Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---------------------------------------

LÊ THỊ HIẾU THẢO

THẨM QUYỀN CHỨNG THỰC CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG, XÃ, THỊ TRẤN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. Hồ Chí Minh – năm 2007

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---------------------------------------

LÊ THỊ HIẾU THẢO

THẨM QUYỀN CHỨNG THỰC CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG, XÃ, THỊ TRẤN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chun ngành : Luật hành chính
Mã số : 60.38.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học :
Tiến sĩ NGUYỄN ĐỨC CHÍNH

TP. Hồ Chí Minh – năm 2007

2


MỤC LỤC
- Phần mở đầu :

Trang5-9

Chương 1 : Công chứng, chứng thực
1.1/ Nguồn gốc và quá trình phát triển

Trang 10-29

1.1.1/ Công chứng Pháp ở Đông Dương giai đoạn
1858-1954

Trang 10-12

1.1.2/ Công chứng, chứng thực giai đoạn
1945-1975

Trang 12-17

1.1.3/ Công chứng giai đoạn 1975-1986


Trang 17-18

1.1.4/ Tổ chức công chứng giai đoạn đổi mới

Trang 18-29

1.2/ Nguồn gốc hình thành thẩm quyền chứng thực
của Ủy ban nhân dân

Trang 29-59

1.2.1/ Vị trí, tính chất pháp lý của Ủy ban nhân dân Trang 29-34
1.2.2/ Thẩm quyền chứng thực Ủy ban nhân dân
qua các giai đoạn

Trang 34-49

1.2.3/ Thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân
Phường, xã, thị trấn tại thành phố Hồ Chí Minh Trang 49-59
1.3/ Khái niệm công chứng và chứng thực

Trang 59-80

1.3.1/ Khái niệm công chứng

Trang 59-67

1.3.2/ Khái niệm chứng thực

Trang 67-80


Chương 2 : Thực trạng hoạt động chứng thực của y ban nhân dân phường,
xã, thị trấn tại thành phố Hồ Chí Minh
2.1/ Khái quát một số đặc điểm hành chính của
thành phố Hồ Chí Minh

Trang 81-83

2.2/ Thực trạng thực hiện các việc chứng thực tại phường
xã, thị trấn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Trang 84-92

2.3/ Thực trạng về đội ngũ cán bộ làm công tác chứng thực
tại Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn
2.4/ Thực trạng về quản lý nhà nước trong công tác chứng
3

Trang 92-96


thực tại y ban nhân dân phường, xã, thị trấn

Trang 96-97

- Chương 3 : Một số kiến nghị
3.1/ Kiến Nghị

Trang 98-104


3.2/ Một số giải pháp

Trang 104-105

Kết luận :

Trang 106-108

- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục : Kết quả công chứng, chứng thực trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 2000 đến năm 2006.

4


Phần mở đầu
1/ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI :
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc chuyển đổi nền kinh tế từ nền
kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghóa.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
các quan hệ kinh tế, dân sự. . . phát triển mạnh mẽ, theo đó các giao dịch
trong lónh vực kinh tế, dân sự cũng phát triển và đòi hỏi sự đảm bảo an toàn
pháp lý cho các giao dịch giữa các công dân với công dân, công dân với tổ
chức. Nếu các giao dịch phát sinh trong đời sống xã hội mà không có hướng
dẫn, quản lý của Nhà nước thì sẽ dễ dàng phát sinh các tranh chấp, các vi
phạm pháp luật sẽ xảy ra nhiều, gây khó khăn, thiệt hại cho cá nhân, cơ
quan, tổ chức hoặc Nhà nước. Trước yêu cầu mang tính khách quan của nền

kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, đáp ứng yêu cầu
của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và đảm bảo
an toàn pháp lý cho các giao dịch từ năm 1991 đến nay, Nhà nước ta đã ban
hành 3 Nghị định và Thông tư hướng dẫn về tố chức và hoạt động công
chứng, chứng thực : Ngày 27/02/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định số 45/HĐBT quy định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà
nước, ngày 15/8/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP ( thay thế
cho Nghị định số 45/HĐBT ), song song đó Bộ Tư pháp ban hành Thông tư
1411/TT-CC ngày 03/10/1996 hướng dẫn thi hành Nghị định số 31/CP và
Thông tư 1411/TT-CC và một số văn bản pháp luật khác quy định về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta đã quy định về các vấn
đề như khái niệm công chứng, chứng thực. Tuy nhiên về lý luận và thực
tiễn chúng ta còn lẫn lộn nhiều giữa công chứng và chứng thực, gây không
ít phiền hà cho nhân dân và các cơ quan tổ chức, đđồng thời cho chính bản
thân cán bộ thực hiện công tác công chứng, chứng thực.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức về công
chứng, chứng thực góp phần phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất
5


