Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.07 KB, 12 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật</b>
Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp
luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
<i>Ví dụ: </i>Cơng dân học phổ thơng. Đây là hành vi thực hiện pháp luật vì đây là một hoạt động biến
những quy định của Luật Giáo dục trở thành những hành vi hợp pháp ở trên thực tế.
<b>1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật</b>
- Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật
<b>Ví dụ: </b>Hành vi khơng xả rác bừa bãi nơi công cộng. Đây là hành vi thực hiện pháp luật phù hợp
với Luật Bảo vệ môi trường.
- Hành vi được đề cập là hành vi hợp pháp, nghĩa là những hành vi mang tính pháp lí phù hợp
với các quy định của pháp luật, cũng có thể hiểu là hành vi làm đúng theo những gì mà pháp luật
quy định. Như vậy, một chủ thể thực hiện pháp luật phải bằng hành vi hợp pháp, có thể là hành
vi hành động hoặc không hành động nhưng phải làm đúng, làm đủ, không trái với những quy
định của pháp luật. Sở dĩ thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể vì đây là hành
vi được khuyến khích tiến hành, có tác dụng tốt trong xã hội, thúc đẩy các hoạt động tích cực,
hướng con người đến một xã hội văn minh, lành mạnh.
- Thực hiện pháp luật là hoạt động đưa các quy phạm pháp luật được thực hiện trên thực tế
- Các quy định của pháp luật trên giấy tờ sẽ được hiện thực hóa trong đời sống thơng qua hành vi
hợp pháp của các chủ thể. Đây là một hoạt động có ý nghĩa thiết thực vì nó có thể kiểm nghiệm
<i>- Ví dụ: </i>Các cơ sở kinh doanh thực hiện việc đăng kí kinh doanh là hành vi thực hiện pháp luật
đưa các quy phạm pháp luật về kinh doanh được quy định trong Luật Thương mại (LTM), Luật
Đầu tư... được thực hiện trên thực tế.
- Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách thức khác nhau
- Thực hiện pháp luật có thể do chủ thể là cá nhân hay tổ chức, pháp nhân... tiến hành. Có thể
bằng hành động hoặc không hành động. Bởi lẽ, quy phạm pháp luật có nhiều loại khác nhau và
ứng với mỗi loại quy phạm pháp luật đó thì chủ thể thực hiện pháp luật sẽ xác định được xử sự
cụ thể của mình, sao cho phù hợp với các quy định của pháp luật.
<i>- Ví dụ: </i>Tất cả phương tiện cơ giới đang lưu thông trên đường phải dừng lại trước tín hiệu đèn
giao thơng màu đỏ.
- Hình thức thực hiện pháp luật này có nội dung là chủ thể kiềm chế mình khơng thực hiện điều
pháp luật cấm. Hành vi tuân theo pháp luật được thực hiện dưới dạng không hành động.
- Như vậy, loại quy phạm tương ứng cho hình thức thực hiện pháp luật này là loại quy phạm
pháp luật cấm đoán. Quy phạm pháp luật cấm đoán là loại quy phạm mà trong phần quy định của
quy phạm pháp luật cấm chủ thể không được thực hiện một số hành vi nhất định.
* Thi hành pháp luật
<i>- Ví dụ:</i> Cơng dân nam đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật sẽ thực hiện nghĩa vụ quân sự,
hành vi này chỉ có thể được biểu hiện dưới dạng hành động. Tương tự, hành vi nộp thuế vào
ngân sách nhà nước của đối tượng chịu thuế là hành động bắt buộc.
- Với hình thức thực hiện pháp luật này, chủ thể bằng hành vi tích cực của mình thực hiện điều
pháp luật yêu cầu. Hành vi thi hành pháp luật được thực hiện dưới dạng hành động.
- Loại quy phạm tương ứng cho hình thức thực hiện pháp luật này là loại quy phạm bắt buộc.
Quy phạm pháp luật bắt buộc là loại quy phạm mà phần quy định buộc chủ thể có nghĩa vụ phải
thực hiện một số hành vi nhất định.
