Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Hoạt động luận tội trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.21 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN KHỐT

LUẬN VĂN CAO HỌC

HOẠT ĐỘNG LUẬN TỘI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN KHỐT

HOẠT ĐỘNG LUẬN TỘI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành

: Luật Hình Sự

Mã số

: 60380104



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LÊ THÀNH DƢƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi,
các nội dung được trình bày trong luận văn là kết quả nghiên cứu khoa học
độc lập của bản thân với sự hướng dẫn khoa học của Ts. Lê Thành Dương.
Những thông tin, số liệu trong luận văn là trung thực, chính xác và chưa được
cơng bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào. Tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm về tính xác thực này.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 11 năm 1012
Tác giả

Nguyễn Văn Khoát


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

1
2

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Hội đồng xét xử
Hội đồng Thẩm phán
Kiểm sát viên
Kiểm sát điều tra
Kiểm sát xét xử
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Toà án nhân dân tối cao
Thực hành quyền công tố
Uỷ ban kiểm sát

CHỮ VIẾT TẮT

BLHS
BLTTHS
HĐXX
HĐTP

KSV
KSĐT
KSXX
VKSND
VKSNDTC
TANDTC
THQCT
UBKS


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Biểu 1: Mẫu 136 - Hướng dẫn viết Luận tội
Biểu 2: Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
Biểu 3: Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
Biểu 4: Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Bảng 1: Bảng thống kê số lượng án hình sự được đưa ra truy tố, xét xử
sơ thẩm trong cả nước từ năm 2008 đến nay.


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ LUẬN TỘI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................... 01
1.1 Lý luận chung về luận tội và bản luận tội............................................. 01
1.1.1 Khái niệm luận tội ............................................................................... 01

1.1.2 Cơ sở pháp lý của hoạt động luận tội ................................................ 02
1.1.3 Bản chất, giá trị pháp lý và ý nghĩa của luận tội ................................ 04
1.1.4 Khái lược lịch sử của luận tội của Việt Nam ...................................... 08
1.2 Nội dung và yêu cầu của bản luận tội ................................................... 15
1.2.1 Nội dung của bản luận tội ................................................................... 15
1.2.2 Yêu cầu của bản luận tội .................................................................... 16
1.3 Kỹ năng xây dựng bản luận tội .............................................................. 22
1.3.1 Kỹ năng xây dựng bản luận tội ........................................................... 22
1.3.2 Kỹ năng trình bày luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tồ hình sự sơ
thẩm ................................................................................................................ 43
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LUẬN TỘI VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG LUẬN
TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH
SỰ SƠ THẨM ................................................................................................ 50
2.1 Thực hành quyền cơng tố và kiểm sát xét xử hình sự của ngành Kiểm
sát nhân dân từ năm 2008 đến nay .............................................................. 50
2.1.1 Thực trạng tổ chức bộ máy, lực lượng các đơn vị thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp hiện nay ........ 50
2.1.2 Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ
án hình sự sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp từ năm 2008 đến
nay ................................................................................................................... 65


2.2 Chất lƣợng luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử vụ án hình
sự sơ thẩm ................................................................................................. 66
2.2.1 Thực trạng luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử vụ án hình
sự sơ thẩm ....................................................................................................... 68
2.2.2 Những ưu điểm và nguyên nhân đạt được trong hoạt động luận tội của
Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử vụ án hình sự sơ thẩm............................... 71
2.2.3 Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

trong hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử vụ án hình sự
sơ thẩm ............................................................................................................ 76
2.3 Một số giải pháp - kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng hoạtđộngluận
tội của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp tại phiên tòa xét xử
vụ án hình sự sơ thẩm ................................................................................... 83
2.3.1 Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng hoạt động luận tội theo yêu cầu
cải cách tư pháp hiện nay ............................................................................... 83
2.3.2 Một số giải pháp chung nhằm nâng cao chất lượng hoạt động luận tội
của Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử vụ án hình sự sơ thẩm ....................... 85
2.3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động luận tội của
Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử vụ án hình sự sơ thẩm............................... 90
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với việc tiến hành cải cách kinh tế, cải cách hành chính, Đảng và
Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh thực hiện việc cải cách tư pháp. Đây là một
yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế cũng như để
đáp ứng tình hình thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là cần phải tăng
cường cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm trong tình hình mới. Nhằm
để hiện thực hố cơng cuộc cải cách tư pháp đã đề ra, ngày 02/01/2002, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số
08/NQ-TW về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, đã định hướng: “Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp…Nâng
cao chất lượng thực hành quyền cơng tố của Kiểm sát viên tại phiên tịa, đảm
bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia

tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tịa…”. Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020, đã nhấn mạnh “….Đổi mới việc tổ chức
phiên tịa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính cơng
khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao tính tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”.
Thực hiện việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương trên của Đảng và
Nhà nước ta, trong thời gian vừa qua pháp luật hình sự, tố tụng hình sự là một
trong những cơng cụ sắc bén, hữu hiệu của Đảng, Nhà nước trong công cuộc
đấu tranh phịng và chống tội phạm, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, ổn định xã hội. Các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khơng ngừng nâng cao trình độ nghiệp
vụ, năng lực cơng tác trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình
sự. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả 02 Nghị quyết nêu trên của
Bộ chính trị.


