Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

DAN BAI VA NHUNG BAI VAN HAY LOP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.04 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>DÀN BÀI VÀ NHỮNG BÀI VĂN HAY</b>


<i><b>Đề 1: Giới thiệu cây bút bi.</b></i>


<i><b>DÀN Ý CHI TIẾT</b></i>
<i><b>A.Mở bài</b></i>:


Giới thiệu khái quát về cây bút bi bằng hình thức tự thuật.(Gia đình nhà bút
chúng tơi ln tự hào về lịch sử và sự nghiệp của mình. Tơi là cây bút bi tuy ra đời
muộn mằn nhưng tơi nhanh chóng sinh sơi nấy nở và chiếm được cảm tình của thế
giớ lồi người.)


<i><b>B.Thân bài</b></i>: (Đóng vai cây bút bi thuật lại cuộc đời sự nghiệp của cây bút bi)
- Giới thiệu qua về lịch sự của họ hàng nhà bút: (Nói về lịch sử của họ hàng
nhà bút thì tơi e khơng có đủ thời gian và giấy bút để kể và ghi nhận nhưng với các
bạn học sinh thì tôi sẽ kể một cách khái quát thôi nhé ! Để giúp các bạn hiểu về họ
hàng chúng tôi, tôi xin kể cho các bạn nghe như sau: Họ hàng chúng tơi ra đời
trước khi có chữ viết như các bạn biết trong truyện cổ tích “Cây bút thần của Mã
Lương ” mà chúng ta đã học ở lớp 6 ấy .Các bạn cịn nhớ Mã Lương trước khi có
cây bút thần mã Lương đã dùng gì để vẽ khơng đó là ngón tay, que củi phải
khơng? Vậy thì ngày xưa loài người đã dùng cây bút đầu tiên cũng là cây bút bằng
tay tre vót nhọn để viết lên tre trúc...Dần quá trình xã hội phát triển cây bút lông ra
đời, rồi cây bút chấm mực bằng kim loại, lại được cải tiến thành cây bút máy
không phải chấm mực như các bạn biết đấy. Cũng như mọi sáng kiến khoa học
khác cây bút máy tuy không phải chấm mực nhưng vẫn phải có lọ mực mang theo
rất bất lợi cho những người đi công tác xa như nhà báo...chẳng hạn; thế là tôi ra đời
đấy các bạn ạ!)


-Giới thiệu qua về sự ra đời của cây bút bị (Vào đầu thế kỉ XIX một nhà báo
người Hung - ga - ri tên là Bic-Zô ông là nhà báo nên thường phải đi công tác xa
nhà và đi nhiều nơi . Tình cờ một lần ơng đánh rơi quả bóng vào bể nước, ơng vớt
lên và vất lên bờ quả bóng xoay trịn và lăn dài để lại một vệt nước trên mặt đất thế


là ông nghĩ ngay ra việc chế tạo ra chiếc bút đó là tơi đấy các bạn ạ!)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

người đã sản xuất ra rất nhiều ống đựng mực gọi là ngòi bút để thay khi viết hết
mực. Nói là đơn giản nhưng trước khi tôi ra đời cũng qua rất nhiều công đoạn,
công việc đầu tiên là người hoạ sĩ vẽ mẫu trên giấy giao cho ban dự án duyệt sau
đó mới được đưa vào nhà máy sản xuất. Việc sản xuất ra tôi cũng được chia làm
nhiều công đoạn: Công đoạn sản xuất dây chuyền khép kín từ sản xuất vỏ bút cài
bút đến khâu đóng gói để đưa đi tiêu thụ rất hiện đại , nên gia đình tơi ngày một
càng đông đúng và cũng đa dang màu sắc khác nhau theo thị hiếu của con người.)