* Sử dụng pháp luật
<b>- Ví dụ: </b>Mọi người đều có thể thực hiện việc đi du lịch, nghỉ dưỡng hoặc không tùy theo nhu cầu
cá nhân (hành vi này phù hợp với các quy định của Luật Du lịch).
- Chủ thể sử dụng pháp luật nghĩa là chủ thể thực hiện cách thức xử sự mà pháp luật cho phép.
Hành vi sử dụng pháp luật được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
- Tương ứng với tính chất tự do ý chí trong hình thức sử dụng pháp luật mà nhà làm luật xây
dựng loại quy phạm pháp luật cho phép. Quy phạm pháp luật cho phép là loại quy phạm pháp
luật có phần quy định cho phép chủ thể khả năng tự xử sự theo cách thức nhất định.
* Áp dụng pháp luật
<b>- Ví dụ:</b> Tịa án xét xử và ra bản án áp dụng hình phạt tù chung thân cho một người phạm tội giết
người được quy định trong BLHS.
- Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thơng qua các cơ
quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của
pháp luật. Trong trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, cơ quan tổ chức xã hội cũng
có thể thực hiện hoạt động này.
- Như vậy, có thể thấy, chủ thể áp dụng pháp luật đặc biệt hơn các hình thức thực hiện pháp luật
khác. Chủ thể chỉ có thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã
hội được nhà nước trao quyền. Khi thực hiện chức trách của mình, chủ thể áp dụng pháp luật
- Loại quy phạm pháp luật tương ứng với hình thức thực hiện pháp luật này là tất cả các loại quy
phạm.
<b>1.4. Áp dụng pháp luật</b>
- Khái niệm áp dụng pháp luật: Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà
nước, thơng qua cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được nhà nước
trao quyền, tổ chức cho các chủ thể thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ do pháp luật quy định hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ
hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
* Các trường hợp cần áp dụng pháp luật
- Khi các quyền và nghĩa vụ của chủ thể không thể mặc nhiên phát sinh, thay đổi, chấm dứt nếu
thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
<i>- Ví dụ: </i>Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định công dân có quyền tự do kinh doanh nhưng
quyền này chỉ phát sinh khi cơng dân làm thủ tục đăng kí kinh doanh và được một cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
- Khi các quyển và nghĩa vụ của chủ thể đã phát sinh nhưng có sự tranh chấp mà các chủ thể
khơng thể tự giải quyết được và yêu cầu nhà nước can thiệp.
<i>- Ví dụ:</i> Khi các chủ thể tranh chấp về quyền thừa kế, tranh chấp về tài sản, các tranh chấp về đất
đai... mà những mâu thuẫn này các chủ thể khơng thể tự giải quyết được thì họ có thể yêu cầu
một sự can thiệp từ phía nhà nước.
- Trong trường hợp này, nhà nước đóng vai trị như một trọng tài. Thứ nhất, nhà nước sẽ căn cứ
- Khi cần có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với các chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật.
<i>- Ví dụ:</i> Cảnh sát giao thông quyết định xử phạt 100.000 đồng đối với hành vi của một người đã
vượt đèn đỏ (người này đã vi phạm pháp luật về an toàn giao thông đường bộ).
- Khi nhà nước thấy cần phải tham gia để kiểm tra, giám sát các bên tham gia quan hệ pháp luật
hoặc để xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một sự kiện thực tế nào đó.
<b>- Ví dụ: </b>Nhà nước có thể tiến hành hoạt động kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại các khu
chợ...
* Đặc điểm của áp dụng pháp luật
- Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước. Ví dụ: Tịa án
dân sự thực hiện những hoạt động tố tụng liên quan đến việc xét xử những vụ án dân sự như
những tranh chấp liên quan đến quan hệ tài sản...
- Cơ quan điều tra tiến hành những hoạt động điều tra nhằm xác minh những tình tiết liên quan
đến vụ án trước khi quyết định sang một giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng...