Là cơ quan do Quốc hội thành lập, thừa hành quyền lực từ Quốc hội,
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều 137 Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Điều 1 luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Hiện nay ở
nước ta, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tồ, Kiểm sát viên khi
tham gia phiên tồ có nhiệm vụ và quyền hạn như đọc cáo trạng, tham gia xét
hỏi, thực hiện việc luận tội và phát biểu quan điểm tranh luận, đối đáp với bên
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Ngoài ra, Kiểm sát viên cịn

có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
những người tham gia tố tụng tại phiên tồ.
Trong đó luận tội của Viện kiểm sát tại các phiên tồ hình sự có vị trí đặc
biệt quan trọng, là sự thể hiện tập trung nhất vai trị cơng tố của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân bởi lẽ qua đó thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát
về vụ án: Có tội hay khơng có tội, tội gì, tính chất mức độ, vai trò trách nhiệm
của bị cáo và cả nguyên nhân, điều kiện phạm tội cũng như đường lối xử lý.
Do vậy, trong những năm qua Viện kiểm sát đã tập trung trang bị kiến thức
cho đội ngũ Kiểm sát viên và các Kiểm sát viên đã vươn lên đảm đương tốt
nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, trong thực tế cịn khơng ít phiên tồ vai trị mờ nhạt của Kiểm
sát viên lại thể hiện thể hiện tập trung nhất ở hoạt động luận tội và tranh luận
nên chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Điều đó đã ảnh hưởng nhất
định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động hoạt động thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, chất lượng và hiệu quả hoạt
động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự sơ thẩm nói
riêng hiện nay.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nói chung và thực hành quyền
cơng tố kiểm sát xét xử nói riêng tại các phiên tồ hình sự, nhằm đáp u cầu
thực tiễn đang đặt ra cũng như yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay, có nhiều nội dung cần phải được quan tâm. Trong đó, một trong những
nội dung trọng tâm cần được Viện kiểm sát các cấp quan tâm và thực hiện


ngay nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, đó
là việc nâng cao chất lượng luận tội, tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên tại
phiên tồ hình sự sơ thẩm. Bởi vì, phiên tồ xét xử vụ án hình sự là giai đoạn
tố tụng cơng khai, thường có sự tham gia của đầy đủ các bên, nhằm làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án, thông qua việc xem xét, đánh giá lại một

cách toàn diện các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được về vụ án. Qua việc xét
hỏi, luận tội, tranh luận và đối đáp giữa các bên tại phiên toà mà hành vi
phạm tội, người phạm tội được xác minh cụ thể, đồng thời làm rõ được các
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, tính chất, mức độ phạm tội và các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân
sự của bị cáo. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử ra một bản án đúng người, đúng
tội đúng pháp luật đối với bị cáo, không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội
phạm.
Chính vì vậy, để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động luận tội của
Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử vụ án hình sự sơ thẩm việc lựa chọn vấn đề
“Hoạt động luận tội trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận văn
thạc sỹ Luật học là đáp ứng yêu cầu thực tiễn và khách quan hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động luận tội nếu xét về tiến trình tố tụng thì luận tội của Kiểm
sát viên đối với bị cáo tại phiên toà là hành vi pháp lý của Kiểm sát viên mà
pháp luật quy định để thực hiện chức năng buộc tội đối với bị cáo. Xét về mục
đích, nội hàm của nó thì luận tội là luận cứ, quan điểm của Viện kiểm sát do
Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố nhà nước trình bày tại phiên tồ về vụ
án hình sự nhằm làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, là cơ sở để
Hội đồng xét xử giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để xảy ra oan sai cho người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm. Vì vậy đây là
vấn đề thu hút các nhà nghiên cứu lý luận và những người hoạt động thực tiễn
quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong nhiều
cơng trình khoa học được cơng bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và
các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy về pháp luật.
Có thể nêu ra như sau: Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ
thẩm, NXB Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2007), Tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Tạp chí Tịa án nhân dân số 17; Võ Thị Hồng Luyến (2011), Một số



