy của các nhà chức trách
48

2.2.2. Tình huống thứ hai - Sự tương thích giữa Hiến pháp, Luật Đất đai với các văn
bản dưới luật về vấn đề thu hồi đất với quyền sử dụng đất của công dân

51

2.2.3. Tình huống thứ ba – Thực tiễn thực thi quyền học tiểu học khơng phải trả học
phí của cơng dân

54

2.2.4. Tình huống thứ tư – Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức
khoa học và công nghệ với quyền nghiên cứu khoa học của công dân
56
2.2.5. Tình huống thứ năm – Danh mục tác phẩm âm nhạc được phép phổ biến với
quyền sáng tác, biểu diễn nghệ thuật và hưởng thụ văn hóa của cơng dân
60
2.2.6. Tình huống thứ sáu – Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng
với quyền tự do cư trú của cơng dân

62

2.2.7. Tình huống thứ bảy – Thực tiễn thực thi quyền tự do kinh doanh của công
dân
67
2.2.8. Tình huống thứ tám - Văn bản hành chính với việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ
công dân
70
2.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

75


KẾT LUẬN

79

PHỤ LỤC

80

PHỤ LỤC 1: MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

80

PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88

3


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn Đề tài nghiên cứu
“Quyền và nghĩa vụ cuả công dân do Hiến pháp và luật quy định”
là một nguyên tắc mới được quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trong quá
trình nghiên cứu và giảng dạy Luật Hiến pháp, chúng tôi nhận thấy mấy vấn đề

nổi bật dưới đây có liên quan đến nguyên tắc hiến định này.
Một là, từ góc độ nội dung của các tài liệu giảng dạy Luật hiến pháp ở
Việt Nam, giáo trình của các cơ sở đạo tạo pháp luật lớn hiện chưa thống nhất
trong nhận thức về nguyên tắc này: hoặc khơng hề phân tích ngun tắc như các
Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội – Nxb.
Công an nhân dân – 2008 và Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội – Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội – 2006 hoặc phân tích khá sơ sài như Giáo trình Luật
Hiến pháp Việt Nam của Viện Đại học Mở Hà Nội – Nxb. Tư pháp – 2004.
Chúng tôi hy vọng công trình này góp phần cho sự thống nhất đó.
Hai là, từ yêu cầu tổng kết việc thi hành và nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, trong đó, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đang
chiếm được sự quan tâm to lớn, khơng chỉ từ phía các nhà hoạch định chính
sách, giới học thuật mà cịn từ cơng chúng. Chúng tơi hy vọng cơng trình này sẽ
góp phần vào việc đa dạng hóa, sâu sắc hóa các nguồn tài liệu về nguyên tắc
hiến định này nói riêng, về địa vị pháp lý của cơng dân nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam, chưa có cơng trình nghiên
cứu chun biệt về nguyên tắc hiến định “Quyền và nghĩa vụ của công dân do
Hiến pháp và luật quy định”. Liên quan đến Đề tài này, một số nhà luật học đã
công bố một số bài báo trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, hội thảo khoa
học; điển hình là bài: “Bàn về hình thức văn bản và thẩm quyền quy định về
quyền và nghĩa vụ của công dân” – Tạp chí Khoa học Pháp lý số 5/2007của tác
giả Vũ Văn Nhiêm; “Một số định hướng và phương pháp ghi nhận quyền cơ
bản của công dân, quyền con người trong Hiến pháp sửa đổi” – trong sách
“Hiến pháp: những vấn đề lý luận và thực tiễn” – Nxb. Đại học quốc gia Hà
4


Nội - 2011 của PGS. TS. Nguyễn Như Phát. Một số nội dung có liên quan cũng
được một số tác giả thể hiện trong các giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham

khảo với tính chất là một phần của ấn phẩm; điển hình là: “Bình luận khoa học
Hiến pháp 1992” – Nxb. Sự thật – 1992 của nhóm tác giả Phùng Văn Tửu –
Nguyễn Niên – Nguyễn Văn Thảo – Đồn Trọng Truyến; “Quyền con người,
quyền cơng dân trong Hiến pháp Việt Nam” (sách chuyên khảo) – Nxb. Khoa
học xã hội – 2005 của PGS. TS. Nguyễn Văn Động; “Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN” (sách chuyên khảo) - Nxb. Chính trị quốc gia - 2011 của PGS. TS.
Nguyễn Minh Đoan; “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam” (sách chuyên khảo) – Nxb. Chính trị quốc gia – 2011
của GS. TS. Trần Ngọc Đường.
Khơng chỉ chưa có cơng trình nghiên cứu chun biệt mà các cơng trình
như đã nêu trên chưa có sự tổng kết tồn diện đối với ngun tắc hiến định này
thông qua việc nghiên cứu so sánh kinh nghiệm lập hiến quốc tế; thu thập, phân
tích, bình luận những tình huống, số liệu cụ thể về sự thể chế hóa pháp lý quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng như thực tiễn thực hiện và nhận thức của
công chúng ở nước ta về nguyên tắc hiến định quan trọng này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nhận thức: đề tài góp phần cung cấp nhận thức đúng và đầy đủ
về nguyên tắc hiến định này cũng như sự tồn tại cần thiết của nó. Trên cơ sở đó,
đề tài tổng kết, phân tích, đánh giá việc hiện thực hóa nguyên tắc cũng như
những hệ quả của hiện thực này trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
và hướng tới mục tiêu thứ hai. Mục tiêu hành động: đề tài đưa ra một số kiến
nghị nhằm tối ưu hóa cơ chế thực thi nguyên tắc.
Kết quả của Đề tài có thể trở thành chuyên khảo được sử dụng trong
giảng dạy và học tập các mơn học có liên quan như Luật Hiến pháp, Quyền con
người – Quyền công dân, Giám sát Hiến pháp, Nhà nước pháp quyền… thuộc
chương trình đào tạo luật học các cấp hoặc chuyên khảo dành cho các nhà lập
hiến, lập pháp, hành pháp.

5



4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt pháp lý, chúng tôi nghiên cứu Hiến pháp năm 1992 và các văn
bản dưới luật (Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định) có liên quan đến việc thể chế
hóa quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Đối với việc tìm hiểu kinh nghiệm
quốc tế, chúng tôi nghiên cứu Hiến pháp của 12 quốc gia gồm Hoa Kỳ, Đức, Ba
Lan, LB Nga, Thụy Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore,
Indonesia, Úc và Trung Quốc.
Về mặt thực tiễn, chúng tôi chọn nghiên cứu 8 tình huống pháp lý liên
quan đến việc thực hiện nguyên tắc bằng cách trình bày và bình luận. Đồng
thời, chúng tôi tiến hành điều tra xã hội học với 945 mẫu tại Tp. HCM, Khánh
Hòa, Tây Ninh và Bà Rịa – Vũng Tàu để từ đó có thể đánh giá bước đầu nhận
thức của xã hội về vấn đề này cũng như thu thập thêm luận chứng nghiên cứu.
Tóm lại, chúng tôi tập trung vào việc tổng kết thể chế hóa pháp lý và hiện
thực hóa nguyên tắc này trong đời sống.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu Đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp giải thích thuật ngữ pháp lý;
phương pháp so sánh pháp luật (kinh nghiệm lập hiến quốc tế và Việt Nam);
phương pháp phân tích tình huống pháp lý; phương pháp phỏng vấn và phân
tích kết quả điều tra xã hội học…
6. Bố cục của Báo cáo tổng kết: Báo cáo tổng kết Đề tài có mấy phần như sau:
 Phần mở đầu: giới thiệu lý do chọn đề tài, tình hình, mục tiêu, phạm
vi và phương pháp nghiên cứu; bố cục Báo cáo tổng kết.
 Chương 1 – Cơ sở lý luận của nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của
cơng dân do Hiến pháp và luật quy định” trình bày: phân tích
nguyên tắc này với tính cách một nguyên tắc hiến định ở Việt Nam
(xuất xứ, nội dung, yêu cầu, ý nghĩa); giới thiệu kinh nghiệm lập hiến