- Căn cứ vào các quy phạm pháp luật, tình tiết của vụ việc và trong từng trường hợp, điều kiện
hoàn cảnh cụ thể mà cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền đưa ra những quyết định
trong việc áp dụng pháp luật phù hợp với chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mật
- Hoạt động áp dụng pháp luật chủ yếu dựa vào ý chí đơn phương của Nhà nước mà khơng phụ
thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng.
- Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đổi với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan.
<b>- Ví dụ</b>: Nhà xây dựng trái phép thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định buộc phải
tháo dỡ nếu khơng chấp hành thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tháo dỡ.
- Áp dụng pháp luật có hình thức, thủ tục chặt chẽ.
<b>- Ví dụ: </b>Tịa án xét xử phải phù hợp với quy trình tố tụng được quy định trong các bộ luật tố
tụng.
- Hình thức của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật. Ý chí của chủ thể áp
dụng pháp luật được thể hiện trong các văn bản áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật là
văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách ban hành trên cơ sở văn bản quy
phạm pháp luật, áp dụng vào từng trường hợp nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lí cụ thể,
hoặc xác định biện pháp trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể.
<b>Ví dụ:</b> Bản án của Tịa án, quyết định xử phạt vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông...
- Sẽ khơng có thủ tục chung cho mọi trường hợp áp dụng pháp luật. Tùy theo tính chất của từng
vụ việc (chủ thể, tính chất phức tạp...) mà thủ tục giải quyết cũng sẽ khác nhau. Hình thức của
hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật (áp dụng 1 lần).
- Áp dụng pháp luật mang tính cá biệt, cụ thể.
<i>- Ví dụ: </i>Bản án của Tịa án áp dụng hình phạt tù 05 năm đối với trường hợp anh Nguyễn Văn A
phạm tội cướp tài sản được quy định trong BLHS.
<b>- Ví dụ:</b> Hai bị cáo cùng là về tội trộm cắp tài sản nhưng tuỳ theo tình trạng nhân thân (là người
đã thành niên hay chưa thành niên...), tình tiết phạm tội (trộm cắp tài sản có giá trị lớn hay nhỏ...)
mà hội đồng xét xử sẽ cân nhắc để quyết định hình phạt cho phù hợp.
- Mặt khác, trong quá trình áp dụng pháp luật mới thấy được sự tồn tại của những "lỗ hổng” pháp
luật, mới thấy được những bất cập trong quá trình thực thi pháp luật. Từ đó mới đưa ra được
những kiến nghị để hồn thiện hệ thống pháp luật. Đồng thời, tính sáng tạo của hoạt động áp
dụng pháp luật còn được thể hiện rõ nét qua hoạt động áp dụng pháp luật tương tự.
- Các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật Quá trình áp dụng pháp luật trải qua bốn giai
đoạn:
<i>+ Giai đoạn 1: </i>Phân tích, làm sáng tỏ những tình tiết của vụ việc cần áp dụng pháp luật và các
đặc trưng pháp lí của chúng.
<i>+ Giai đoạn 2:</i> Lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng và làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của
quy phạm pháp luật đó.
<i>+ Giai đoạn 3</i>: Ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
<i>+ Giai đoạn 4:</i> Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật,
<b>1.5. Áp dụng pháp luật tương tự</b>
- Khái niệm áp dụng pháp luật tương tự: Áp dụng pháp luật tương tự là hoạt động áp dụng pháp
luật nhằm khắc phục kịp thời các “lỗ hổng” của pháp luật, áp dụng pháp luật tương tự khi vụ việc
được xem xét có liên quan đến quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội hoặc của cá nhân, đòi hỏi nhà
nước phải xem xét giải quyết nhưng khơng có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh.
* Các cách thức áp dụng pháp luật tương tự
<i>- Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật: </i>Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là việc lựa chọn
quy phạm đang có hiệu lực pháp luật làm căn cứ pháp lí để giải quyết một vụ việc cụ thể nảy
sinh chưa được dự kiến trước, nhưng có dấu hiệu tương tự với một vụ việc khác được quy phạm
pháp luật này trực tiếp điều chỉnh.