- Giới thiệu sự nghiệp của cây bút (Tôi cũng như các anh chị bút mực, nhờ
có chúng tơi mà từ các cậu ấm cơ chiêu, đến kĩ sư, bác sĩ, người nông dân, người
buôn bán nhỏ, tư thương giầu có, giáo sư, nhà khoa học đều phải dùng tôi để ghi
chép kiến thức hay tính tốn, sáng tác những tác phẩm nghệ thuật, những bản
nhạc...Tôi luôn là người bạn của con người, và được con người nâng niu, với tơi
trong tay lồi người đã tạo lên những tác phẩm nổi tiếng về âm nhạc, về văn học.
Cịn với những cơ cậu học trị tơi là người bạn thân không thể thiêú được mỗi khi
họ đến trường học văn hoá, làm bài tập ở nhà, nhờ tôi mà con người mới ghi nhận
được tri thức mà họ phát minh ra để lưu truyền, chắc các bạn học sinh, sinh viên
khi cầm trong tay tấm bằng tốt nghiệp cũng đều nhớ đến tôi phải không?...Và trước
khi thời đại thơng tin điện thoại bùng nổ tơi có cơng lớn trong sự vun đắp tình u
của những đơi un ương đấy. Tình cảm của con người, được tơi ghi nhận, khoa
học của con người được tôi thể hiện. Và đặc biệt công ty sản xuất ra tôi đem lại lợi
nhuận hàng tỷ đồng...Tôi cũng lợi hại đấy chứ?)


<i><b>C.Kết bài</b></i>: Suy nghĩ về hiện tại và tương lai của mình (Ngày nay với sự bùng
nổ của cơng nghệ thơng tin, con người dùng nhiều đến máy tính, song tơi vẫn là
người bạn thuỷ chung của họ, tôi tin rằng tôi mãi mãi là người bạn không thể thiếu
được đối với các bạn học sinh, sinh viên khi họ học kiến thức, mãi là người bạn
trung thực để cô giáo thầy giáo ghi điểm cho học sinh yêu quý của mình. Các bạn


đừng bao giờ qn tơi đấy nhé.)


<i><b>ĐỀ 2: Giới thiệu về cây lúa nước Việt Nam.</b></i>


Bài làm :


Em cịn nhớ trong bài thơ nào đó ở chương trình cấp tiểu học một câu thơ:
Việt Nam đất nước ta ơi,


Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn


Lời thơ quả không sai, lịch sử Việt Nam đã chứng minh Việt Nam là cái nôi của
nền văn minh lúa nước. Đất nước ta khởi nghiệp là nghề trồng lúa mà lại, bên
những bản làng xóm thơn, những triền sơng, con suối những cánh đồng xanh thẳm
trải dài tận chân trời như dấu hiệu cho du khách nhận ra đất nước chúng ta- một đất
nước có nghề nơng với sự gắn bó của con người cùng cây lúa nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

lưng ong trong bộ đầm mầu xanh khuyến rũ. Rồi dưới bàn tay khéo léo nhẹ nhàng
người mẹ, người bà, người chị thoăn thoắt cắm xuống bùn sâu mầu mỡ. Người
nông dân ngày đêm chăm chút cho cây lúa lớn nhanh và khoẻ mạnh, khơng phụ
lịng người chăm sóc cây lúa phát triển rất nhanh thành những ruộng lúa mênh
mông, bát ngát, bờ nối bờ, thăm thẳm. Chẳng mấy chốc, ba, bốn tháng trôi qua từ
cây mạ non đã trở thành cánh đồng lúa màu vàng như thảm lụa, báo hiệu mùa bội
thu.


Lúa phát triển theo ba giai đoạn chính: Giai đoạn mạ non, mảmh mai yếu ớt
như em bé sơ sinh run rẩy trước nắng mai hay gió bão lạnh lẽo cũng như đe doạ
của những cơn trùng gây hại. Dưới bàn tay cần cù và tình thương yêu của người
nông dân cây mạ cũng trải qua được mùa đông giá rét của vụ đông xuân. nắng ửng
hồng, bà già mùa đông cũng mệt mỏi đi nghỉ nhường chỗ cho chị mùa xuân ấm ạp