của 12 quốc gia có liên quan đến nguyên tắc này.
 Chương 2 – Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và luật quy định” và một số kiến nghị
6


trình bày: việc thể chế hóa về mặt pháp lý đối với các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 và một số đạo luật,
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật; nêu và bình luận một số tình
huống có liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc này và đề xuất một
số kiến nghị nhằm khẳng định sự tồn tại cần thiết của nó trong Hiến
pháp cũng như nâng cao khả năng hiện thực hóa.
 Kết luận.
 Phụ lục: giới thiệu kết quả cuộc điều tra xã hội học có liên quan đến
nguyên tắc này tại Tp. HCM, Khánh Hòa, Tây Ninh và Bà Rịa – Vũng
Tàu với 945 mẫu nghiên cứu.
 Danh mục tài liệu tham khảo.

7


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC
“QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN
DO HIẾN PHÁP VÀ LUẬT QUY ĐỊNH”

1.1. NHẬN DIỆN NGUYÊN TẮC
Nhà nước là chủ thể độc quyền ban hành pháp luật. Vì thế, về nguyên tắc,
pháp luật của nhà nước phải đủ khách quan để một mặt bảo đảm lợi ích của

cơng dân, một mặt duy trì bình thường việc thực hiện các chức năng của nhà
nước. Ở nước ta, trong số các cơ quan nhà nước có quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nhà nước - công dân, Quốc hội chính là cơ
quan dân cử tiêu biểu nhất (bởi Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả
nước lựa chọn thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu; Quốc hội có thành phần
hết sức đa dạng với sự góp mặt của đại diện dân cư theo vùng miền, tầng lớp xã
hội, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính...; Quốc hội nói chung, đại biểu Quốc
hội nói riêng có sự gắn bó mật thiết nhất với nhân dân, cử tri trong hoạt động và
chịu trách nhiệm cao nhất trước quốc dân đồng bào). Do vậy, Quốc hội được
xem là cơ quan có khả năng nhất trong việc thể chế hóa ý nguyện của nhân dân
một cách trung thực nhất, toàn diện nhất; đặc biệt trong việc xây dựng mối quan
hệ cơ bản giữa nhà nước với công dân hay địa vị pháp lý cơ bản của công dân
thể hiện bằng hệ thống quyền và nghĩa vụ của công dân. Bàn về vai trò của
Quốc hội, Montesquieu cũng cho rằng: “Trong một nước lớn thì khơng thể mỗi
cơng dân đều làm việc lập pháp. Trong một nước nhỏ việc này cũng rất khó
khăn; cho nên dân chúng thực hiện quyền lập pháp bằng cách giao cho các đại
biểu của mình làm mọi việc mà cá nhân khơng thể tự mình làm lấy”1. Bàn về

1

Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục và Khoa Luật Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Hà Nội, 1996, tr. 104.

8


bản chất của quyền lập pháp, Jean Jacques Rousseau cho rằng: “Lập pháp là
đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể có thể đạt tới”2.
Để thể chế hóa nguyên lý đại diện trên đồng thời “khắc phục sự vi phạm
quyền con người, quyền công dân do thiếu sót của Nhà nước từ hoạt động lập
pháp, lập quy”3, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm

1992 đã khẳng định một tư tưởng chỉ đạo hay nguyên tắc nền tảng cho việc xác
lập địa vị pháp lý của công dân: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến
pháp và luật quy định”. Ngay từ năm 1992, Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VIII4
- luật gia kỳ cựu Phùng Văn Tửu đã bình luận: “Ở đây nói luật chứ khơng phải
pháp luật. Như vậy là sau khi có Hiến pháp mới thì chỉ có luật do Quốc hội
thơng qua mới quy định về quyền và nghĩa vụ cơng dân. Cịn các văn bản dưới
luật chỉ là hướng dẫn cụ thể việc thực hiện. Đó cũng là một trong nhiều thí dụ
khác chứng tỏ quyết tâm của Nhà nước ta xây dựng Nhà nước pháp quyền, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”5.
Đây cũng chính là quy định mới mang tính nền tảng đối với hoạt động
lập pháp của Nhà nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng. Điều này, một lần nữa,
thể hiện thái độ trân trọng rất đáng ghi nhận của Nhà nước đối với việc thể chế
hóa địa vị pháp lý của công dân, nhằm hạn chế tối đa sự tùy tiện từ phía Nhà
nước. Đánh giá quy định này, GS. Trần Ngọc Đường cho rằng: “Quyền con
người, quyền công dân là các giá trị của xã hội mà Nhà nước phải có nghĩa vụ
thể chế bằng Hiến pháp và các đạo luật là những hình thức pháp lý cao nhất.
Nhờ đó, mà các giá trị của xã hội với tư cách là các quyền của con người,
quyền công dân tồn tại một cách ổn định, được thừa nhận và bắt buộc chung,
được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy nhà nước. Do đó, một mặt cá nhân con
người phải nhận thức sâu sắc rằng khi các giá trị xã hội với tư cách là các
quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp và luật quy định, đó là các quyền và

2

Jean Jacques Rousseau, Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1992, tr. 72 (Bản
dịch của Hoàng Thanh Đạm).
3
Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam (sách chuyên khảo) – Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 82.
4

Quốc hội khóa VIII (1987-1992) đã thơng qua Hiến pháp năm 1992.
5
Phùng Văn Tửu – Nguyễn Niên – Nguyễn Văn Thảo – Đồn Trọng Truyến (1992), Bình luận khoa học
Hiến pháp 1992, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 64.