<i>- Áp dụng tương tự pháp luật: </i>“Tương tự” trong áp dụng pháp luật tương tự là sự giống nhau về
nội dung vụ việc và vì vậy tìm được quy phạm pháp luật tương ứng hoặc nguyên tắc pháp lí để
xử lí vụ việc.
- Như vậy, áp dụng tương tự pháp luật là việc sử dụng những nguyên tắc pháp lí và ý thức pháp
luật để giải quyết một vụ việc cụ thể mà chưa có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh, cũng
không thể áp dụng tương tự quy phạm pháp luật.
* Điều kiện áp dụng pháp luật tương tự
<i>Điều kiện riêng: </i>Đối với áp dụng tương tự quy phạm pháp luật: phải xác định được vụ việc mới
nảy sinh có nội dung gần giống với vụ việc đã được quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp.
- Đối với áp dụng tương tự pháp luật: khi không thể giải quyết vụ việc mới nảy sinh bằng hình
thức áp dụng tương tự quy phạm pháp luật (do khơng có quy phạm pháp luật tương tự). Mặt
khác, phải chỉ ra được nguyên tắc pháp luật hay quan điểm pháp lí nào được sử dụng để giải
quyết vụ việc cụ thể đó và lí giải lí do lựa chọn.
<b>2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật và các dấu hiệu của vi phạm pháp luật</b>
* Khái niệm vi phạm pháp luật
- Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, do người có năng lực trách
nhiệm pháp lí thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến các quan hệ
xã hội được nhà nước xác lập và bảo vệ.
- Ví dụ: A lén lút chiếm đoạt một xe mô tô (Dream) trị giá 30 triệu đồng của B —> A đã có dấu
hiệu vi phạm pháp luật (trộm cắp tài sản của công dân); Do thù tức với A, B lén lút bỏ thuốc độc
vào thức ăn của A, nhưng A khơng dùng thức ăn đó, A khơng chết —> B đã có dấu hiệu vi phạm
pháp luật (phạm tội giết người).
* Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
- Dấu hiệu thứ nhất: Hành vi xác định của con người.
+ Vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi xác định của chủ thể (được thể hiện ra thế giới
khách quan dưới dạng hành động và khơng hành động của con người), mang tính nguy hiểm cho
xã hội (gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được nhà nước xác lập
và bảo vệ).
<i>+ Ví dụ:</i> Hành vi giết người được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động như A
dùng súng bắt chết B —» vi phạm pháp luật dược thể hiện ra bên ngoài bằng hành động (xử sự
chủ động của con người); hoặc A (mẹ) không cho con bú trong 02 ngày dẫn đến cái chết của con
mình là trẻ sơ sinh bị dị tật nặng vi phạm pháp luật được thể hiện dưới hình thức không hành
động (xử sự thụ động).
+ Như vậy, chỉ bằng hành vi của mình thì chủ thể mới có thể gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho xã hội. Hành vi của A được để cập trong các tình huống trên mang tính nguy hiểm
cho xã hội. Vì những hành vi đó đã xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng của con người
được nhà nước xác lập và bảo vệ.
- Dấu hiệu thứ hai: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật.
+ Chủ thể không thực hiện nghĩa vụ mà nhà nước bắt buộc (chủ DNTN không thực hiện nghĩa
vụ đóng thuế; bên mua trong hợp đồng mua bán tài sản khơng thanh tốn cho bên bán tài sản khi
đã nhận tài sản).
- Dấu hiệu thứ ba: Vi phạm pháp luật phải chứa đựng lỗi của chủ thể.
+ Lỗi là trạng thái tâm lí phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà mình đã thực hiện và hậu quả nguy hiểm hoặc nguy cơ gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội
mà mình gây ra, thể hiện dưới hai hình thức là cố ý hoặc vơ ý.