nước, đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động công
chứng, thứng thực, tiếp tực cải cách hành chính trong lónh vực công chứng,
chứng thực, ngày 08/12/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực và Thông tư số 03/2001/TT-CC
ngày 14/3/2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghi định số
75/2000/NĐ-CP. Chính những văn bản pháp luật này ra đời đã giải quyết
được phần nào những bức xúc trong đời sống xã hội.
Để nâng cao tính chất chuyên nghiệp hơn nữa về công chứng Quốc
hội Khóa X cũng đã thông qua Luật Công chứng có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 7 năm 2007. Luật công chứng đảm bảo an toàn chặt chẽ

trong các giao dịch, hạn chế các tranh chấp, khiếu nại, lừa đảo. Riêng về
chứng thực chỉ là hoạt động mang tích chất hành chính, không chuyên
nghiệp. Vào ngày 18/05/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính,
chữ ký. Đây cũng là bước đột phá lớn trong cải cách hành chính.
Chính việc ra đời của Luật Công chứng và Nghị định về chứng thực
sẽ giúp cho chúng ta không còn lẫn lộn giữa công chứng và chứng thực,
đồng thời những nội dung được đề cập trong Luật, Nghị định và các văn bản
quy định về vấn đề công chứng, chứng thực sẽ giúp chúng ta nắm rõ được
thẩm quyền thực hiện công chứng, chứng thực. Các chủ thể có thẩm quyền
thực hiện công chứng, chứng thực sẽ đáp ứng một cách có hiệu quả các yêu
càu công chứng của công dân, cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, song trong thực tế trong quá trình thực hiện các việc công chứng,
chứng thực các chủ thể này gặp không ít khó khăn. Các chủ thể khác nhau
gặp phải những khó khăn khác nhau trong quá trình thực hiện công chứng,
chứng thực. Điều đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu công phu để tìm ra biện
pháp khắc phục.
Trước tình hình đó tôi chọn đề tài “Thẩm quyền chứng thực của Ủy
ban nhân dân phường, xã, thị trấn tại thành phố Hồ Chí Minh” để làm
luận văn tốt nghiệp cao học, góp phần đưa công tác chứng thực nâng lên
một bước, chuyên nghiệp hơn.
2/ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU :
6


Nghiên cứu về chẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân phường,
xã, thị trấn nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là một vấn đề
mới, trước đó không có những công trình khoa học nghiên cứu về lónh vực
thẩm quyền chứng thực này, mà chỉ có những công trình nghiên cứu ở cấp
Bộ, các đề tài nghiên cứu, hội nghị chuyên đề, các báo, các ngành vềø công

chứng như : “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức
hoạt động công chứng ở Việt Nam” – Đề tài cấp Bộ, mã số 92-98-224, năm
1993 do Viện Nghiên cứu khoa học thực hiện; “Chuyên đề công chứng” do
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp xuất bản năm 1995;
“Chuyên đề công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hướng theo
mô hình công chứng Latinh” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư
pháp xuất bản năm 2005 và một số cơng trình khác. Nội dung các công trình
nghiên cứu khoa học nêu trên mang tính tổng quát đặc thù về tổ chức và
hoạt động công chứng Nhà nước ở nước ta. Trong khi đó nghiên cứu thẩm
quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân ít được đề cập, chưa có nghiên cứu
chuyên sâu và cũng mới mẻ. Chính vì vậy tôi thấy cần nghiên cứu những
vấn đề trên qua đó nêu được thực trạng – giải pháp, tuy là đề tài nghiên
cứu một vấn đề hẹp trong lónh vực tổ chức và hoạt động chứng thực của Ủy
ban nhân dân phường, xã, thị trấn nhưng nó là vấn đề đang được công dân,
cơ quan nhà nước và các tổ chức quan tâm.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi cũng gặp một số khó
khăn, vướng mắc về thuật ngữ, cơ cấu tổ chức, địa vị pháp lý của Ủy ban
nhân dân phường, xã, thị trấn qua mỗi thời kỳ. Tuy nhiên thông qua việc
nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã tìm ra được những thuận lợi, khó khăn
của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn trong việc thực hiện các việc
chứng thực và đề xuất một số biện pháp khắc phục, kiến nghị trong vấn đề
thực hiện các việc chứng thực.
3/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Qua mỗi thời kỳ phát triển đất nước, Nhà nước đã ghi nhận thẩm
quyền của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn trong việc thị thực, nhận
thực, chứng thực tại các văn bản pháp luật khác nhau, và đó là cơ sở, nguồn
gốc cho sự hình thành phát triển tổ chức và hoạt động chứng thực sau này.
Trong công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước hiện nay, cải cách tổ
chức và hoạt động tư pháp đang được Đảng và Nhà nước rất quan taâm,
7