9


nghĩa vụ cao quý, công dân phải tôn trọng và có ý thức thực hiện. Mặt khác, về
phía Nhà nước phải đề cao trách nhiệm tìm tịi, khám phá, phát hiện nhu cầu và
giá trị xã hội với tư cách là các quyền và nghĩa vụ để sớm thể chế và ghi nhận
trong Hiến pháp và các đạo luật. Bằng các quy định đó Nhà nước nhằm hạn
chế, ngăn ngừa các cá nhân, tổ chức và cơ quan tùy tiện đặt ra các quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật vi phạm quyền con người, quyền công
dân”6.
Về mặt hình thức pháp lý, chúng tơi xin diễn giải như sau7:
1. Quyền và nghĩa vụ của cơng dân có thể được chia thành hai loại gồm
quyền và nghĩa vụ cơ bản (được quy định mang tính xác lập, khởi đầu
hay lần đầu trong Hiến pháp – luật cơ bản của Nhà nước) và quyền, nghĩa
vụ khác hay quyền, nghĩa vụ khơng cơ bản (được quy định mang tính xác
lập, khởi đầu hay lần đầu trong các luật, bộ luật). Phân tích sâu hơn,
chúng ta nhận thấy Hiến pháp chỉ quy định những quyền và nghĩa vụ
cơng dân hoặc có tính quan trọng đặc biệt, hoặc vừa có tính quan trọng
đặc biệt vừa có tính khái qt (chung) so với quyền và nghĩa vụ luật định.
Ví dụ thứ nhất: nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ chung nên được hiến định;
còn nghĩa vụ nộp một loại thuế cụ thể như thuế thu nhập cá nhân, thuế
xuất nhập khẩu… thuộc loại nghĩa vụ cụ thể nên sẽ do luật định. Ví dụ
thứ hai: quyền được Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình (theo suy
đốn) là quyền chung; cịn quyền kết hơn theo quy định của Luật Hơn
nhân và gia đình là quyền cụ thể. Ví dụ thứ ba: quyền bầu cử là quyền

quan trọng đặc biệt vừa có tính chung nên được hiến định như sau:
“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp thời hạn cư trú, đủ 18
tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng
cử vào Quốc hội, Hội dồng nhân dân theo quy định của pháp luật” (điều
54). Trong trường hợp này, nếu chỉ lấy việc xác định độ tuổi làm căn cứ
6

/>Xem thêm: Vũ Văn Nhiêm, Bàn về hình thức văn bản và thẩm quyền quy định về quyền và nghĩa vụ
của công dân, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 5/2007.
7

10


thì quyền bầu cử dường như là quyền khá cụ thể; tuy nhiên, nếu tiếp tục
xét một số trường hợp công dân tuy đủ tuổi hiến định song vẫn bị tước
quyền bầu cử theo luật định (ngoại lệ) thì quyền này lại vẫn mang tính
khái quát8.
2. Bản thân Quốc hội cũng không được ban hành các loại văn bản khác mà
nội dung có liên quan đến việc quy định mang tính xác lập, khởi đầu hay
lần đầu quyền và nghĩa vụ cơng dân. Chiểu theo cách hiểu trên thì Quốc
hội không thể sử dụng Nghị quyết vào việc này. Khoản 3, điều 11 Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Nghị quyết của Quốc
hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; dự
toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; điều chỉnh
ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy
định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại
biểu Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề

khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội”. Hệ quả là, không thể suy diễn
“các vấn đề khác” ở đây bao hàm mọi thẩm quyền của Quốc hội để ban
hành nghị quyết kiểu Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 hay Nghị quyết số
55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.
3. Tất nhiên, Quốc hội cũng không thể ủy quyền cho bất kỳ cơ quan nào
khác việc quy định quyền và nghĩa vụ công dân. Hiện tượng Pháp lệnh
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thậm chí là Nghị định “khơng đầu”
của Chính phủ quy định về địa vị pháp lý của cơng dân thật khó mà bào
chữa cho sự có mặt của chúng nếu ta nguyện thượng tơn Hiến pháp.
Về mặt nội dung, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành, “Luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế,
xã hội, quốc phịng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tơn
giáo, văn hố, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ
8

Xem thêm: Nguyễn Văn Động (2005), Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam
(sách chuyên khảo), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 211-212.

11


chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức,
quyền và nghĩa vụ của cơng dân” (khoản 2 điều 11). Trong khi đó, các văn
bản pháp luật khác hoặc không được Luật này xác định rõ thẩm quyền như trên
(quy định các vấn đề cơ bản về quyền, nghĩa vụ của công dân) hoặc được trao
thẩm quyền có liên quan (quyền, nghĩa vụ của cơng dân) như Nghị định do
Chính phủ ban hành sẽ “quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính
sách kinh tế, xã hội, quốc phịng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế,
dân tộc, tơn giáo, văn hố, giáo dục, y tế, khoa học, cơng nghệ, môi trường, đối

ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và
các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ” (điều
14). Như vậy, chúng ta có thể hiểu như sau:
1. Chỉ có Quốc hội mới có quyền quy định quyền và nghĩa vụ của cơng dân
mang tính xác lập, khởi đầu hay lần đầu trong hai loại văn bản là Hiến
pháp và các đạo luật.
2. Tất cả các cơ quan nhà nước khác đều khơng có quyền quy định mang
tính xác lập, khởi đầu hay lần đầu quyền và nghĩa vụ cơng dân. Họ chỉ có
quyền dựa vào Hiến pháp và luật để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
quyền, nghĩa vụ công dân và phải đảm bảo rằng hoạt động này không
được tiến hành trái với tinh thần hiến định, luật định. Ví dụ: Quốc hội đặt
ra các thứ thuế kèm theo khung thuế suất chuẩn; cơ quan thuế vụ theo
thẩm quyền chỉ có thể tổ chức cho công dân đăng ký mã số thuế, kê khai
và nộp thuế (chẳng hạn ở tỉnh A, công dân đăng ký mã số thuế, kê khai
và nộp thuế trực tiếp tại trụ sở cơ quan thuế; còn ở tỉnh B, công dân đăng
ký mã số thuế, kê khai thuế qua Internet và nộp thuế qua ngân hàng) hoặc
cơ quan thuế có quyền ấn định mức thuế suất riêng cho từng đối tượng
nộp thuế nhưng khơng được nằm ngồi khung thuế suất luật định (chẳng
hạn từ 5 đến 10%). Nếu hiểu một cách nghiêm ngặt thì các cơ quan này
chỉ có thể tác động đến việc hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ của cơng
dân thơng qua việc tự mình xây dựng hoặc tham gia xây dựng thủ tục
hành chính; thậm chí, trong một số trường hợp, Hiến pháp, luật sẽ quy

12


định về quyền, nghĩa vụ công dân một cách trực tiếp và toàn diện (tuyệt
đối) như kinh nghiệm lập hiến quốc tế9.
3. Các cơ quan nhà nước khác không được đặt ra quyền, nghĩa vụ mới so
với quyền, nghĩa vụ hiến định và luật định hoặc xóa bỏ quyền, nghĩa vụ

hiến định và luật định.
1.2. KINH NGHIỆM LẬP HIẾN QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN NGUYÊN
TẮC
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát nội dung của 12 bản Hiến pháp hiện hành
về phương diện này từ các quốc gia: Hoa Kỳ, Đức, Ba Lan, LB Nga, Thụy
Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Úc và Trung
Quốc10. Các bản Hiến pháp này được ban hành trong nhiều bối cảnh khác nhau:
có những bản Hiến pháp mang phong cách cổ điển như Hoa Kỳ, Thụy Điển, Úc
hoặc phong cách hiện đại như Đức, LB Nga, Thái Lan; có những bản Hiến pháp
của Nhà nước quân chủ như Thụy Điển, Nhật Bản hoặc Nhà nước cộng hịa như
Ba Lan, Singapore; có những bản Hiến pháp của các nước phát triển như Đức,
Hàn Quốc hoặc đang phát triển như Indonesia, Thái Lan… Vẫn biết rằng, mỗi
quốc gia nói chung, mỗi bản Hiến pháp nói riêng đều có những “hồn cảnh”
riêng mà việc khảo sát này khơng thể bao qt song qua đó, chúng ta phần nào
nhận diện được quan điểm lập hiến đương đại về vấn đề này.
1.2.1. Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1787
- Hiến pháp khởi đầu cho quy định về việc nghiêm cấm sự phủ nhận các
quyền công dân thơng qua việc liệt kê quyền hiến định. Ví dụ: Điều sửa đổi thứ
9 - Các quyền không được liệt kê: “Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp
không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân”.
- Hiến pháp cũng đặt ra hạn chế đối với quyền lập pháp của Quốc hội
trong việc quy định quyền cơng dân. Ví dụ: Điều sửa đổi thứ 1 - Tự do tín
ngưỡng, tự do ngơn luận và báo chí, quyền hội họp và kiến nghị: “Quốc hội sẽ
không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do
9