+ Người thực hiện hành vi trái pháp luật chỉ bị xem là có lỗi khi hành vi mà chủ thể đã thực hiện
là kết quả của sự lựa chọn, quyết định của họ, trong khi người đó có đủ điều kiện khách quan và
chủ quan để lựa chọn một cách xử sự khác phù hợp với pháp luật. A khơng có lỗi trong tình
huống sau: A điều khiển xe gắn máy tham gia giao thông với tốc độ 20 - 25km/h trên đường bộ
trong khu vực đông dân cư (tốc độ tối đa cho phép là 40km/h). B là người điều khiển xe đạp
trước mặt A, đã đột ngột lăng xe ra giữa đường để chuyển hướng. Vì vậy, bánh xe trước của A
xơ mạnh vào phía sau xe đạp của B, B bị ngã xuống đường bê tông nhựa, gãy tay. Hành vi gây
tai nạn giao thơng đó thực hiện trong điều kiện A không thể lựa chọn một cách xử sự khác phù
hợp với pháp luật được. A khơng có lỗi đối với hành vi trái pháp luật mà mình đã gảy ra.
- Dấu hiệu thứ tư: Vi phạm pháp luật phải là hành vi do người có năng lực trách nhiệm pháp lí
thực hiện.
+ Năng lực trách nhiệm pháp lí là khả năng của chủ thể vi phạm pháp luật, vào thời điểm thực
hiện hành vi, họ hoàn toàn có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả của hành vi mà mình thực hiện; khả năng điều khiển được hành vi; khả năng tự chịu trách
nhiệm pháp lí về hành vi của mình.
+ Để xác định chủ thể của hành vi trái pháp luật có được những khả năng đó hay khơng, nhà
nước đã căn cứ vào độ tuổi và khả năng lí trí của chủ thể vào thời điểm họ thực hiện hành vi trái
pháp luật để quy định vấn đề trên.
<i>+ Ví dụ:</i> Trong lĩnh vực hình sự, nhà nước ta quy định, cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự
là người từ đủ 14 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ là người từ đủ 16 tuổi; không mắc
bệnh tâm thần hoặc một loại bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi. Người đủ
14 tuổi là chủ thể của tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người đủ 16
tuổi là chủ thể của mọi tội phạm mà họ gây ra.
<b>2.2. Cấu thành vi phạm pháp luật</b>
- Khái niệm cấu thành vi phạm pháp luật: Cấu thành vi phạm pháp luật là tổng thể các dấu hiệu
cơ bản, đặc thù cho một loại vi phạm pháp luật cụ thể, được nhà nước quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
* Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật
- Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: Là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật.
Bao gồm bốn biểu hiện sau:
+ Hành vi trái pháp luật: là xử sự nguy hại cho xã hội của con người ra thế giới khách quan ở
những mức độ khác nhau, được ý thức của chủ thể kiểm sốt và ý chí của người đó điều khiển;
được quy định trong pháp luật.
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội được nhà nước xác
lập và bảo vệ của vi phạm pháp luật (đây là dấu hiệu khơng bắt buộc phải có trong mọi vi phạm
pháp luật). Thiệt hại cho xã hội thể hiện dưới những hình thức:
Thiệt hại về thể chất: sức khỏe, tính mạng của con người.
Thiệt hại về tinh thần: danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người.
Thiệt hại về vật chất: tài sản bị tổn thất, hư hại.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Các yếu tố khác: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh
vi phạm pháp luật...
- Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Là hoạt động tâm lí bên trong của người vi phạm pháp
luật. Bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích vi phạm pháp luật.
- Lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật được thể hiện
dưới hai hình thức: cố ý và vô ý.
- Lỗi cố ý trực tiếp: Người vi phạm pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
<b>- Ví dụ</b>: Châu Hùng S vay chị A 600 triệu đồng với mức lãi suất cao, đã nảy ra ý định giết chị A
để quỵt nợ. S đã chuẩn bị băng keo và roi chích điện, lên kế hoạch thực hiện tội phạm. Ngày
14/12/2011, khi vợ con đi vắng, S gọi điện hẹn chị A đến nhà để trả trước 300 triệu đồng, S thuê
B, C, D (là ba đối tượng chơi bời lêu lổng khơng có cơng ăn việc làm ổn định) 3 triệu đồng, đến
nhà chờ sẵn, giúp đỡ hắn thực hiện tội ác. S nói dối với ba tên côn đồ này là chị A có nợ S 600
triệu đồng khơng chịu trả, nên hắn đề nghị ba tên này bắt trói chị A để gọi giang hồ đến địi nợ
giúp. Do khơng biết âm mưu của S nên ba tên này đã nhận lời giúp S thực hiện kế hoạch. Sau khi
nghe điện thoại của S, chị A cùng em trai là E đến nhà S. Khi chị A và E vừa vào đến nhà, S ra
lệnh cho B, C, D bắt trói chị A và anh E lại, đồng thời dùng băng keo bịt miệng hai nạn nhân.