trở về. Chỉ chờ có thế cây mạ xanh non trở lại, cây mạ lại được những bà mẹ nhổ
lên đem ra ruộng cấy . Họ thi nhau cấy lúa thẳng hàng với lời ca và cũng là lời
nhắc nhở nhau cấy đúng kĩ thuật để cây lúa cho năng xuất cao “Ngửa tay cấy lúa
thẳng hàng, vừa hàng sông, đông hàng con, trịn cây lúa, nó múa nó lên”. Lúa cứ
thế mà lớn lên dưới bàn tay chăm sóc của người nơng dân. Nó sinh sơi nảy nở
thành những khóm lúa to chật đất, lúa rì rào trong gió như kể chuyện ngày xưa
lang Liêu cấy lúa lấy hạt gạo làm bánh chưng bánh giầy trong ngày lễ tiên vương.
Những lá lúa như lưới lề nhưng yểu điệu duyên dáng như hàng nghìn cánh tay đùa
giớn với gió tạo thành những đợt sóng lúa nhấp nhơ dưới nắng chiều vàng óng.
Với câu ca của người nông dân khuyên nhủ nhau “ Nhất nước, nhì phân, tam cần,
tứ giống”, họ đã chăm sóc cho cây lúa phát triển, khơng phụ lịng dân, cây lúa ba
tháng mười ngày sau khi cấy đã trổ bông rồi làm mẩy chín vàng cho những hạt gạo
trắng ngần ni sống con người.


Cây lúa nước thích nghi với nhiều loại đất: đất cát pha, đất phèn, đất thịt, đất
mỡ gà ...cũng giống người nông dân cây lúa cần cù chắt lọc tinh tuý từ đất mẹ mà
lớn lên trỏ thành cây lương thực chủ lực của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam..
Cây lúa ở Việt Nam được người nơng dân canh tác hai vụ chính là lúa chiêm (từ
tháng giêng đến tháng 4, tháng 5) và lúa mùa (từ tháng 6 đến tháng 9, tháng 10)âm
lịch. Cây lúa cũng có rất nhiều loại, nhưng có hai loại khác biệt là: lúa tẻ, và lúa
nếp. Lúa tẻ không thể thiếu được trong bữa cơm của con người Việt Nam từ Bắc
đến Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ dân tộc kinh đến dân tộc tiểu số lúa vẫn
là cây lương thực chính, gạo lấy từ cây lùa là thực đơn số 1 trong bữa cơm của
người Việt Nam. Lúa lếp ngoài việc làm lương thực hạt gạo nếp to trịn thơm lừng
người nơng dân cịn đem chế biến thành các lơại bánh như : Bánh cốm hay cịn gọi
là bánh hạnh phúc làm từ hạt thóc nếp khơng thể thiếu trong lễ ăn hỏi của chủ rể
trong ngày lễ đính hơn, bánh chưng bánh giầy trong ngày tết, thổi xôi trong mâm
cỗ cúng gia tiên. Cứ như vậy cây lúa cùng với người nơng dân gắn bó bao đời nay.
Cuộc sống của người Việt Nam cũng như người châu á mãi mãi đồng hành với cây
lúa.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>Đề 3: Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam.</b></i>
<i><b>Dàn bài:</b></i>


<i><b>A.Mở bài</b></i>:


- Giới thiệu chiếc nón lá Việt Nam (Chiếc nón lá Việt Nam là một trong
những vật dụng để che nắng che mưa duyên dáng và tiện lợi trở thành vật làm
duyên đáng yêu cho những cô thiếu nữ ngày xưa, nó gắn bó với con người Việt
Nam ta.)


<i><b> B. Thân bài</b></i>: (thuyết minh về chiếc nón lá)


- Hồn cảnh ra đời của chiếc nón lá: (có lẽ từ ngàn xưa, với cái nắng chói
trang của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều tổ tiên ta đã biết lấy lá
kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu để che nắng che mưa.dần dần nó được
cải tiến thành những chiếc nón có hình dạng khác nhau.)


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

thơn nữ nở nụ cười tươi sau vành nón ôm bó lúa trên tay trở thành bức tranh cổ
động ngày mùa thắng lợi được vẻ khắp các thơn xóm và trên biển quảng cáo ở
thành thị.)


- Tác dụng của chiếc nón lá:(chiếc nón có nhiều loại, ngày xưa trong triều
đình hình ảnh anh lính qn cơ đội nón dấu, chiếc nón nhỏ vành chỉ che hết cái
đầu, hình ảnh đó đã đi vào thơ ca đó sao :


“Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài...”