Xem thêm Mục 1.2.
Xin lưu ý: chúng tôi nghiên cứu các bản Hiến pháp này dựa trên bản tiếng Anh trên trang
(Trang tin về Hiến pháp thuộc University of Richmond - School of Law – Hoa
Kỳ); đồng thời, có đối chiếu với bản dịch tiếng Việt của một số học giả Việt Nam thuộc Văn phòng Quốc hội

Việt Nam và Trường Đại học Luật Hà Nội.
10

13


tín ngưỡng, tự do ngơn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và
kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình”
- Hiến pháp chỉ rõ trách nhiệm của Quốc hội trong việc“luật hóa” các
quyền hiến định. Ví dụ: Điều sửa đổi thứ 15 - Quyền bỏ phiếu của người Mỹ
gốc Phi: “Khoản 1. Quyền bầu cử của các công dân Hoa Kỳ sẽ không bị phủ
nhận hoặc hạn chế, dựa vào lý do chủng tộc, màu da hay tình trạng nơ lệ trước
đây. Khoản 2. Quốc hội sẽ có quyền triển khai điều khoản này bằng luật lệ
thích hợp.” hoặc Điều sửa đổi thứ 23 - Quyền bầu cử trong quận Columbia:
“Khoản 1. Các địa phương cấu thành nên các khu vực bầu cử chính quyền của
Hoa Kỳ sẽ được tổ chức theo thể thức mà Quốc hội quy định như sau: Số đại cử
tri bầu Tổng thống và Phó Tổng thống mà các địa phương có được bằng tổng
số thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ trong Quốc hội, nếu đó là một bang, nhưng nếu
số đại cử tri không nhiều hơn so với bang ít dân số nhất, thì họ sẽ được ghép
vào số đại cử tri do các bang bổ nhiệm, nhưng xuất phát từ mục đích của cuộc
bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, thì họ sẽ được coi là các đại cử tri do một
bang bổ nhiệm, và họ sẽ họp với nhau ở khu vực bầu cử và hoàn thành trách
nhiệm do điều 12 của Hiến pháp qui định. Khoản 2. Quốc hội có quyền đem lại
hiệu lực cho điều khoản này bằng luật lệ phù hợp”11.
1.2.2. Hiến pháp Liên bang Úc năm 1900
Hiến pháp khơng có phần riêng quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân nhưng thông qua việc quy định về thẩm quyền của Nghị viện
(phần V – chương I), chúng ta có thể thấy rằng: những quyền và nghĩa vụ cơ
bản của cơng dân cần phải được Nghị viện “luật hóa” như quyền đối với quốc
tịch, quyền tự do kinh doanh, quyền lao động, quyền trong hơn nhân và gia

đình (kết hôn, ly hôn, trợ cấp, nuôi dưỡng và giám hộ trẻ em, quyền của cha
mẹ), quyền trong tố tụng hình sự và dân sự, quyền tự do cư trú và đi lại, các
quyền mang tính phúc lợi xã hội (chăm sóc thai phụ, trẻ em, chăm sóc y tế, trợ
cấp cho thương binh, người già), quyền bí mật thư tín, quyền sở hữu trí tuệ,
nghĩa vụ nộp thuế, vấn đề chống phân biệt chủng tộc.

11

Xin tham khảo tại: (Trang thông tin của Đại sứ quán Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ tại Việt Nam).

14


1.2.3. Hiến pháp Indonesia năm 1945
- Hiến pháp xác định nguyên tắc quan trọng trong việc bảo vệ và ghi
nhận giá trị quyền con người: “Duy trì và bảo vệ quyền con người phù hợp với
những nguyên tắc của Nhà nước dân chủ và pháp quyền, thực hiện các quyền
con người căn bản được đảm bảo, điều chỉnh và ghi nhận trong các đạo luật và
các quy định khác” (khoản 5 điều 28I).
- Đối với những hạn chế trong việc thực thi các quyền và tự do của công
dân, Hiến pháp quy định: “Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mỗi
người đều có nghĩa vụ chấp nhận những hạn chế do luật định với mục đích duy
nhất là để đảm bảo việc công nhận và tôn trọng quyền và tự do của người khác
và để đáp ứng những yêu cầu hợp lý của xã hội dân chủ trên cơ sở có tính đến
giá trị đạo đức, tơn giáo, an ninh và trật tự công cộng” (khoản 2 điều 28J).
1.2.4. Hiến pháp Nhật Bản năm 1947
- Hiến pháp thường sử dụng cụm từ “theo quy định pháp luật” khi nói về
sự ghi nhận và đảm bảo pháp lý đối với quyền và nghĩa vụ của công dân 12 hoặc
chỉ tuyên bố về quyền mà không kèm theo sự ràng buộc pháp lý13.

- Đặc biệt, Hiến pháp chỉ đặt vấn đề “luật hóa” đối với quyền về hơn nhân
và gia đình: “Hơn nhân phải có sự tán thành của cả hai vợ chồng, phải tồn tại
dựa trên sự hợp tác, bình đẳng về quyền lợi giữa hai người. Dựa trên tinh thần
tơn trọng phẩm giá cá nhân, bình đẳng nam nữ, các đạo luật ban hành quy định
về việc lựa chọn vợ chồng, quyền tư hữu, di sản, lựa chọn nơi ở, li dị và mọi
vấn đề khác về hơn nhân, gia đình” (điều 24).
1.2.5. Hiến pháp Hàn Quốc năm 1948
Hiến pháp xác định hai nguyên tắc cơ bản: quyền và tự do của công dân
không chỉ được ghi nhận bằng con đường hiến định và chỉ có thể bị giới hạn
luật định mang tính pháp quyền tại điều 37: “(1) Các quyền và tự do của công
dân không thể bị bỏ qua với lý do chúng không được liệt kê trong Hiến pháp.
12

“Những điều kiện cần thiết để có quốc tịch Nhật Bản do pháp luật quy định” (điều 10) hay “Mọi
cơng dân khi bị thiệt hại vì bất kỳ hành vi bất hợp pháp của công chức đều có quyền u cầu Chính phủ bồi
thường theo quy định pháp luật” (điều 17).
13
“Tự do tư tưởng và ngôn luận không bị xâm phạm” (điều 19) hay “Tự do học thuật được đảm bảo”
(điều 23)