Sau khi B, C, D vừa ra khỏi nhà, S bắt đầu dùng roi chích điện, chích vào người hai nạn nhân
cho đến chết, S lột toàn bộ tài sản quý giá và số tiền mang theo trên người của hai chị em và nhét
xác hai nạn nhân vào hai thùng xốp đã được chuẩn bị sẵn, rồi thuê xe tải nhỏ đến chở hai thùng
- Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy khơng mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra.
<i>- Ví dụ:</i> A nuôi gà thả vườn với số lượng lớn, thường bị mất trộm vào ban đêm. Để phòng chống
trộm cắp, 23 giờ ngày 22/3/2012, A giăng một sợi dây thép trên nóc chuồng gà và nối với nguồn
điện 220V. Khoảng 02 giờ sáng, B là người cùng làng lén lút chui vào chuồng, bắt trộm gà. Do
vậy, B bị vướng phải dây thép đang nối với nguồn điện, nên bị giật chết. Lỗi của A đối với cái
chết của B là cố ý gián tiếp. Lỗi vơ ý vì quá tự tin: chủ thể vi phạm pháp luật thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được nên đã thực hiện hành vi trái pháp luật và gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội.
<i>- Ví dụ:</i> Trên đường đi chơi, A hút gần hết điếu thuốc lá và ném vào đống rơm rạ khô nhà bà B.
Vì trời hanh khơ, nên rơm bén lửa, cháy đống rơm rạ khô và cháy lan sang ngôi nhà, mái lợp
bằng lá dừa nước của ông C, gây thiệt hại trị giá 100 triệu đồng. Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi
phạm pháp luật đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên khơng thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả
ấy.
<i>- Ví dụ:</i> Kíp mổ do bác sĩ A phụ trách, phẫu thuật gan cho bệnh nhân, do sơ suất đã bỏ quên
miếng băng (gạc) y tế trong cơ thể của bệnh nhân, trước khi đóng vết mổ hở. Vì vậy, miếng gạc
bị bác sĩ bỏ quên luân chuyển và dính tại ruột non, gây nhiễm trùng nặng, bệnh nhân tử vong sau
mổ 01 tháng. Động cơ vi phạm pháp luật. Là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật.
<i>- Ví dụ: </i>A (hung thủ) giết B (người tình) đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm làm cha.
Động cơ không phải là yếu tố bắt buộc phải xác định trong mặt chủ quan của mọi vi phạm pháp
luật. Mục đích vi phạm pháp luật: Là kết quả trong ý thức chủ quan mà chủ thể vi phạm pháp
luật đặt ra phải đạt được khi thực hiện vi phạm pháp luật.
<b>- Ví dụ: </b>A (hung thủ) dùng súng hoặc mìn tự tạo tước đoạt sinh mạng của cán bộ cốt cán trong
bộ máy nhà nước (nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Chủ tịch Thượng Nghị viện...) nhằm chống
lại nhà nước đó. Chủ thể vi phạm pháp luật: Là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm
pháp lí đã thực hiện hành vi trái pháp luật, có lỗi, tương ứng với mỗi loại vi phạm pháp luật.
- Cá nhân là chủ thể vi phạm pháp luật phải là người không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp
luật quy định.
hành xong quyết định áp dụng pháp luật phải xác định trách nhiệm pháp lí của cá nhân gây ra vi
phạm pháp luật theo quy định của pháp luật.