Hình ảnh đó được khắc rất rõ trong cỗ bài tam cúc mà các bạn vẫn chơi đấy.


Còn ai đến vùng quê Kinh bắc nghe nhưng cô gái nơi đây hát những nàn điệu dân
ca quan họ hẳn không thể quên chiếc nón quai thao rộng vành một loại nón cổ làm
bằng lá già to gấp hai nón thường và trơng như cái thúng vì vậy dân gian thường
gọi là nón thúng quai thao. Ta cịn nhớ hình ảnh người nghệ sĩ hát quan họ với con
mắt lá dăm liếc dài sắc nhọn tình tứ cùng nụ cười duyện ẩn dấu sau vành nón quai
thao đã làm nao lịng bao khán giả và du khách nước ngồi. Nón quai thao trở
thành điểm nhớ của quê hương quan họ thanh lịch từ bao đời nay...


Không chỉ làm vật che nắng che mưa, chiếc nón lá Việt Nam tự nhiên đã đi
vào huyền thoại là một nét đẹp văn hoá, mang cái tâm hồn quê hương dân tộc, gợi
cảm hứng cho thi ca: “Nón bài thơ, em đội nón bài thơ xứ nghệ...”Chiếc nón lá
chiếc nón bài thơ mảnh mai thanh thốt nhẹ nhàng như giọng nói ngọt ngào của
các cơ gái xứ Huế thân thương đã trở thành dụng cụ biểu diễn nghệ thuật độc đáo,
mang phong cách dân tộc đậm đà.)


<i><b>C. Kết bài</b></i>: suy nghĩ về chiếc nón lá Việt Nam.( Nón lá xưa được sản xuất ở
nhiều nơi như Hà Tây, Bắc Ninh, Quảng Bình ,Nam Định Hải Dương...Nay cuộc
sống thời hiện đại văn hoá phương Tây tràn vào nước ta có rất nhiều nhà máy sản
xuất ra biết bao mẫu mũ, ô, dù xinh đẹp và lộng lẫy, nhưng trên khắp các nẻo
đường nông thôn đến thành thi, hình ảnh chiếc nón lá vẫn xuất hiện, chứng tỏ sự
trường tồn của nó cùng thời gian, cả về giá tri sử dụng lẫn nét đẹp văn hoá thuần
phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam.)


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Bài làm</b>


Ngày 22-12 năm nào cũng vậy ông tôi cũng được mời đi dự lễ kỉ niệm ngày
thành lập quân đội. Nam nay cũng vậy, nhưng không phải ở uỷ ban nhân dân xã
mà là ở viện bảo tàng quân đội ( Ơng tơi có một người bạn cùng binh chủng hiện
làm giám đốc viện bảo tàng mà) ở Hà Nội vì vậy mà tơi địi đi kì được. Sau một
lúc vịi vĩnh tơi cũng được ơng cho đi.Thế là ngày 22-12 tơi đã có một chuyến đi


về thủ đơ, thăm viện bảo tàng quân đội và đã có cuộc gặp gỡ đầy thú vị và ấn
tượng. Các bạn có biết đó là cuộc gặp gỡ nào khơng? Bật mí nhé tôi đã gặp người
chiễn sĩ lái xe của tiểu đội xe năm xưa trên tuyến đường Trường Trường Sơn khói
lửa năm xưa đấy.