15


(2) Các quyền và tự do của công dân chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật khi
cần thiết cho an ninh quốc gia, duy trì pháp luật và trật tự hoặc vì lợi ích cơng
cộng. Ngay cả khi áp đặt các hạn chế như vậy, không được vi phạm các yếu tố
thiết yếu của các quyền và tự do”.
1.2.6. Hiến pháp CHLB Đức năm 1949
- Điều 79 khoản 3 Luật cơ bản14 đã vĩnh viễn hóa nền tảng của chế độ
dân chủ. Điều luật này chỉ rõ các quy định về nhân quyền tại Điều 1 và các

nguyên tắc nhà nước cộng hòa dân chủ pháp quyền liên bang tại Điều 20 là
khơng thể thay đổi. Hay nói cách khác, Điều khoản này đã vĩnh viễn hóa những
đặc trưng nền tảng về dân chủ, pháp quyền của nhà nước Đức, vĩnh viễn hóa
một chân lý: “Phẩm giá của con người là giá trị cao nhất và không thể bị xâm
phạm”15.
- Hiến pháp khẳng định hiệu lực trực tiếp của các quyền cơ bản; ví dụ: điều
1 – Bảo vệ nhân phẩm, sự ràng buộc của quyền lực nhà nước bởi các quyền cơ
bản nêu rõ: “Các quyền hạn cơ bản dưới đây ràng buộc các nhánh quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp với tính chất là quyền có hiệu lực trực tiếp”. Điều
19 khoản 4 quy định: “Nếu bất cứ ai bị các cơ quan công quyền xâm hại các
quyền cơ bản đã được nêu trong Luật cơ bản, đều có quyền khởi kiện trực
tiếp”. Sức mạnh thi hành của Luật cơ bản chỉ thực sự đi vào cuộc sống sau khi
Luật Tòa án Hiến pháp năm 1951 và quy định bổ sung chế định khiếu kiện Hiến
pháp của công dân tại Điều 93 khoản 1 số 4a Luật cơ bản năm 1969 có hiệu lực.
Từ đó đến nay, từng quyền cơ bản của công dân được bảo vệ, được giải thích và
làm sáng tỏ trong các phán quyết có hiệu lực pháp luật của Tịa án Hiến pháp
liên bang16.
- Hiến pháp xác định một số quyền cơ bản là tuyệt đối mà không thể bị hạn
chế bởi các văn bản pháp luật khác; ví dụ: điều 8 – Quyền tự do biểu tình: “(1)
Mọi cơng dân Đức đều có quyền biểu tình một cách hồ bình và khơng sử dụng
vũ khí mà khơng phụ thuộc vào việc cấp phép của nhà nước. (2) Trong trường

14

Người Đức gọi Hiến pháp là Luật cơ bản.
Nguyễn Minh Tuấn, Lịch sử lập hiến ở Đức, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1/2012.
16
Nguyễn Minh Tuấn, tlđd.
15


16


hợp biểu tình ngồi trời thì quyền này có thể bị giới hạn bởi đạo luật cụ thể
hoặc trên căn cứ của một đạo luật”.
- Những giới hạn (nếu có) về quyền hiến định phải do luật đặt ra (có thể
dựa vào một đạo luật riêng hoặc trên cơ sở một đạo luật) nhưng đều phải dựa
vào các nguyên tắc hiến định áp dụng đối với từng quyền đó. Thậm chí, Hiến
pháp Đức cịn nhấn mạnh đến u cầu về tính hợp hiến của các đạo luật này
trong khn khổ của Nhà nước pháp quyền17 hoặc “hướng dẫn” cho các đạo
luật việc xác định các giới hạn này18 hoặc nguyên tắc áp dụng các đạo luật đó19.
1.2.7. Hiến pháp Singapore năm 1963
Hiến pháp xác định một số giới hạn luật định về quyền cơ bản (ví dụ: Điều
9 - Quyền tự do cá nhân khẳng định: “Không ai bị tước đoạt tính mạng hoặc sự
tự do cá nhân trừ trường hợp theo luật định.”) và trách nhiệm của Nghị viện
trong việc “luật hóa” những hạn chế này20.

17

Điều 16 - Cấm tước quyền có quốc tịch; việc dẫn độ: (2) Khơng một cơng dân Đức nào bị dẫn độ ra
nước ngồi. Ngoại lệ dẫn độ sang nước thành viên trong Cộng đồng châu Âu hay đến một Tòa án quốc tế có thể
được thực hiện theo một đạo luật cụ thể, nếu như đạo luật đó phù hợp với các nguyên tắc nhà nước pháp
quyền.
18
Điều 17a - Giới hạn về các quyền cơ bản cụ thể trong lĩnh vực an ninh:
“(1) Các đạo luật về nghĩa vụ quân sự và lao động cơng ích có thể quy định các giới hạn cụ thể quyền cơ bản
của những người tham gia lực lượng vũ trang và lao động cơng ích trong thời gian phục vụ, như quyền được tự
do ngôn luận thể hiện bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh (Điều 5 khoản 1 câu 1), quyền biểu tình (Điều 8), và
quyền kiến nghị (Điều 17) trong phạm vi mà quyền này cho phép có thể đệ trình các kiến nghị tập thể.
(2) Các đạo luật, mà phục vụ lợi ích quốc phịng nhằm mục đích bảo vệ nhân dân, có thể quy định giới hạn các

quyền cơ bản như quyền tự do đi lại (Điều 11) và bất khả xâm phạm nơi ở (Điều 13).
19
Điều 19 - Giới hạn các quyền cơ bản:
“(1) Nếu một quyền cơ bản nào trong Luật cơ bản này bị giới hạn bởi một đạo luật hoặc trên cơ sở một đạo
luật nào cụ thể, thì đạo luật đó phải được áp dụng chung và không là ngoại lệ dành riêng cho một trường hợp
cá biệt nào. Ngồi ra, đạo luật đó phải trích dẫn rõ quyền cơ bản với đầy đủ thông tin về điều khoản của Luật
cơ bản này.
(2) Trong mọi trường hợp một quyền cơ bản không được tự mâu thuẫn với chính nội dung bản chất của quyền
đó...“
20
Điều 14 - Tự do ngôn luận, hội họp và lập hội:
“1. Theo các khoản (2) và (3):
(a) mỗi cơng dân Singapore có quyền tự do phát ngôn và thể hiện ý kiến;
(b) tất cả cơng dân Singapore đều có quyền hội họp một cách hồ bình và khơng có vũ khí;
(c) tất cả cơng dân Singapore đều có quyền thành lập các hội.
2. Nghị viện có thể ban hành luật quy định:
(a) những hạn chế đối với các quyền được qui định tại khoản (1) (a) khi thấy cần thiết hoặc để phù hợp
với lợi ích an ninh của Singapore hoặc của bất kỳ phần nào trong đó, phù hợp với các mối quan hệ hữu nghị
với các nước khác, trật tự công cộng hoặc đạo đức và những hạn chế để bảo vệ các đặc quyền của Nghị viện
hoặc để chống lại sự coi thường toà án, phỉ báng hay xúi giục bất kỳ hành vi phạm tội nào;
(b) những hạn chế đối với quyền được qui định tại khoản (1) (b) khi thấy cần thiết hoặc để phù hợp với
lợi ích an ninh của Singapore hoặc của bất kỳ phần nào trong đó hoặc trật tự cơng cộng; và