trong đó có cải cách về tổ chức và hoạt động chứng thực. Việc đổi mới tổ
chức và hoạt động chứng thực được tiến hành với phương châm đổi mới
từng bước vững chắc, nhằm góp phần thiết thực vào cải cách hành chính và
cải cách tư pháp, giảm bớt phiền hà cho nhân dân.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đô thị lớn, là trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của cả nước. Việc giao dịch
dân sự của người dân tại thành phố diễn ra rất lớn, các Phòng công chứng,
Ủy ban nhân dân quận, huyện quá tải trong vấn đề công chứng, chứng thực
cho nhân dân. Chính vì vậy vào năm 2005 thành phố Hồ Chí Minh là địa
phương đầu tiên được Chính phủ và Bộ Tư pháp cho phép thí điểm việc
phân cấp cho Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn được thực hiện chứng
thực bản sao giấy tờ, văn bản (Quyết định số 55/2005/QĐ–UB ngày 01
tháng 04 năm 2005 của y ban nhân dân thành phồ Hồ Chí Minh) ) đây là
một bước đột phá lớn giao thêm thẩm quyền chứng thực cho Ủy ban nhân
dân phường, xã, thị trấn tại thành phố Hồ Chí Minh. Việc thí điểm phân cấp
này là hoàn toàn đúng và hợp lòng dân và phù hợp với điều kiện đất nước
trong quá trình hội nhập. Góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển của
đất nước nói chung và thành phố nói riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích so sánh một cách tổng quát có hệ
thống các văn bản pháp luật của Nhà nước qua các thời kỳ chúng tôi muốn
khẳng định thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân có sự khác nhau
và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác nhau của Nhà nước;
Việc nghiên cứu các Sắc lệnh trước đây do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban
hành quy định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong việc thị thựcđđã góp
phần trong việc nghiên cứu thẩm quyền của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị
trấn trong việc thực hiện các việc chứng thực. Các quy định hiện hành là sự
tiếp thu, kế thừa và phát triển những nhân tố phù hợp trong việc giao quyền
cho Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn trong lónh vực thực hiện các việc

chứng thực.
4/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Đề tài “ Thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị
trấn tại thành phố Hồ Chí Minh ” được nghiên cứu bằng các phương pháp
8


duy vật lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp
thống kê nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5/ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN :
Luận văn cung cấp cho những người quan tâm đến vấn đề công
chứng, chứng thực, thực trạng hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân
phường, xã, thị trấn tại thành phố Hồ Chí Minh, một số kiến nghị về việc
thực hiện thẩm quyền của Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn trong lónh
vực chứng thực, mắt khác góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân phường, xã
thị trấn ở nước ta.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN :
Luận văn gồm :
- Phần mở đầu
- Chương 1 : Công chứng và chứng thực
- Chương 2 : Thực trạng chứng thực của Ủy ban nhân dân phường,
xã, thị trấn tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Chương 3 : Một số kiến nghị
- Phần kết luận.

9


Chương 1

CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC
1.1/ Nguồn gốc và quá trình phát triển :
1.1.1 Công chứng Pháp ở Đông dương giai đoạn 1858 – 1954 :
* Thành lập thể chế công chứng ở Đông dương :
Vài năm sau khi quân Pháp đến Đông dương, Sắc lệnh ngày
25/7/1864 đã sáng lập thiết chế công chứng ở Đông dương. Hoạt động công
chứng đã được giao cho các công chức ở nhiều cơ quan khác nhau. Điều 35
của sắc lệnh này thiết lập một tổ chức kép : ở Nam Ky,ø lục sự của toà
thượng thẩm và toà sơ thẩm của Sài Gòn phải thực hiện trong phạm vi thẩm
quyền địa hạt của hai tòa này các chức năng của công chứng viên; ngoài
phạm vi này việc công chứng được giao cho những viên chức hay những
công chứng do viên toàn quyền chỉ định. Sắc lệnh thứ hai, liên quan đến
Nam Kỳ, được ban hành ngày 22/9/1869 tách chức năng của công chứng
viên khỏi chức năng của lục sự và Ủy quyền cho toàn quyền Đông dương tổ
chức ngành công chứng thông qua ban hành một quy định. Các chức năng
công chứng được giao cho các viên chức cấp bộ do Bộ trưởng Bộ Hải quân
và thuộc địa bổ nhiệm, Hai công chứng viên người Pháp cũng được bổ
nhiệm. Nghị định của viên toàn quyền thực hiện sắc lệnh này, được ban
hành ngày 07/6/1870 quy định chế độ ban đầu của ngành công chứng ở
Nam Kỳ. Trong đó quy định phòng công chứng không được chuyển nhượng
và trong bất kỳ điều kiện nào cũng không được thanh lý phòng công chứng
bằng tiền hay bằng hình thức giá trị khác.
Sắc lệnh ngày16/2/1921 quyết định thành lập phòng công chứng ở Hà
Nội. Điều 26 quy định “ Để bù đắp sự thụ hưởng miễn phí cơ sở vật chất,
tổng thu nhập của công chứng viên sẽ được khấu trừ định kỳ các khoản
tiền sau. . . để trả cho ngân sách địa phương của thuộc địa nơi họ hành
nghề. . . ” Nghị định về tổ chức công chứng do viên Toàn quyền ban hành
ngày 30/01/1924 quy định cho công chứng viên quyền giới thiệu người thừa
kế của họ để Chính phủ xem xét chấp thuận, tuy nhiên nó cũng bị phản đối.
* Quy chế công chứng Đông dương :