vấn đề về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tịa xét xử hình sự
sơ thẩm, Tạp chí Kiểm sát số 18; Lê Thúc Anh (2008), Một số suy nghĩ về
tranh tụng tại phiên tòa trong cải cách tư pháp, Tạp chí Tịa án nhân dân số
01; Nguyễn Đức Mai (2009), Đặc điểm của mơ hình tranh tụng và phương
hướng hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự ở Việt Nam, Tạp chí Tịa án nhân
dân số 23; Nguyễn Mạnh Hà (2009), Nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên
trong tranh luận tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự nhằm đáp ứng nhu cầu cải
cách tư pháp hiện nay, Tạp chí Kiểm sát số 10; Nguyễn Thế Tùng (2011),
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa Hình sự
của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát quân sự, Tạp chí Kiểm sát số 17 ; Nguyễn
Văn An (2011), Công tác thực hành quyền cơng tố và kiểm sát xét xử hình sự
tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát số 7; Trần Duy
Bình (2011), Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát
số 8 và một số cơng trình khác được nghiên cứu và đăng tải trên các báo, tạp
chí khoa học chun ngành.
Nhìn chung, các cơng trình nêu trên chủ yếu là các bài viết được đăng
trên tạp chí khoa học chuyên ngành như: Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tịa án
nhân dân, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa
học pháp lý…Các tác giả của các bài viết này đã đặt vấn đề cũng như tiếp cận
và sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nên đã đề cập, đánh giá,
xem xét hoạt động luận tội trong tố tụng hình sự ở nhiều góc độ và mức độ
chuyên sâu khác nhau theo từng bài viết. Riêng có một cơng trình nghiên cứu
của tác giả Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm,
NXB Tư pháp, Hà Nội. Trong nội dung nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ
có một phần nhỏ nghiên cứu về hoạt động luận tội trong quá trình tranh luận
của Kiểm sát viên tại phiên tồ sơ thẩm hình sự.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ
thống, tồn diện về hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử

hình sự, cũng như vai trị của bên buộc tội trong q trình luận tội tại phiên
tịa. Đặc biệt, điểm mới của Luận văn này là tác giả tiến hành đi sâu vào
nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các vấn đề như cơ sở pháp lý của
luận tội, về nội dung và yêu cầu của bản luận tội, phương thức, kỹ năng luận
tội của Kiểm sát viên; các hạn chế, thiếu sót trong hoạt động luận tội của


Kiểm sát viên… khi thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
Luận văn cũng đưa ra các ý kiến đề xuất để hoàn thiện pháp luật liên quan
đến hoạt động luận tội, đồng thời tác giả cũng đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị cụ thể, nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố nói chung và
nâng cao chất lượng hoạt động luận tội nói riêng của Kiểm sát viên tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm theo yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra hiện nay.
3. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Tác giả chọn đề tài này với mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống
và tồn diện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về luận tội
và thực trạng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tồ hình sự. Từ
đó, tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động luận tội của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại các phiên tịa
hình sự sơ thẩm. Với mục đích nghiên cứu như ở trên, tác giả xác định đối
tượng nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề cơ bản sau đây:
Một là: Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý về luận tội và hoạt
động luận tội quy định trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành ở nước ta.
Hai là: Phân tích thực trạng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân các cấp từ năm 2008 đến hết tháng 6 năm 2012, từ đó rút ra
kết quả đã đạt được, những tồn tại hạn chế cần khắc phục và những nguyên
nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng luận tội, chất lượng
luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo u cầu cải cách
tư pháp hiện nay.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả xác định giới
hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về luận tội và phân tích thực
trạng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Với trọng
tâm nghiên cứu, phân tích kỹ năng xây dựng bản luận tội, kỹ năng luận tội
của Kiểm sát viên tại phiên tồ hình sự sơ thẩm, từ đó đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động luận tội của Kiểm sát
viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.


- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngồi ra trong q trình thực hiện nghiên cứu luận văn còn sử dụng các
phương pháp cụ thể như: phương pháp thu thập thơng tin số liệu, phương
pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh, phương pháp phỏng vấn trực tiếp
các Kiểm sát viên có nhiều năm cơng tác trong ngành để thu thập và đúc rút
thành kinh nghiệm phục vụ cho việc hoàn thành luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt
động luận tội nói riêng và thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét xử nói chung
cho đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, đơn vị khi
được giao chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà
toà xét xử vụ án hình sự sơ thẩm.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, biên soạn các chuyên đề, bài giảng
phục vụ giảng dạy các lớp Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát tại Trường Đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung của Luận văn được trình bày bố cục trong hai chương, cụ
thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận, pháp lý về luận tội trong tố tụng hình
sự Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng hoạt động luận tội và một số giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử vụ
án hình sự sơ thẩm.