17


1.2.8. Hiến pháp Thụy Điển năm 197421
- Hiến pháp xác định các quyền tự do ngôn luận, quyền tự do thông tin,
quyền tự do hội họp, quyền tự do biểu tình, quyền tự do lập hội, quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo; quyền bất khả xâm phạm thân thể, chỗ ở; bí mật thư tín;

quyền tự do cá nhân và tự do đi lại; quyền về sự công khai tố tụng có thể bị hạn
chế trong phạm vi hiến định thông qua các đạo luật hoặc văn bản pháp quy do
Chính phủ ban hành (với sự ủy quyền trong luật) với những thủ tục hết sức chặt
chẽ. Những hạn chế này chỉ được áp dụng để đáp ứng những mục đích phù hợp
trong một xã hội dân chủ. Những hạn chế không bao giờ được vượt quá giới hạn
cần thiết trên cơ sở xem xét tới mục đích của chúng, chúng cũng không bao giờ
được thực thi tới mức độ gây ra mối đe doạ cho sự tự do hình thành quan điểm là
một trong những yếu tố nền tảng của chế độ dân chủ. Không được áp dụng bất kì
một hạn chế nào chỉ dựa trên cơ sở quan điểm chính trị, tơn giáo, văn hố hay
những quan điểm tương tự khác. (điều 12 chương 2 - Đạo luật về cơng cụ chính
quyền)
- Bên cạnh đó, Hiến pháp cịn đưa ra những yêu cầu khắt khe22 và khá chi
tiết về nội dung của các đạo luật của Quốc hội23, văn bản pháp quy của Chính
phủ24 nhằm chi tiết hóa các quyền và tự do cơ bản.
(c) những hạn chế đối với quyền được quy định tại khoản (1) (c) khi thấy cần thiết hoặc để phù hợp với
lợi ích an ninh của Singapore hoặc bất kỳ phần nào trong đó, trật tự cơng cộng hoặc đạo đức.
(3) Những hạn chế về quyền lập hội đã được quy định tại khoản (1) (c) cũng có thể được các đạo luật liên quan
đến lao động hay giáo dục quy định.”
21
Hiến pháp Thụy Điển gồm các văn bản: Đạo luật về công cụ chính quyền năm 1974, Đạo luật kế
truyền ngơi vua năm 1810, Đạo luật tự do báo chí năm 1949 và Luật cơ bản về tự do ngôn luận năm 1991.
22
Điều 1 – Chương 8 – Đạo luật về công cụ chính quyền: “Theo các quy định của Chương 2 liên quan
tới các quyền và quyền tự do cơ bản, các quy định với những nội dung cụ thể không thể được ban hành, hoặc
chỉ được ban hành dưới dạng các đạo luật và trong một số trường hợp các dự thảo luật phải được soạn thảo
theo thủ tục riêng biệt.”
23
Điều 3 – Chương 8 - Đạo luật về công cụ chính quyền: “Các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa
các chủ thể tư và các thiết chế công trong đó liên quan tới nghĩa vụ của các chủ thể tư, hay điều chỉnh các điều
kiện kinh tế hay nhân thân của các chủ thể tư, đều phải được quy định trong luật. Những quy định này bao

gồm các quy định liên quan tới các hành vi phạm tội và hậu quả pháp lí của các hành vi đó, các quy định liên
quan tới nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước và những điều khoản liên quan tới trưng dụng và những biện pháp sử
dụng tài sản bắt buộc khác.”
Điều 5 – Chương 8 - Đạo luật về công cụ chính quyền: “Các nguyên tắc điều chỉnh sự thay đổi trong
cách thức phân chia Vương quốc thành các khu vực chính quyền địa phương và các nguyên tắc điều chỉnh tổ
chức và thủ tục hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương và thuế địa phương được quy định trong
luật. Các quy định liên quan tới thẩm quyền của các cơ quan chính quyền địa phương ở các lĩnh vực cũng như
trách nhiệm của chúng được quy định trong luật”.
24
Điều 7 – Chương 8 - Đạo luật về cơng cụ chính quyền: “Với sự uỷ quyền trong luật, Chính phủ, trên
cơ sở khơng được hạn chế các quy định của Điều 3 hoặc 5 Chương 8, được ban hành, thông qua công cụ

18


- Ngồi ra, Đạo luật tự do báo chí năm 1949 và Luật cơ bản về tự do ngôn
luận năm 1991 cịn có chương về các điều khoản chuyển tiếp nhằm hướng dẫn
cụ thể về việc áp dụng các quy phạm hiến định.
1.2.9. Hiến pháp Trung Quốc năm 1982
- Hiến pháp xác định nguyên tắc thể hiện quyền và nghĩa vụ công dân tại
điều 33: “Tất cả quyền lợi của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định,
đồng thời Hiến pháp và pháp luật quy định nghĩa vụ của công dân”.
- Một số hạn chế về quyền công dân sẽ được thể hiện trong các văn bản
pháp luật nói chung, mà khơng hề nhấn mạnh vai trị cá biệt của các đạo luật; ví
dụ: điều 40 quy định: “Quyền tự do thư tín và bảo mật thư tín của cơng dân
nước Cộng hồ nhân dân Trung Hoa được pháp luật bảo vệ. Trừ trường hợp vì
lý do an ninh quốc gia hoặc do yêu cầu của việc bắt giữ tội phạm hình sự, do cơ
quan cơng an hoặc cơ quan kiểm sát tiến hành kiểm tra căn cứ theo trình tự quy
định của pháp luật, nghiêm cấm bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào, vì bất cứ lý
do gì xâm phạm quyền tự do thư tín hoặc quyền bảo mật thư tín của cơng dân”.

1.2.10. Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993
- Cùng với việc khẳng định tại điều 2: “Con người, các quyền và tự do của
con người là những giá trị cao nhất. Việc thừa nhận, tuân thủ và bảo vệ các
quyền và tự do của con người và công dân là bổn phận của nhà nước”, Hiến
pháp đã đặt ra yêu cầu rất cao đối với tính minh bạch của các văn bản quy phạm
pháp quy, các quy định điều chỉnh các vấn đề không phải là các vấn đề về thuế với điều kiện các quy định đó
liên quan tới một trong số những vấn đề sau:
Việc bảo vệ mạng sống, sức khoẻ, hay an toàn cá nhân;
Việc tạm trú trong lãnh thổ Vương quốc của cơng dân nước ngồi;
Việc nhập khẩu hay xuất khẩu hàng hoá, tiền tệ hoặc các tài sản khác, việc sản xuất, vận tải và thơng
tin, cấp tín dụng, các hoạt động doanh nghiệp, việc cấp phát phân phối, tái sử dụng và tái chế nguyên liệu, thiết
kế cơng trình xây dựng, cơng trình lắp đặt và các khu vực định cư của con người, hay nghĩa vụ xin giấy phép
đối với các biện pháp ảnh hưởng tới cơng trình xây dựng và cơng trình lắp đặt;
Mơi trường văn hoá, săn bắn, đánh bắt cá, bảo vệ động vật, hay bảo tồn tự nhiên và bảo vệ môi trường;
Việc lưu chuyển giao thông hay trật tự công cộng;
Giáo dục và đào tạo;
Việc cấm tiết lộ những vấn đề mà một người biết được trong quá trình phục vụ cơng cộng hoặc thực hiện
nhiệm vụ chính thức;
Việc bảo vệ nhân phẩm trong q trình xử lí thơng tin cá nhân.
Thẩm quyền liên quan tới những vấn đề ở đoạn một không bao gồm quyền ban hành những quy định áp
dụng chế tài pháp lí đối với những hành vi hình sự vượt q mức tiền phạt. Thơng qua những đạo luật quy định
về thẩm quyền đề cập ở đoạn một, Nghị viện có thể quy định những hậu quả pháp lí khác ngồi tiền phạt đối
với những hành vi vi phạm các quy định của Chính phủ.”