- Khách thể vi phạm pháp luật: Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được
nhà nước xác lập và bảo vệ bị chủ thể vi phạm pháp luật xâm hại hoặc đe dọa xâm hại.
<b>- Ví dụ:</b> Quan hệ xã hội được coi là khách thể của tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS
1999: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức;
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân; những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Khách thể của vi phạm pháp luật hành chính là các quy tắc quản lí nhà nước hoặc trật tự quản lí
hành chính nhà nước được pháp luật hành chính quy định và bảo vệ.
* Các loại vi phạm pháp luật
- Căn cứ vào tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi; tính chống đối xã hội của chủ thể; mức
độ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội và loại chế tài dự kiến áp dụng đối với chủ
thể vi phạm pháp luật, vi phạm pháp luật được phân loại thành; vi phạm hình sự (tội phạm); vi
phạm hành chính; vi phạm dân sự; vi phạm kỉ luật.
- Vi phạm hình sự (tội phạm): "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của cơng dân; xâm phạm các lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
<b>- Ví dụ: </b>A trộm cắp 10.000.000 đồng của B. Vi phạm hành chính: Là hành vi (hành động hoặc
không hành động) nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) do cá nhân có
năng lực trách nhiệm hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội,
các quy tắc quản lí, sở hữu (nhà nước, tổ chức, tư nhân), các quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp
của cơng dân mà khơng phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải chịu trách
nhiệm hành chính.
<b>- Ví dụ:</b> Cơng ty trách nhiệm hữu hạn do A làm chủ, trốn thuế 80.000.000 đồng. Vi phạm pháp
luật dân sự: Là hành vi nguy hại cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi do cá nhân có năng lực trách
nhiệm pháp lí hoặc tổ chức có nghĩa vụ mà khơng thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ gây
ra; hoặc gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể khác mà theo quy định của pháp
luật, họ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.
cho cơ quan, đơn vị mình; hoặc xâm hại đến quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
khác bởi các quyết định áp dụng trái pháp luật, gây hậu quả nguy hại, ảnh hưởng xấu đến uy tín
của cơ quan, ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của chủ thể, theo quy định của pháp luật họ phải
<b>3.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lí</b>
- Trách nhiệm pháp lí là việc nhà nước bằng ý chí đơn phương của mình, buộc chủ thể vi phạm
pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy
định ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật do ngành luật tương ứng xác định.
<i>- Ví dụ:</i> Tịa án tỉnh H phạt A 08 năm tù vì A đã phạm tội cố ý gây thương tích, nội dung vụ án
như sau: A (nam, 20 tuổi), B (nữ, 18 tuổi) có quan hệ yêu đương với nhau. Khi B phát hiện A
nghiện ma tuý, B quyết định chia tay với A. A sau nhiều lần hứa hẹn từ bỏ ma tuý và thuyết phục
B hàn gắn quan hệ tình cảm để tiến tới hơn nhân nhưng không thành, A nảy sinh ý định tạt axit
vào B. Vào khoảng 22 giờ ngày 12/10/2011, A mang một ca dung dịch axit (khoảng 1 lít) đến
nhà B để thực hiện ý định của mình, C là em của B ra mở cửa, do nhầm lẫn nên A đã tạt axit vào
người C, gây bỏng nặng cho C.
<b>3.2. Các loại trách nhiệm pháp lí</b>
- Căn cứ vào tính chất của các biện pháp xử lí, cơ quan xử lí, đối tượng bị áp dụng, có bốn loại
trách nhiệm pháp lí sau:
+ Trách nhiệm hình sự: Là hậu quả pháp lí bất lợi của việc thực hiện hành vi phạm tội, được xác
định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật, do Tòa án áp dụng đối với người phạm
tội. Trong đó, nhà nước buộc chủ thể của tội phạm gánh chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất là các loại hình phạt trong BLHS, được thể hiện ở bản án có hiệu lực của Tịa án.
+ Trách nhiệm hành chính: Là hậu quả pháp lí bất lợi đối với cá nhân hoặc tổ chức vi phạm pháp