1

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ LUẬN TỘI TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về luận tội
1.1.1 Khái niệm luận tội
Luận tội là thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong lĩnh vực tố tụng hình
sự ở trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, được các nhà nghiên cứu lý luận,
những người làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật, những người có liên
quan đến vụ án cũng như những người tham dự phiên tồ quan tâm. Từ
những góc độ nghiên cứu khác nhau mà khái niệm luận tội cũng được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa chung nhất “Luận tội là phân tích, cân nhắc để xét tội”1
Theo nghĩa pháp lý đơn thuần “Luận tội là phân tích tội trạng, đề nghị
kết tội bị cáo” 2
Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 thì luận tội được hiểu: Là văn bản
do Viện kiểm sát xây dựng trên cơ sở bản cáo trạng và những tài liệu, chứng

cứ đã được kiểm tra tại phiên toà, ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại
phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong luận tội, Kiểm sát viên đề
nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng đã truy tố
hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy khơng có căn cứ để kết tội bị cáo thì
rút tồn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo
khơng có tội.
Trong q trình thực hành quyền cơng tố và kiểm sát xét xử vụ án hình
sự, bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ phân tích, đánh giá các chứng cứ
trong vụ án hình sự, trên cơ sở đó Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền cơng tố trình bày quan điểm, thái độ của mình, đề
1

2

Viện Ngơn ngữ học (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB Lao động, Hà Nội, tr. 570.
Trường Đại học Hà Nội (2008), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, NXB Thanh niên, tr. 189.


2

nghị áp dụng pháp luật cụ thể đối với hành vi phạm tội của bị cáo, qua bản
luận tội còn góp phần tun truyền giáo dục, phịng ngừa tội phạm chung
trong xã hội. Trong phiên toà xét xử vụ án hình sự, khi Kiểm sát viên trình
bày luận tội là lúc mở đầu cho giai đoạn tranh luận tại phiên toà. Đây là giai
đoạn quan trọng thể hiện rõ nét nhất vai trò, bản lĩnh của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Lời luận tội
cũng chính là quan điểm của Viện kiểm sát đối với hành vi phạm tội, người
phạm tội, trên cơ sở đó mà những người tham gia tố tụng sẽ thực hiện các
quyền tố tụng của bản thân để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Qua phân tích, đánh giá các quan điểm về luận tội trên đây và từ thực

tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ
án hình sự, theo chúng tơi luận tội được hiểu: Là văn bản do Viện kiểm sát
xây dựng trên cơ sở bản cáo trạng và những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm
tra tại phiên toà, ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tồ nhằm
phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án, hành vi của bị cáo, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để từ đó xác định tội danh, hình
phạt và các biện pháp tư pháp khác áp dụng đối với người phạm tội.
Như vậy, luận tội là một trong những hoạt động thực hành quyền công
tố do Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tại phiên tồ hình sự,
là sự buộc tội chính thức của Viện kiểm sát nhân dân đối với bị cáo, thể hiện
quan điểm của Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án hình sự.
1.1.2. Cơ sở pháp lý của luận tội
Theo quy định tại Điều 17 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 thì khi thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình
sự, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến
việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;
- Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm;
- Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ
án tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.


3

Theo quy tại Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì về trình tự phát
biểu khi tranh luận tại phiên toà như sau:

- Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tịa, Kiểm sát viên trình bày lời
luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng
hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy khơng có căn cứ để kết tội thì rút tồn
bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo khơng có
tội.
- Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ
đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại
phiên toà.
Theo Điều 23 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 17/9/2007
đã quy định về trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc xây dựng và trình
bày bản luận tội tại phiên toà như sau:
- Trước khi tham gia phiên toà Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo
luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với vụ
án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động, bản dự thảo luận tội của
Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện duyệt và cho ý kiến.
- Tại phiên toà Kiểm sát viên phải ghi chép những tài liệu, chứng cứ đã
được kiểm tra và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự và những người tham gia tố tụng khác để bổ sung và sửa chữa
bản dự thảo luận tội.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi Kiểm sát viên trình bày luận tội, đề nghị
kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về
khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật
hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Luận tội của Kiểm sát viên chỉ căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được
kiểm tra tại phiên toà.
Như vậy việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà chỉ do Kiểm sát viên
của Viện kiểm sát nhân dân mới có thẩm quyền thực hiện và các quyền năng
này, được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân 2002 và tại Quy chế công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, ban hành ngày 17/9/2007 của Viện