19


pháp luật về địa vị pháp lý của cá nhân; theo đó, “bất kỳ văn bản quy phạm
pháp luật nào liên quan đến các quyền, tự do và nghĩa vụ của con người và
công dân, nếu không được đăng tải chính thức sẽ khơng được áp dụng” (khoản

3, điều 15).
- Hiến pháp khẳng định tính hiệu lực trực tiếp của quyền và tự do hiến
định: “Các quyền và tự do của con người và cơng dân có hiệu lực trực tiếp.
Các quyền và tự do xác định ý nghĩa, nội dung và việc áp dụng các đạo luật,
hoạt động của lập pháp và hành pháp, chính quyền tự quản địa phương, và
được đảm bảo bởi toà án” (điều 18).
- Hiến pháp xác định nguyên tắc về giá trị hiến định cũng như luật định đối
với các quyền và tự do của công dân tại khoản điều 55: “1. Việc liệt kê các
quyền và tự do cơ bản trong Hiến pháp Liên bang Nga khơng có nghĩa là phủ
nhận hoặc xem nhẹ các quyền và tự do khác của con người và công dân đã
được thừa nhận rộng rãi. 2. Ở Liên bang Nga không được ban hành những đạo
luật tước bỏ hoặc xem nhẹ các quyền và tự do của con người và công dân”.
- Nh ng hạn chế hiến định về các quyền và tự do cá nhân và công dân
Các chủ thể phải sử dụng các quyền và tự do trong phạm vi của những
giới hạn hiến định. Chỉ có các đạo luật liên bang mới quy định những hạn chế
này nhằm mục đích bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của chế độ Hiến pháp, đạo
đức, nhân phẩm, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác,
đảm bảo phòng thủ đất nước và an ninh quốc gia (khoản 3 điều 55). Nhà nước
không được tùy tiện ban hành các đạo luật hủy bỏ hoặc hạn chế các quyền và tự
do của cá nhân. Những hạn chế hiến định về các quyền và tự do có thể phân
loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Xin dẫn chứng cách phân loại theo thời
gian mà các hạn chế ấy có hiệu lực:
 Hạn chế cố định: có hiệu lực mọi lúc, hạn chế loại này được quy định rõ
trong bản văn Hiến pháp năm 1993; ví dụ: khoản 2 điều 34 Hiến pháp
quy định: khơng cho phép tiến hành các hoạt động kinh tế có khuynh
hướng độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh;
 Hạn chế tạm thời: có hiệu lực trong một thời điểm nhất định, hạn chế loại
này được quy định trong các đạo luật Hiến pháp Liên bang; ví dụ: đạo
20



luật Hiến pháp về tình trạng đặc biệt hoặc những hạn chế liên quan đến
việc cấm hội họp, diễu hành, biểu tình, những nghĩa vụ kèm theo trong
lĩnh vực tự do in ấn và hoạt động của các phương tiện thơng tin đại chúng
khác, việc đình chỉ hoạt động của các đảng chính trị, việc ban hành lệnh
giới nghiêm và những hạn chế khác…25
Trong điều kiện tình trạng khẩn cấp, để bảo đảm an tồn cho cơng dân và
bảo vệ chế độ hiến pháp, theo một đạo luật hiến pháp liên bang, có thể thiết lập
những giới hạn nhất định đối với các quyền và tự do với điều kiện phải chỉ rõ
phạm vi và thời hạn của những giới hạn đó. Tình trạng khẩn cấp có thể được
ban bố trên toàn bộ lãnh thổ Liên bang Nga hoặc một phần lãnh thổ nhất định
khi xuất hiện bối cảnh và theo trình tự được quy định trong đạo luật hiến pháp
liên bang. Thậm chí, Hiến pháp cũng xác định một số quyền và tự do không thể
bị hạn chế (ngay cả) trong tình trạng khẩn cấp như quyền được sống; quyền
được bảo vệ phẩm giá; quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư, bí mật
gia đình và bí mật cá nhân, quyền bảo vệ danh dự và uy tín của mình; tự do tín
ngưỡng, tơn giáo; tự do kinh doanh và hoạt động kinh tế hợp pháp; các quyền
và tự do tại tòa án như quyền được xét xử, quyền được trợ giúp pháp lý, quyền
được suy đoán vô tội... (điều 56).
1.2.11. Hiến pháp Ba Lan năm 1997
- Khoản 2, điều 8 khẳng định nguyên tắc “hiệu lực trực tiếp” của Hiến
pháp tại: “Các quy định của Hiến pháp sẽ được áp dụng một cách trực tiếp, trừ
trường hợp Hiến pháp có quy định khác”.
- Hiến pháp khẳng định cơ sở luật định nhằm đảm bảo một số quyền cơ
bản; ví dụ: “Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở được bảo đảm. Bất kỳ việc
khám xét chỗ ở, nhà hoặc xe cộ chỉ có thể được thực hiện trong những trường
hợp và theo cách thức do luật định” (điều 50) hoặc “1. Mọi người có quyền
được hưởng điều kiện làm việc an toàn và hợp vệ sinh. Các phương pháp thực
thi quyền này và các nghĩa vụ của người sử dụng lao động sẽ do luật định. 2.


25

Dẫn theo: Nguyễn Đăng Dung – Trương Đắc Linh – Nguyễn Mạnh Hùng – Lưu Đức Quang – Nguyễn
Văn Trí (2011), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp – Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam (Sách chuyên khảo), Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 192-195.

21


Người lao động có quyền được nghỉ làm việc vào những ngày luật quy định và
những ngày nghỉ nguyên lương hàng năm; số giờ làm việc tối đa sẽ do luật
định” (điều 66).
- Một trong những nguyên tắc chung về vấn đề này được thể hiện tại
khoản 3, điều 31 là: “Bất kỳ sự hạn chế nào đối với việc thực hiện tự do và các
quyền hiến định chỉ có thể được quy định trong luật, và chỉ trong trường hợp
cần thiết ở một nhà nước dân chủ vì mục đích bảo vệ an ninh hoặc trật tự cơng
cộng, hoặc để bảo vệ môi trường tự nhiên, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc
tự do và các quyền của những người khác. Những hạn chế này không được vi
phạm bản chất của tự do và các quyền.”
- Nhằm đảm bảo tự do và các quyền được thực thi lành mạnh, Hiến pháp
khẳng sự hạn chế (nếu có) chỉ có thể do luật định; ví dụ: “Quyền bất khả xâm
phạm và an toàn về riêng tư được bảo đảm đối với tất cả mọi người. Việc tước
đoạt hoặc hạn chế tự do chỉ có thể được áp đặt theo những nguyên tắc và thủ
tục do luật định” (khoản 1, điều 41); đồng thời xác định đối tượng quyền hoặc
một phần quyền có thể bị hạn chế; ví dụ: “Các quyền quy định tại các khoản 4
và 5 Điều 65, Điều 66, Điều 69, Điều 71 và các điều từ Điều 74 đến Điều 76, có
thể bị hạn chế bởi quy định của luật” (điều 81).
- Hiến pháp cũng đặt ra những giới hạn về nội dung đối với chính các đạo
luật về quyền và tự do; ví dụ: “Khơng có luật nào quy định những hạn chế liên
quan đến tội phạm chiến tranh và tội phạm chống lại loài người” (điều 43)