Ngày 22-12 đúng như lời hẹn trước của bố tôi chú lái xe đến thật đúng giờ.
Đúng 6g 30 phút sáng ông cháu tôi chào tạm biệt cả nhà rồi bước lên ô tô. Làng
quê lùi lại phía sau nhường chỗ cho phố phường sầm uất hiện ra. Chẳng mấy chốc
chiếc xe đã đỗ tại cửa Bảo tàng qn đội nhân dân Việt Nam. Ơng tơi dắt tay tôi
bước vào cổng. Trước mắt tôi hiện ra bao nhiêu những phương tiện chiến đấu: nào
ô tô. Xe tăng. Máy bay, đại bác, pháo cao xạ, tên lửa... Tất cả được sắp xếp theo
trình tự cố định theo từng giai đoạ lịch sử. Trước cửa ngôi nhà lơn tôi đã nhìn thấy
một ơng già trạc tuổi ơng tơi râu tóc bạc phơ mặc quần áo dạ, ngực đeo đầy huân
chương, đeo quân hàm đại tá. Lúc này tôi mới nhìn ơng tơi, ơng tơi cũng nmặc bộ
qn phục, đeo quân hàm thượng tá và có vài ba huân chương lấp lánh trên ngực.
Nhìn mọi người và nhì ơng trong ánh mắt tôi anh lên niềm tự hào vinh dự. Ông tôi
dăt tay tôi và giới thiệu với mọi người:


- Đây là thằng cháu đích tơn của tơi nó thích đi thăm viện Bảo tàng qn đội
nên tơi cho cháu đi theo.


Tôi cất tiếng chào:


- Cháu chào các ông ạ!


Tôi nhận được lời khen và tình cảm của các ông - những người đồng đội của
ông tôi một cách chân thực. Tôi xin phép ông được đi tham quan viên bảo tàng một
lúc. Tơi ngắm nghía vài kỉ vật trưng bày... bỗng tôi dừng lại bên chiếc xe vận tải
cũ, trơng nó gần giống như đống sắt vụn han rỉ mà người ta cố tình gép lại thành
chiếc xe thì đúng hơn. Lại là người lính già lúc nãy tôi trông thấy ở ngôi nhà lớn


đằng kia đang ngắm chiếc xe, tay mân mê thùng xe hình như ơng xúc động lắm.
Thấy thái độ của người lính già cùng với dịng chữ khiến tơi chú ý : “Đội xe khơng
kinh tiếp tế lương thực và vũ khí vào chiến trường miền Nam thời chống Mĩ”.
Trong đầu tôi chợt l lên hình ảnh chiếc xe khơng kính trong bài thơ của Phạm
Tiến Duật mà mình vừa học. Phải chăng đây chính là một trong những chiếc xe ấy,
khơng thể tin được. Để giả đáp thắc mắc của minh tơi mạnh dạn hỏi người cựu
chiến binh:


- Ơng ơi! Ơng cho cháu hỏi đây có phải là một trong chiếc xe khơng kính mà
nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả trong “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” năm
xưa khơng ạ?


- Phải đấy cháu ạ! Ơng xoay người sang tơi nói tiếp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Tơi trịn xoe đơi mắt và cảm thấy mình thật hạnh phúc. Ơi thế là tôi đã được
gặp người chiến sĩ lái xe trong tiểu đội xe khơng kính đấy ư? Một người lính lái xe
bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt tôi - những con người đã từng làm trấn
động địa cầu, với tiếng cười sảng khoái hồn nhiên thuở nào đã gây cho tôi một ấn
tượng sâu đậm, giờ đây lại hiện ra lặng lẽ âm thầm. Với tất cả những dung cảm sâu
sắc, tôi sung sướng nắm lấy tay ơng và hỏi liên hồi:


- Ơi ơng chính là chiến sĩ lái xe đó sao? Ơng kể cho cháu nghe đi ơng, kể về
cuộc sống thất ấy, có đúng các ông ngồi trên chiếc xe mà nhà thơ Phạm Tiến Duật
miêu tả trong “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” khơng ạ?


Ơng mỉm cườ hiền hậu rồi dẫn tơi ra chiếc ghế đá cạnh đó kể cho tơi nghe.
- Ông Duật miêu tả đúng đấy cháu ạ. Ông Duật không cung đội xe của ông
nhưng một lần hành qn tình cờ gặp tiểu đội của ơng đang nghỉ giữa rừng rôi hai
bên làm quen, linh vốn dễ quen mà, kể chuyện một lúc ông ấy sáng tác ngay “Bài
thơ về tiểu đội xe khơng kính” và tăng luôn các ông bài thơ ấy. Thế là cả tiểu đội