4

kiểm sát nhân dân tối cao. Đó là cơ sở pháp lý về luận tội của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tồ hình sự.
1.1.3 Bản chất, giá trị pháp lý và ý nghĩa của luận tội
1.1.3.1. Bản chất của luận tội
Xét về tiến trình tố tụng thì luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo tại
phiên toà là hành vi pháp lý của Kiểm sát viên mà pháp luật quy định để
thực hiện chức năng buộc tội đối với bị cáo. Xét về mục đích, nội hàm của
nó thì luận tội là luận cứ, quan điểm của Viện kiểm sát do Kiểm sát viên
thực hành quyền cơng tố nhà nước trình bày tại phiên tồ về vụ án hình sự
nhằm làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, góp phần cùng với Hội
đồng xét xử giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
xảy ra oan sai cho người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm.
Như vậy, bản chất của luận tội không chỉ là các luận cứ, quan điểm
buộc tội bị cáo mà còn đề cập đến những nội dung gỡ tội cho bị cáo, nhằm
bảo vệ sự đúng đắn của cáo trạng. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên đưa ra các
kết luận, yêu cầu và đề nghị cụ thể với Hội đồng xét xử về tội danh, khoản,
điều của Bộ luật hình sự cũng như các biện pháp tư pháp cần áp dụng đối
với bị cáo.
- Sự khác nhau giữa bản luận tội và các văn bản pháp lý khác
Từ sự phân tích trên đây có thể rút ra nhận xét: bản luận tội, bản kết
luận điều tra, bản cáo trạng tuy là văn bản pháp lý, văn bản nghiệp do Cơ
quan tiến hành tố tụng ban hành theo quy định của pháp luật và có mục đích
chung là đấu tranh xử lý các hành vi phạm tội, nhưng giữa các văn bản này
có sự khác nhau căn bản như sau:

Bản kết luận điều tra: Theo quy định tại Điều 163 BLTTHS 2003 thì
khi có đầy đủ chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can, thì Cơ quan điều
tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và
quyết định đình chỉ điều tra. Bản kết luận điều tra trình bày diễn biến hành
vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm, những ý kiến đề
xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề nghị truy tố.
Như vậy, bản kết luận điều tra có hai nội dung: trình bày diễn biến hành
vi phạm tội nêu rõ các chứng cứ chứng minh và những ý kiến đề xuất cho
việc giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề nghị truy tố. Xét về giai


5

đoạn tố tụng, thì bản kết luận điều tra là căn cứ để xác định kết thúc giai
đoạn tố tụng điều tra do Cơ quan điều tra thực hiện.
Bản cáo trạng: Cáo trạng là văn bản pháp lý do Kiểm sát viên xây
dựng trình lãnh đạo Viện duyệt và ký ban hành nhằm truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội ra trước Toà án để xét xử.
Cáo trạng là văn bản pháp lý thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát về vụ án
hình sự, người thực hiện hành vi phạm tội. Nếu như bản kết luận điều tra chỉ
tập trung nêu các chứng cứ chứng minh tội phạm, thì bản cáo trạng phải ghi
cụ thể hơn và không chỉ nêu các chứng cứ buộc tội mà nêu cả các chứng cứ
gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ.
Cáo trạng được xây dựng trên cơ sở kết quả thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kết luận điều tra, là căn cứ để Toà án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, xác định thành phần của Hội đồng xét xử,
danh sách những người cần triệu tập đến phiên toà. Tại phiên toà, sau khi kết
thúc phần thủ tục phiên toà trước khi chuyển sang phần xét hỏi, Kiểm sát viên
phải đọc nguyên văn và toàn bộ cáo trạng do Viện trưởng, Phó viện trưởng
hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ký. Cáo trạng được lưu giữ

trong hồ sơ và phải tống đạt cho bị can.
Bản luận tội: Luận tội là văn bản nghiệp vụ do Kiểm sát viên viết để
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tồ (bản dự thảo luận
tội chỉ trình lãnh đạo Viện hoặc thủ trưởng đơn vị duyệt và cho ý kiến chỉ đạo
đối với những vụ án điểm, án phức tạp cịn có những ý kiến khác nhau và
những vụ án xét xử lưu động). Luận tội được viết trên cơ sở bản cáo trạng và
những tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà, ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham
gia tố tụng khác đưa ra trong phần xét hỏi. Sau khi kết thúc phần xét hỏi,
trước khi bước vào phần tranh luận, Kiểm sát viên trình bày bản luận tội đã
được chỉnh sửa, bổ sung trong phần xét hỏi. Luận tội được hoàn thiện sau khi
kết thúc phiên toà sơ thẩm và được lưu giữ trong hồ sơ kiểm sát.
Trên cơ sở trình bày diễn biến của hành vi phạm tội, nêu những chứng
cứ chứng minh tội phạm và hành vi phạm tội…như bản kết luận điều tra và
bản cáo trạng, bản luận tội cịn đi sâu phân tích tác hại của hành vi phạm tội
và nêu lên những bài học về phòng ngừa tội phạm và đề xuất mức hình phạt
cụ thể để Toà án xem xét, quyết định.