hoặc “Việc kiểm duyệt mang tính phịng ngừa đối với các phương tiện thông tin
xã hội và cấp phép hoạt động báo chí bị nghiêm cấm. Luật có thể quy định việc
cấp phép cho việc vận hành trạm phát thanh hoặc truyền hình” (khoản 2, điều
54) hoặc “Phạm vi của quyền tự do thành lập tổ chức cơng đồn và các tổ chức
của người sử dụng lao động chỉ có thể bị hạn chế bởi luật khi phù hợp với các
điều ước quốc tế mà Cộng hòa Ba Lan là thành viên” (khoản 4, điều 59) hoặc
“Quyền sở hữu chỉ có thể bị hạn chế bằng các biện pháp luật định và chỉ ở mức
độ không vi phạm đến quyền này về thực chất” (khoản 3, điều 64).
1.2.12. Hiến pháp Thái Lan năm 2007

22


- Nguyên tắc hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp đối với việc thực thi các
quyền và tự do được thể hiện thông qua quyền khởi kiện của cá nhân trước tòa
án nhằm buộc Nhà nước tuân thủ các điều khoản trong Chương III – Các quyền
và tự do của người Thái (điều 28).
- Hiến pháp đã xác định nghĩa vụ “luật hóa” nhiều quyền và nghĩa vụ
hiến định như quy định tại điều 41: “Quyền thừa kế được bảo vệ. Quyền thừa
kế của cá nhân phải theo các quy định của luật” hay điều 73: “Mỗi người đều
có nghĩa vụ phục vụ trong lực lượng vũ trang, tham gia ngăn chặn hoặc giảm
bớt những mối nguy hiểm cho cộng đồng, đóng các loại thuế và lệ phí, trợ giúp
dịch vụ cơng ích, tiếp nhận giáo dục và đào tạo, giữ gìn, bảo vệ và phát huy các
giá trị nghệ thuật, văn hóa quốc gia và tri thức bản địa, bảo tồn các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và môi trường theo quy định của luật”.
- Hiến pháp đặt ra nguyên tắc chung của việc hạn chế các quyền và tự do
hiến định trong các đạo luật và văn bản dưới luật như sau: “Sự hạn chế các
quyền và tự do được công nhận bởi Hiến pháp không thể được áp đặt đối với
một cá nhân trừ khi nó được thực hiện bởi các điều khoản của đạo luật được
ban hành riêng biệt và để phục vụ mục đích được quy định bởi Hiến pháp này

và chỉ được thực hiện trong phạm vi cần thiết và với điều kiện rằng sự hạn chế
đó khơng được ảnh hưởng tới những nội dung cơ bản của quyền hay tự do đó.
Các đạo luật này phải được áp dụng chung và không được nhắm tới áp dụng
cho bất cứ trường hợp hay cá nhân cụ thể nào; với điều kiện là điều khoản của
Hiến pháp cho phép việc ban hành đó phải được viện dẫn trong đạo luật. Quy
định trên cũng được áp dụng đối với văn bản dưới luật được ban hành theo các
quy định trong luật” (điều 29).
- Cụ thể hơn, Hiến pháp cịn xác định điều kiện “luật hóa” những giới
hạn này đối với một số quyền cụ thể như quyền tự do hội họp trong hịa bình và
phi vũ trang. “Sự hạn chế của quyền tự do này không được đặt ra trừ khi có
đạo luật được ban hành đặc biệt đối với trường hợp hội họp công cộng và đối
với việc bảo đảm sự thuận lợi của công chúng trong việc sử dụng các địa điểm
công cộng hay để duy trì trật tự cơng cộng trong thời gian đất nước đang trong

23


tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp hoặc khi luật thời chiến được cơng
bố” (điều 63).
- Bên cạnh đó, đối với một số quyền khác như quyền tự do đưa tin và thể
hiện quan điểm của nhà báo, Hiến pháp cũng nêu rõ là việc giới hạn chỉ mang
tính hiến định mà không thuộc phạm vi luật định. Điều 46 quy định: “Những
nhân viên chính thức hay người làm th của các tịa báo, đài phát thanh, đài
truyền hình tư nhân hoặc doanh nghiệp truyền thông đại chúng khác được
hưởng các quyền tự do đưa tin và thể hiện quan điểm của họ theo những giới
hạn hiến định mà không cần sự giao quyền của bất kỳ cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước hoặc chủ sở hữu các doanh nghiệp này miễn là điều đó khơng
đi ngược lại đạo đức nghề nghiệp và họ có quyền thành lập các tổ chức bảo vệ
quyền, tự do, sự công bằng và hình thành các thiết chế tự quản trong nội bộ cơ
quan”.

- Đặc biệt, Hiến pháp dành một điều trong phần cuối – “Các điều khoản
chuyển tiếp” để xác định trách nhiệm của Chính phủ mới trong việc tham gia
quá trình “luật hóa” các quyền và tự do hiến định: “Trong vịng 1 năm kể từ
ngày Chính phủ mới tun bố chính sách trước Quốc hội, Chính phủ có trách
nhiệm hoàn tất việc chuẩn bị hoặc sửa đổi các luật quy định chi tiết về vấn đề
thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do trong lĩnh vực thi hành công lý; quyền
được bảo đảm phúc lợi và an tồn tại cơng sở; các quyền tự do ngơn luận và tự
do báo chí; các quyền và tự do trong giáo dục; các quyền được hưởng dịch vụ
chăm sóc y tế và phúc lợi từ Nhà nước; các quyền liên quan đến thông tin,
khiếu nại và luật về thông tin cá nhân; các quyền của cộng đồng, luật về thành
lập tổ chức độc lập nhằm bảo vệ người tiêu dùng” (điều 303).
* Nhìn chung, tuy cách thức hiến định khác nhau song về mặt nội dung,
các Hiến pháp tiến bộ trên thế giới đều thừa nhận trách nhiệm tuyệt đối của Nhà
nước nói chung, Nghị viện hay Quốc hội nói riêng trong việc “luật hóa” các
quyền và nghĩa vụ hiến định của công dân; đồng thời, tôn trọng những giới hạn
hiến định mang tính pháp quyền trong việc xây dựng địa vị pháp lý của công
dân cũng như tôn trong quyền con người. Thay cho lời kết ở phần này, chúng

24


tôi xin minh họa bằng bảng so sánh nội dung của 12 bản Hiến pháp nêu trên về
quyền và tự do cơ bản sau đây:

Tiêu chí
--------------Quốc gia

Hiệu lực
trực tiếp


Trách
Hạn chế
nhiệm “luật
hiến
định
hóa”

Hạn chế
luật
định

Điều khoản
chuyển tiếp

Hoa Kỳ









Khơng

Đức










Khơng

Ba Lan









Khơng

LB Nga










Khơng

Thụy Điển











Hàn Quốc

Khơng







Khơng

Nhật Bản

Khơng








Khơng

Singapore

Khơng







Khơng

Indonesia










Khơng

Thái Lan











Khơng rõ







Khơng

Khơng

Khơng rõ






Khơng

Úc
Trung Quốc

25


×