Giai đoạn năm 1930 – 1954 , ngành công chứng Đông dương được
điều chỉnh bởi hai sắc lệnh. Sắc lệnh ban hành ngày 24/8/1931 đã quy định :
10


“Ở Đông dương trong phạm vi địa hạt nơi họ hành nghề, các công chứng
viên là công chức có nhiệm vụ nhận tất cả văn bản và hợp đồng mà một
người Châu âu và người được coi như người Châu âu, người thuộc quyền tài
phán của toà án Pháp, phải và muốn công chứng do văn bản của chính
quyền quy định; Công chứng viên phải đảm bảo ngày tháng chính xác của
các văn bản và hợp đồng, giữ gìn bản lưu và cấp các bản sao công chứng.
Ngoài ra, công chứng viên có thể thực hiện các chức năng đó đối với
những người bản xứ trong phạm vi địa hạt của mình, thuộc hay không thuộc
quyền tài phán của các toà án Pháp. Trong những trường hợp này, các quy
định của pháp luật và các tập quán bản xứ được áp dụng với những chứng
thư này, trừ khi các bên tuyên bố chính thức và muốn giao kết hợp đồng theo
Luật của Pháp và họ được phép lựa chọn như vậy. Tuy nhiên người bản xứ
vẫn có quyền xin chứng thực các chứng thực của họ theo tập quán, bởi các
chính quyền bản xứ của làng họ nơi được phép thực hiện công chứng”.
- Điều 5 Sắc lệnh này quy định thẩm quyền của công chứng viên
trong toàn bộ phạm vi địa hạt của tòa phúc thẩm nơi họ cư trú, trong khi lục
sự, thư ký chỉ có thể thực hiện chức năng công chứng theo quy định tại Điều
200 Sắc lệnh 16/02/1921 được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 05/5/1928 về việc
hủy bỏ và thay thế nhiều điều khoản. Trong Sắc lệnh có quy định : “Ngoài
phạm vi địa hạt tư pháp nơi có những nhiệm vụ công chứng đặc biệt, các
lục sự của tòa sơ thẩm và của các cơ quan hòa giải có thẩm quyền mở rộng,
cũng như của các tòa lâm thời, tiếp tục thực hiện các chức năng của công
chứng viên”.
- Sắc lệnh ngày 27/01/1933 đưa ra những điều sửa đổi cho 4 điều luật
của sắc lệnh trước đó và Sắc lệnh ngày 16/5/1935 điều chỉnh sự kiểm tra kế

toán của các công chứng viên và của các lục sự thực hiện chức năng của
công chứng ở Đông dương.
Số lượng công chứng viên mà các văn bản này điều chỉnh luôn giữ ở
mức rất nhỏ dường như nó không bao giờ vượt quá tổng cộng 5 người. Bộ
trưởng quan hệ với các nước liên hiệp đã trả lời câu hỏi của ông Leon
NoeeL lo ngại về khả năng thực hiện các giao dịch ở Việt Nam, các chức
năng lục sự – Công chứng viên đã bị xóa bỏ bởi các thỏa thuận Pháp – Việt
, rằng đúng là các thỏa thuận Pháp – Việt đã không giao chức năng công
chứng cho lục sự của các tòa án hỗn hợp. Tại thời điểm này tồn tại 3 công
chứng viên người Pháp ở Hà Nội, có thẩm quyền nhận ủy quyền để thực
11


hiện một hợp đồng mua bán bất động sản ở Pháp. Chưa có công chứng viên
người Việt Nam.
1.1.2/ Công chứng, chứng thực giai đoạn 1945 – 1975 :
Cách mạng tháng 8 thành công năm 1945, bộ máy nhà nước thực dân
phong kiến bị đập tan, cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới,
ngày 01/10/1945 Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Chính phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa đã ký nghị định bãi chức công chứng viên người Pháp hoạt động
tại phòng công chứng ở Hà Nội, đồng thời bổ nhiệm một công chứng viên
là người Việt Nam làm công chứng tại Hà Nội (ông Lê Quý Vó, cử nhân
luật, luật sư tập sự tại tòa thượng thẩm ở Hà Nội). Tuy nhiên các quy định
cũ về công chứng vẫn được tiếp tục thi hành, trừ những khỏan không phù
hợp với nền độc lập và chính thể dân chủ Cộng hòa Việt Nam. Nhưng thực
tế, văn phòng công chứng của ông Vó có rất ít thời gian hoạt động vì những
biến đổi của tình hình chính trị và bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp từ năm 1946 đến năm 1954.
* Sắc lệnh về việc ấn định thể lệ thực hiện các giấy tờ :
Ngày 13/11/1945, Chủ Tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm

thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh 59/SL về
ấn định thể lệ thị thực các giấy tờ. Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao của
Chính phủ Cách mạng lâm thời được ban hành để xác định bốn vấn đề cơ
bản sau :
- Những người có thẩm quyền thị thực :
“Trong các làng, quyền thị thực các giấy tờ, trước ở hương chức trong
làng thi hành, nay thuộc về Ủy ban nhân dân của làng.
Ở các thành phố, quyền thị thực trước do Trưởng phố hay Hộ phố thi
hành, nay cũng thuộc về ủy ban nhân dân hàng phố.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân sẽ phụ trách việc thị thực này, và phải đề
cử một hay hai Ủy viên để thay mình khi vắng mặt, hoặc khi chính mình là
người đương sự có giấy tờ cần đem thị thực, hoặc khi người đương sự đối với
mình có quan hệ thân thuộc về trực hệ như cha mẹ, ông bà, vân vân, hay bàng
hệ bày vai, chú bác, cơ dì, anh em ruột và anh em thúc bá, hay là đối với mình
là bố mẹ ni hay con ni.
Riêng ở các thành phố, chữ thị thực của Ủy ban các phố phải có thêm
Ủy ban nhân dân thị xã chứng nhận. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã sẽ trực
12


tiếp phụ trách về việc chứng nhận này, hoặc cử một ủy viên phụ trách thay
mình.” (1)
- Phạm vi thẩm quyền địa hạt :
“Các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy tờ trong địa phương
mình, bất kỳ người đương sự làm giấy má ấy thuộc về quốc tịch nào.
Tuy nhiên, Ủy ban thị thực phải là Ủy ban ở trú quán một bên đương
sự lập ước, và việc bất động sản phải là Ủy ban ở nơi sở tại bất động sản. Nếu
có nhiều bất động sản ở nhiều nơi khác nhau, thì giấy tờ làm ra về nhữngbầt
động sản ấy do Ủy ban nhân dân mỗi nơi thị thực.” (2)
- Trách nhiệm của người thị thực :

“Các Ủy ban thực hiện thị thực phải chịu trách nhiệm về việc thị thực
không đúng về căn cước người đương sự, ngày tháng thị thực và quyền sở
hữu trên bất động sản đem bán hay cầm cố. Nếu xảy ra thiệt hại đến tư nhân
vì sự thị thực khơng đúng, công quỹ của làng hay của thành phố phải bồi
thường” (3)
- Lệ phí thị thực :
“Cho phép các Ủy ban thị thực được thu một số tiền lệ định như sau
này để sung vào công quỹ của làng hoặc của thành phố.
A- Thị thực các khế ước chuyển dịch bất động sản :
Từ 1đ00 đến 1.000đ00 : 1%
- 1.000.01 - 2.000.00 : 0,75%
- 2.000.01 - 4.000.00 : 0,50%
- 4.000.01 - 10.000.00 : 0,25%
- 10.000.01 trở lên

: 0.10%

Tiền lệ sẽ tính theo giá bất động sản biên trong khế ước. Nếu là khế ước
đổi bất động sản laãn cho nhau, thì sẽ tính tiền lệ theo giá của bất động sản to
nhất.
B- Thị thực các khế ước khác :
Nhất luật lấy một tiền tệ là 1 đồng bạc mỗi khế ước dù khế ước làm
thành bao nhiêu bản cũng vậy”. (4)
(1), (2), (3), (4) Điều thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư của Sắc lệnh 59/SL ngày
13/11/1945 của Chính phủ lâm thời.
13


* Sắc lệnh 85/SL quy định thể lệ trước bạ về mua, bán , cho, đổi
nhà cửa ruộng đất :