6

Xét về tiến trình của hoạt động tố tụng chúng ta nhận thấy, nếu như bản
kết luận điều tra là căn cứ để xác định cuộc điều tra đã kết thúc, thì bản cáo
trạng là sự mở đầu của một giai đoạn mới, giai đoạn truy tố, đó là giai đoạn
bắt đầu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Còn bản luận tội là thời điểm bắt đầu
giai đoạn tranh luận giữa Kiểm sát viên với người bào chữa, bị cáo, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Bản cáo
trạng và luận tội tuy có sự khác nhau căn bản như đã nêu ở trên nhưng cũng
có điểm giống nhau thể hiện ở chỗ: Cáo trạng và luận tội đều là sự buộc tội
của Viện kiểm sát nhân dân, là căn cứ để bị cáo, người bào chữa và những

người tham gia tố tụng khác tự bào chữa hoặc bào chữa, đồng thời cũng là căn
cứ để Hội đồng xét xử xác định giới hạn xét xử và ra bản án đúng pháp luật.
1.1.3.2. Giá trị pháp lý của luận tội
Theo quy định tại Điều 217 Bộ luật TTHS nếu xét về mặt hình thức,
thì sau khi Kiểm sát viên trình bày bản luận tội sẽ làm phát sinh giai đoạn
tranh luận giữa Kiểm sát viên và bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Đây được coi là giai
đoạn “đấu lý” quan trọng nhất, giai đoạn làm việc vất vả nhất của Kiểm sát
viên tại phiên tồ hình sự sơ thẩm.
Xét về mặt nội dung, thì bản luận tội không những là căn cứ để bị cáo,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham
gia tố tụng khác đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về tồn bộ nội dung vụ án
mà Viện kiểm sát đã truy tố trước Toà án, là cơ sở để Toà án xem xét, quyết
định trong việc đưa ra phán quyết của mình đối với người phạm tội và tồn bộ
vụ án theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Nội
dung của bản luận tội phải thể hiện được các phần chính sau:
- Phân tích, đánh giá các chứng cứ của vụ án một cách khách quan,
toàn diện, đầy đủ; đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, hậu quả xảy ra, vai trò trách nhiệm và nhân thân bị cáo, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để từ đó đề xuất biện pháp xử lý phù hợp; khi
nêu hành vi phạm tội phải viện dẫn chứng cứ chứng minh, bảo đảm lơgíc và
lập luận sắc bén.
- Phân tích, phê phán thủ đoạn phạm tội của bị cáo, bác bỏ những quan
điểm khơng có căn cứ, khơng phù hợp với thực tế khách quan của các chứng
cứ đã thu thập được nhằm làm sáng tỏ sự thật, góp phần bảo vệ chính sách


7

pháp luật, thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhượng và tính thuyết

phục cao của bản luận tội.
- Phải xác định rõ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tuyên truyền
giáo dục pháp luật, góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm, vi phạm
pháp luật. Bản luận tội phải phân tích, phê phán trước dư luận những nhận
thức sai trái của bị cáo, qua đó rút ra những bài học cảnh giác trong nhân dân
và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa để khắc phục những thiếu sót, sơ hở
trong cơng tác quản lý kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, khi nêu những nội dung
này phải bảo đảm phù hợp với thực tế và hoàn cảnh cụ thể của vụ án, tránh
cường điệu, lan man.
- Đề nghị áp dụng pháp luật để xử lý vụ án, trong đó có hình phạt
chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp, bồi thường thiệt hại (nếu có),
đảm bảo chính xác, khách quan theo các quy định của pháp luật.
1.1.3.3 Ý nghĩa của luận tội
- Luận tội nhằm bảo vệ quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân nhân
thể hiện trong Cáo trạng.
- Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà thể hiện quan điểm của Viện
kiểm sát trong việc xử lý đối với tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội,
xử lý vật chứng của vụ án và giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
- Luận tội là thủ tục bắt buộc được BLTTHS quy định mở đầu phần
tranh luận, là một trong những căn cứ quan trọng đối với Hội đồng xét xử
trước khi đưa ra phán quyết đối với vụ án.
- Thông qua luận tội, các nguyên nhân, điều kiện phạm tội được phân
tích và làm sáng tỏ, do đó có tác dụng lớn trong đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật, đồng thời giúp những người tham dự phiên toà
hiểu biết thêm về pháp luật, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Từ đó
nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và nâng cao trách nhiệm trong phòng
chống tội phạm.
- Làm tốt việc luận tội cũng chính là làm tốt chức năng thực hành
quyền cơng tố tại phiên tồ sơ thẩm hình sự; nâng cao vị trí, vai trị của Kiểm
sát viên tại phiên tồ. Luận tội có chất lượng, khơng bỏ lọt tội phạm, không

kết luận oan người vô tội là cơ sở để Kiểm sát viên (KSV) tranh tụng dân chủ
với luật sư, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.