xe truyền tay nhau đọc mà thuộc ngay mới lạ chứ! Vì nó rất thực với mọi người
mà, chỉ có điều là cuộc sống của các ông không phải lúc nào cũng hồn nhiên như
vậy đâu. Chiến tranh mà giữa cía sơng và cái chết rất mong manh. Giong ơng bỗng
chùng xuống - chiến tranh gian khổ lắm cháu ạ! Xe khơng có kinh, bụi, muỗi rừng,
mưa, gió, thậm chí cả mảnh bom nữa bất thần ùa vào nguy hiểm lắm. Một lần
trong đêm giặc Mĩ ném bom như mưa các ơng vẫn chạy vì khơng có kinh nên đa
khơng ít đồng chí của ông hi sinh bởi những mảnh bom, mảng đạn bay vào buồng
lái. Gian khổ các ông không nề hà chỉ buồn là đồng đội hy sinh quá nhiều.


Tôi thấy ông ngập ngừng giọng chùng hẳn xuống khn mặt và kh mắt
rưng rưng. Ơng nói tiếp.


- Cháu bao trong mưa bom bão đan sao tránh khỏi hy sinh mất mát. Lúc nãy
bác thắp hương cho đồng đọi của bác đấy . Ông ấy hy sinh thật anh dũng chết rôi
mà tay vẫn cầm vô lăng, một mảng bom văng trúng tim ơng ấy trong khi ơng đang
cịn lái xe.Ông ấy là người Hải Dương vừa tán gẫu với nhau sau giờ nghỉ ăn trưa,
ơng ấy bảo hịa bình ơng ấy phải về ngay q để được bế đứa con trai bé bỏng mới
trào đời hai tháng nay chưa hề biết mặt bố. Thật tội nghiệp chưa được bế con thì
ơng ấy....Nói đến đây người lính già khóc ồ lên.


Tơi thấy vậy lịng tơi cũng nghẹn ngào và đến bên ông an ủi:


- Tránh sao được hả ông khơng có sự hy sinh của các ơng ấy thì làm sao có
ngày hơm nay .


- Ừ đúng rồi: “ Sự hy sinh của các ông ấy đều cần thiết cho đất nước và đó
cũng là ý thức sống của cả dân tộc mình mà. Có hiểu được điều đó thì sống mới có
ích. Ơng Duật miêu tả tiếng cười sảng khối của các ơng khi nhìn thấy nhau mặt
lấm lép mà vẫn phì phèo điếu thuốc là có thật đấy.



Ơng nói xong và châm điếu thuốc hút một hơi như suy ngẫm điều gì. Ơng
nói:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

chí. Gian khổ mà yêu đời giấc ngủ của các ông đâu được chọn vẹn thay lân nhau
mà ngủ chiếc vong buộc chông chêng trên thùng xe hoặc ca bin là ngủ được rồi.
Nhất là mùa mưa, mùa mưa ở Trường Sơn dữ dội lắm, song cái nắng cũng chói
trang, lái xe khơng cho phép dừng lại q lâu vì vậy khơng có thời gian thay giặt,
mà mưa Trường Sơn đến bất chợt rồi lại tạnh ngay, gió lùa qua cửa kính vỡ rồi
cũng chóng khơ đến chạm thay cũng được.


Nói xong ơng khẽ ngâm một đoạ trong bài thơ của Phạm Tiến Duật :
Khơng có kính ừ thì có bụi


Bụi phun tóc trăng như người già


Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha...
Nhưng chiếc xe từ trong bom rơi


Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đương đi tới
Bắt tay nha qua cửa kính vỡ rồi.


Tơi bật cười vì chợt nhận ra cái thần thái đầy chất linh thật trẻ trung của một
ông già 60 tuổi. Tôi nghĩ chắc là ông ấy đang thả tâm hồn mình về với thời trai trẻ
của mình, về những kỉ niệm năm xưa của người chí sĩ lai xe Trường Sơn.


Ngám nhìn gương mặt rạng ngời của người cựu chiến binh già tôi hiểu năm
tháng kinhến con ngươi già đi về thể xác nhưng tâm hồn họ vẫn gỡi nguyên bản
chất của người lính Cụ Hồ.



</div>

<!--links-->

×