Theo Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, sau khi được Ủy ban
thường trực Quốc hội chấp thuận, ngày 29/02/1952 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh 85/SL quy định thể lệ trước bạ về việc mua, bán , cho, đổi
nhà cửa, ruộng đất. Theo đó thẩm quyền chứng thực các giấy tờ liên quan
đến chuyển dịch bất động sản, đất đai giao cho Ủy ban Kháng chiến hành
chính các cấp thực hiện thủ tục đăng ký và nộp thuế trước bạ.
Các hợp đồng mua bán, tặng cho và đổi nhà ở, ruộng đất bắt buộc
phải được thị thực trước bạ rồi mới sang tên trong sổ địa chính và sổ thuế.
Việc chuyển dịch các tài sản khác được miễn thuế trước bạ, người phải nộp
thuế là người mua nhà cửa, ruộng đất hoặc người được nhận nhà cửa, ruộng
đất của người khác cho hay hoán đổi cho mình. Đối với các việc hoán đổi
bất động sản, người nhận nhà cửa, ruộng đất nào, thì phải đóng thuế trước
bạ vào nhà cửa, ruộng đất ấy. Trước khi làm thủ tục đăng ký trước bạ, văn
bản phải trình Ủy ban Kháng chiến hành chính cấp xã hay huyện chứng
thực chữ ký của người mua, bán, cho, nhận, đổi.
“Thuế trước bạ ấn định là 8% tính vào thời giá các nhà cửa, ruộng đất
đem bán, cho hay đổi. Đặc biệt được miễn thuế, nhưng vẫn phải nộp trước bạ
đối với các văn tự thuộc nhà cửa, ruộng đất đã bán đổi; các văn tự cho nhà
cửa ruộng đất giữa vợ chông và giữa ông bà, cha mẹ và con cháu” (1).
Trị giá tài sản do người nộp thuế khai trong văn bản và do cơ quan
thu thuế kiểm soát và ấn định lại, nếu thấy cần thiết. Nếu người nộp thuế
cho rằng thời giá do cơ quan thu thuế ấn định lại cao quá, thì có thể khiếu
nại tại Ủy ban Kháng chiến hành chính cấp tỉnh, nhưng trong khi chờ đợi
quyết định của cấp tỉnh phải nộp ngay số thuế tính theo giá đã khai trong
văn bản. Nếu sau này giá do Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh ấn định
giá cao hơn giá đã khai trên 20% thì phải nộp thêm thuế và một khoản phạt
ngay với số thuế nộp thêm. Nếu không quá 20% thì phải nộp thêm thuế mà
không phải phạt.
Sau khi được thị thực đương sự phải đem văn bản đi làm thủ tục trước
bạ trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày ký văn bản. Văn bản để quá hạn

bốn tháng mới trước bạ, thì người nộp thuế phải nộp thêm một khoản phạt
(1) Điều 4 Sắc lệnh 85/SL ngày 29/02/1952 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa.
14


bằng nửa số thuế, nếu không có lý do chính đáng cơ quan thu thuế sẽ xét lý
do vi phạm trước bạ chính đáng hay không.
Đây là hai văn bản được xem là nền tảng ban đầu cho việc công chứng,
chứng thực ở nước ta, quy định bản chất, trình tự thủ tục các việc nhận thực,
chứng thực (công chứng, chứng thực sau này). Với việc ban hành và áp dụng
hai Sắc lệnh trên đây một số việc chứng nhận các giấy tờ được giao cho Ủy
ban Kháng chiến hành chính các cấp. Trong những năm vừa xây dựng Chủ
nghóa xã hội, vừa tiến hành chiến tranh chống Mỹ, thẩm quyền này thuộc
về Ủy ban hành chính các cấp. Các Sắc lệnh trên đã phát huy được tác
dụng góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tuy nhiên nó chưa đủ cơ sở
để giải quyết được toàn diện các vấn đề về tổ chức cũng như hoạt động
công chứng và nhiều hạn chế khác như : Nhiều việc công chứng cần thiết
chưa được quy định, không có cơ quan và viên chức chuyên trách thực hiện
công chứng; thẩm quyền công chứng chưa được quy định rõ, quy định về
việc chứng nhận công chứng còn sơ sài và chưa cụ thể; trình tự và thủ tục
thực hiện công chứng chưa được quy định rõ nên việc giải quyết còn tùy
tiện.
Ở Miền Bắc theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thời kỳ này,
hình thức công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu, quyền sở hữu đất đai
thuộc về toàn dân, cá nhân chỉ được Nhà nước giao quyền sử dụng đất. Các
giao dịch kinh tế chủ yếu được xác lập giữa các tổ chức kinh tế của nhà
nước, của tập thể và được kế hoạch hóa. Cả nước tập trung cho hai nhiệm
vụ chiến lược lúc bấy giờ là bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng CNXH
ở Miềm Bắc và đấu tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Sở

hữu tài sản tư nhân về tư liệu sản xuất không được thừa nhận; nhu cầu giao
dịch giữa các cá nhân trong các lónh vực dân sự, kinh tế, thương mại đều rất
kém phát triển. Do vậy, các nhu cầu về công chứng, thị thực không thực sự
bức xúc. Ở Ủy ban hành chính cấp cơ sở, các công chứng chỉ được giao
kiêm nhiệm việc thị thực đơn giản hoàn toàn theo tính chất và thủ tục, trình
tự quản lý hành chính.
* Thể chế công chứng của chính quyền Ngô Đình Diệm :
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khi thực dân Pháp chính thức rút
khỏi Miền Nam Việt Nam, cũng là lúc các công chứng viên người Pháp ở
Sài Gòn chấm dứt hoạt động, các hoạt động công chứng, thị thực vốn được
duy trì rất bài bản nay gặp rất nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng này
và để giài quyết các nhu cầu của xã hội, ngày 29/11/1954 Ngô Đình Diệm
15