8

1.1.4 Khái lược lịch sử các quy định của pháp luật Việt Nam về luận tội
Từ năm 1945 đến nay, tổ chức cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân
(VKSND) của nước ta đã trải qua những bước phát triển khác nhau phù hợp
với nhận thức, mức độ phát triển của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực
tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển
của Viện Kiểm sát nhân dân có thể được phân theo các giai đoạn lịch sử khác
nhau như sau: 3
1.1.4.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký ban hành nhiều sắc lệnh. Trong đó, sắc lệnh đầu tiên là Sắc lệnh
số 33A ngày 13/9/1945, tại Sắc lệnh này có quy định mỗi khi bắt người phải
thơng báo ngay cho ông Biện lý biết (tức là Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố)
và tại Sắc lệnh số 33C của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày
13/9/1945
quy định “
thực hiện chức năng buộc tội”
năng buộc tội. Tiếp theo, trong Sắc lệnh số 7/SL ngày 15/1/1946 đã quy định
cụ thể như sau: “Đứng buộc tội tuỳ quyết nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ
là một uỷ viên Quân sự hay một uỷ viên của ban trinh sát hoặc một nhân viên
của công tố viện do ông Chưởng lý tồ Thượng thẩm chỉ định”. Như vậy,
Cơng tố viện đã bước đầu được hình thành dưới sự quản lý, chỉ đạo, điều
hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, Sắc lệnh hoàn chỉnh đầy đủ nhất
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là Sắc lệnh số 13 ngày

24/1/1946 về Tổ chức Toà án (Ban tư pháp xã, Toà án sơ cấp, Toà án đệ nhị
cấp, Toà thượng thẩm) và tổ chức các ngạch Thẩm phán (ngạch Thẩm phán;
việc tuyển chọn, bổ nhiệm
Thẩm phán; quyền, nghĩa vụ của Thẩm phán). Có hai ngạch Thẩm phán
là ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà sơ
cấp; Thẩm phán đệ nhị làm việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm.
Thẩm phán đệ nhị cấp được chia ra làm hai chức vụ: các Thẩm phán xử án do

3

Nguồn tư liệu Lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân (2011) .


9

những năm đầu của chính quyền cách mạng đã được ghi nhận trong bản Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước ta, Hiến pháp năm 19464. Tại Chương VI về “Cơ
quan tư pháp” của Hiến pháp năm 1946 quy định “Cơ quan tư pháp của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có:
a) Tồ án tối cao;
b) Các Tồ án phúc thẩm;
c) Các Toà án đề nhị cấp và sơ cấp;
d) Các nhân viên Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm”.
Cần lưu ý rằng, tổ chức Chính phủ theo Hiến pháp năm 1946 có nét đặc
thù riêng biệt. Theo Điều 44 thì Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam
dân chủ cộng hồ, Phó Chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ
trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng. Như vậy, cơ cấu tổ chức bộ
máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1946 cho thấy cơ quan tư pháp có một vị
trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ quan thực hiện quyền công tố
và xét xử.

Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1959, Nhà nước ta không thành
lập cơ quan thực hành quyền công tố riêng. Trong cơ cấu Toà án, các Thẩm
phán được chia làm hai loại:
- Các Thẩm phán xét xử do Chánh án Toà án Thượng thẩm đứng đầu.
- Các Thẩm phán Công tố viên (Thẩm phán buộc tội) hợp thành một
đồn thể độc lập (Cơng tố viện) với các Thẩm phán xét xử do Chương lý đứng
đầu. Các Thẩm phán Cơng tố viên ở Tồ án đệ nhị cấp gọi là Biện lý, Phó
biện lý; ở Tồ thượng thẩm gọi là Chưởng lý, Phó chưởng lý, Tham lý. Thực
hành nhiệm vụ công tố trong việc hình, Thẩm phán Cơng tố viên được áp
dụng nhiều biện pháp trong q trình giải quyết vụ án và có nhiệm vụ thay
mặt Nhà nước buộc tội bị cáo tại phiên tồ. Trong việc hộ, Thẩm phán Cơng
tố viên bảo vệ quyền lợi của những người ởi tuổi vị thành niên, của các pháp
nhân hành chính và phải tham gia vào một số công việc khác theo quy định
của pháp luật.
Trong cơ cấu các Tồ án qn sự có một số công cáo uỷ viên đứng
buộc tội. Các công cáo uỷ viên trực tiếp đặt dưới quyền của các Bộ trưởng Bộ
Nội vụ, Bộ Tư pháp và tuân theo mệnh lệnh của cả hai Bộ trưởng này. Trong
4




10

Tồ án đặc biệt có một Uỷ viên Ban Thanh tra đặc biệt do Chính phủ lập ra để
đứng buộc tội. Uỷ viên Chính phủ là một quân nhân hoặc một nhân viên Bộ
Quốc phòng do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ định theo đề nghị của Cục
trưởng quân pháp.
Thực hiện cuộc cải cách tư pháp năm 1950, cùng với việc thành lập
Toà án nhân dân các cấp, tổ chức và hoạt động của Viện cơng tố cũng có sự

chuyển biến đáng kể. Theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, Viện cơng tố
có quyền kháng nghị cả bản án hay quyết định về dân sự của Tồ án. Mặt
khác, Thơng tư số 21/TTg ngày 7/6/1950 của Thủ tướng Chính phủ và Thông
tư liên bộ số 18/BKT-TT ngày 8/6/1950 của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp đã
quy định các Viện công tố địa phương phải chịu sự quản lý, chỉ đạo, điều
hành của Uỷ ban kháng chiến hành chính. Cụ thể là: “Uỷ ban các cấp điều
khiển Viện công tố trong địa hạt của mình, Uỷ ban kháng chiến hành chính có
thể ra mệnh lệnh cho Viện cơng tố. Đại diện Viện công tố phải tuân theo
mệnh lệnh của Uỷ ban”.
Vào cuối những năm 1950, tổ chức của Viện công tố lại được kiện toàn
và tăng cường một bước quan trọng. Thực hiện Nghị quyết ngày 29/4/1958
của Quốc hội khoá I và Nghị định số 256/TTg ngày 1/7/1959, Nghị định số
321/TTg ngày 2/7/1959 của Chính phủ, các Viện cơng tố được tổ chức thành
hệ thồng gồm Chính phủ, các Viện công tố đã được tổ chức thành hệ thống
gồm:
- Viện công tố Trung ương;
- Viện công tố thành phố, tỉnh;
- Viện cơng tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương;
- Viện công tố quan sự các cấp.
Viện công tố Trung ương thuộc Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn như
một bộ và các nhiệm vụ cụ thể như sau;
- Điều tra và truy tố tước Toà án những kẻ phạm pháp về hình sự;
- Giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của cơ
quan điều tra;
- Giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về
hình sự, dân sự và trong hoạt động giam giữ, cải tạo;
- Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có
liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.



11

Có thể nói, những quy định trên đây là bước phát triển quan trọng tổ
chức và hoạt động của Viện công tố, tiến tới việc thành lập Viện Kiểm sát
nhân dân vào giữa năm 1960.
1.1.4.2 Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Với thắng lợi của cuộc kháng chống thực dân Pháp và cùng với việc
xây dựng miền Bắc sau ngày giải phóng, Hiến pháp năm 19595 của nước Việt
Nam dân chủ cơng hồ ra đời. Những quy định về tổ chức bộ máy nhà nước
trong Hiến pháp năm 1959 có những sửa đổi căn bản so với Hiến pháp năm
1946. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Phó Chủ tịch nước được
tách ra khỏi Hội đồng Chính phủ, là người thay mặt cho Nhà nước về đối nội
và đối ngoại. Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất.
Viện cơng tố được thay thế bằng Viện Kiểm sát nhân dân. Viện Kiểm
sát nhân dân cùng với Toà án nhân dân là các cơ quan tư pháp, khơng cịn
trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội.
Khác với Hiến pháp năm 1959 xác định cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên cơ
quan nhà nước và công dân bao gồm: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các
Viện Kiểm sát nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự. Viện Kiểm sát
nhân dân các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện Kiểm sát Nhân dân tối
cao. Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 1959 thì Viện Kiểm sát nhân
dân các cấp được tổ chức thành một hệ thống nhất, độc lập với cơ quan xét xử
và cơ quan hành chính, chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội.
Nhưng quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của
Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân năm 1960. Theo quy định tại Điều 4 này thì các Viện
Kiểm sát nhân dân gồm có: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện Kiểm
sát nhân dân địa phương và các Viện Kiểm sát quân sự. Các Viện Kiểm sát

nhân dân địa phương gồm có: Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương; Viện Kiểm sát nhân
dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương,

5




12

Viện Kiểm sát nhân dân ở các khu vực tự trị. Viện Kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ và quyền hạn: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị
quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội
đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước và công dân; điều tra những việc
phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà án nhân dân những người phạm
pháp về hình sự; kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan
Công an và của cơ quan điều tra khác; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc xét xử của Toà án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của trại giam; khởi tố hoặc tham
gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước
và của nhân dân.
Triển khai thực hiện Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, sau một thời
gian ngắn, Viện Kiểm sát nhân dân đã được tổ chức thành một hệ thống từ
Trung ương đến các đơn vị hành chính cấp huyện, hoạt động theo nguyên tắc
trung thống nhất dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao. Trong thời gian này, tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sat không
ngừng được củng cố và do đó đã góp phần tích cực vào việc giữ vững trật tự,
kỷ cương, an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, góp

phần quan trọng vào cơng cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
1.1.4.3 Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Nhà nước ta đã ban hành Hiến
pháp năm 1980. So với Hiến pháp năm 1959 thì vai trị, vị trí của Viện Kiểm
sát nhân dân đã được khẳng định rõ hơn và có những điểm bổ sung mới trong
Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1980 đã nhấn mạnh đến chức năng
“Thực hành quyền công tố” của Viện Kiểm sát, đồng thời đã đề cao vai trò và
trách nhiệm của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Điều 140 Hiến
pháp năm 1980 quy định:
Viện Kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao.


×