ký ban hành Nghị định số 43 về Quy chế công chứng – Một văn bản về tổ
chức và hoạt động công chứng mang tính kế thừa các quy định về công
chứng tại Miền Nam trước đó và bị ảnh hưởng rất nhiều từ mô hình công
chứng của Pháp.
Theo Nghị định này, trong quản hạt của mỗi toà án sơ thẩm hoặc tòa
rộng quyền, được thành lập một phòng công chứng (trước đây gọi là phòng
Chưởng khế) theo đề nghị của Bộ Tư pháp. Ngày mở phòng công chứng sẽ
do nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định. Tuy nhiên, trong khi chờ
mở toà án sơ thẩm hoặc tòa rộng quyền có một phòng công chứng trong
phạm vi quản hạt, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể tạm thời ra quyết định, quy
định thẩm quyền quản hạt của một phòng công chứng. Quản hạt này có thể
bao gồm : Quản hạt của nhiều tòa sơ thẩm hoặc tòa rộng quyền. Công
chứng viên (chưởng khế) có nhiệm vụ :
+ Lập tất cả những văn kiện và hợp đồng mà những đương sự buộc
phải làm;

+ Lập tất cả những văn kiện và hợp đồng mà các đương sự muốn có
tính đích thực y như các văn kiện do cơ quan công quyền lập;
+ Xác định ngày tháng chính xác của các văn kiện và hợp đồng được
lập giữa các bên tham gia;
+ Bảo quản những văn kiện này;
+ Cấp bản sao các văn bản công chứng;
Công chứng viên, thư ký công chứng, thư ký hành chính được bổ
nhiệm bằng quyết định của Bộ trưởng Tư pháp. Ngoài ra, tùy theo nhu cầu
công vụ những nhân viên trước kia đã làm việc tại phòng công chứng của
Pháp cũ có thể được tuyển dụng với tư cách nhân viên hợp đồng hay công
nhật để giúp việc tại phòng công chứng.
Về điều kiện cần thiết để được bổ nhiểm làm công chứng viên, Nghị
định quy định muốn được bổ nhiệm làm công chứng viên tập sự, đương sự
phải hội đủ các tiêu chuẩn : Có quốc tịch Việt Nam; có ít nhất là 25 tuổi; có
bằng cử nhân hay tiến sỹ luật khoa hoặc tốt nghiệp một khoá học công
chứng được chính phủ công nhận; chưa bị can án lần nào và được hưởng các
công quyền, dân quyền và gia quyền; trúng tuyển một kỳ thi nhập ngạch
mà điều kiện tổ chức và chương trình thi sẽ do quyết định của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp; đã làm tròn nhiệm vụ quân dịch.
16


Người được bổ nhiệm làm công chứng viên được xếp ngạch mới với
mức lương tương đương với mức lương cơ bản của họ ở ngạch cũ, thâm niên
cũ của họ vẫn được giữ nguyên. Nếu mức lương hai ngạch cũ và mới không
được tương đương thì đương sự sẽ được xếp theo mức ở liền trên ngạch công
chứng viên nhưng lại mất thâm niên đã có trong ngạch cũ.
Các công chứng viên bắt buộc phải nộp một khoản tiền ký quỹ, để
đảm bảo lỗi lầm vi phạm trong khi làm nhiệm vụ mà gây ra thiệt hại. Trước
khi tuyên thệ, công chứng viên phải đóng góp số tiền ký quỹ, nếu không thì

sẽ bị coi như từ chức. Tiền ký quỹ nêu ở trên đây được ấn định trong
khoảng từ 10.000 đến 30.000 đồng bạc tùy theo tầm quan trọng của phòng
công chứng, tiền ký quỹ này phải được đóng bằng tiền mặt vào tài khoản
ngân khố. Ngồi địa phận các thành phố hay tỉnh lỵ nơi một công chứng
viên có đặt Phòng công chứng, các viên chức ở thị xã hay thị trấn vẫn còn
quyền thị thực các hợp đồng theo quy định hiện hành, những điều khoản
trong quy chế chung của công chức không trái với nghị định này đều được
áp dụng với công chứng viên.
Sau năm 1954 ở Miền Nam, chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì mô hình
công chứng của Pháp và tổ chức lại từ 3 phòng công chứng cũ của người
Pháp thành một phòng công chứng và bổ nhiệm các công chứng viên là
người Việt Nam thay các công chứng viên là người Pháp. Phòng công
chứng được đặt dưới sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
1.1.3/ Công chứng, chứng thực giai đoạn 1975 – 1986 :
Sau khi Miền Nam được giải phóng, các cơ quan hành chính của
chính quyền cũ bị xóa bỏ, thay vào đó là các Ủy ban tiếp quản có nhiệm vụ
điều hành rất nhiều công việc hành chính ngổn ngang, ổn định cuộc sống,
khắc phục hàn gắn vết thương chiến tranh, công cuộc cải tạo Xã hội chủ
nghóa được đẩy mạnh với tiến độ nhanh trong các vùng mới giải phóng.
Giai cấp tư sản mại bản bị xóa bỏ, 15.000 xí nghiệp tư bản hạng lớn và
hạng vừa được cải tạo chuyển thành xí nghiệp quốc doanh hoặc công ty hợp
doanh. Tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại.
Đa số nông dân Miền Nam đi vào con đường làm ăn tập thể. Sau khi phòng
công chứng tại Sài Gòn ngừng hoạt động, những người làm công chứng, thị
thực tại phòng công chứng đã di tản ra nước ngoài hoặc chuyển sang làm
các nghề mới. Các cơ quan hành chính, các tòa án phải trải qua quá trình tổ
chức lại cho phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Trong quá trình
cải tạo tư bản ở Miền Nam, tuy các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại đã
17



dần dần được khôi phục và phát triển, song Nhà nước cũng chưa có điều
kiện để thành lập lại một hệ thống cơ quan công chứng chuyên trách phù
hợp với điều kiện và tình hình mới.
Đồng thời với việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát
triển kinh tế, ổn định tình hình chính trị – xã hội tại Miền Nam, một nhiện
vụ cực kỳ quan trọng chúng ta cần tiến hành, đó là tổ chức Hội nghị Hiệp
thương nhằm thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Sự kiện này đã cho
phép mở ra một giai đoạn pháp triển mạnh về lập pháp, hành pháp và tư
pháp của nước ta, xây dựng và phát triển các cơ quan hành chính, tư pháp
và pháp luật. Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử, việc kiện toàn và phát triển
các thể chế trong đó có thể chế tư pháp, luật sư, công chứng. . . mặc dù
được sự quan tâm của Nhà nước bên cạnh sự giúp đỡ nhiệt tình của Liên
bang Xô – Viết và các nước xã hội chủ nghóa cũ. Song được tiến hành rất
chậm do nhiều nguyên nhân như : Cơ sở hạ tầng kinh tế còn thấp, đội ngũ
cán bộ, công chức được đào tạo chuyên ngành luật còn quá ít, chưa có sự
hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới và khu
vực.
Trong khi chờ ban hành Bộ luật dân sự và các văn bản về tổ chức,
kiện toàn hệ thống cơ quan hành chính, tư pháp trong đó có công chứng,
luật sư, thì các việc công chứng, thị thực vẫn được giao phân tán cho nhiều
cơ quan khác nhau thực hiện như : Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân
dân cấp huyện, tòa án, cơ quan địa chính, công an, cơ quan nhà đất.
1.1.4/ Tổ chức và hoạt động công chứng, chứng thực trong giai đoạn
đổi mới :
* Thông tư 574/QL-TPK ngày 10/10/1987 hướng dẫn thực hiện các
việc công chứng nhà nước :
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tổ chức tháng 12 năm 1986 đã
thông qua chính sách “ đổi mới ” để đạt được mục tiêu toàn diện của việc
xây dựng chủ nghóa xã hội, bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghóa

xã hội khoa học, thông qua những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp
về các lónh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Trên cơ sở thừa nhận
sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế nó có tác dụng thúc đẩy sản
xuất của các hình thức về sở hữu tư liệu sản xuất. Nhà nước ta đã chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng
XHCN, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, lấy kinh tế quốc
doanh làm nền tảng, các thành phần kinh tế, mọi người lao động được tự do
18


kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp
của mình.
Trong khung cảnh đất nước bắt đầu vào thời kỳ đổi mới, khi các quan
hệ dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng phát triển thì nhu cầu công chứng
các hợp đồng giao dịch ngày càng tăng nhằm đảm bảo sự an toàn pháp lý
các quan hệ giao dịch đó. Tuy vậy, chúng ta chưa có cơ quan công chứng
chuyên trách, một số hoạt động công chứng được giao cho Ủy ban nhân dân
cấp huyện, xã và vẫn tiếp tục thực hiện theo quy định của Sắc lệnh số
59/SL ngày 15/11/1945 và Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952. Nhưng trên
thực tế, thì việc thực hiện một số hoạt động công chứng của Ủy ban nhân
dân chưa đáp ứng được mục đích, yêu cầu của công tác này do không có
cán bộ làm công tác công chứng chuyên trách, cán bộ kiêm nhiệm lại
không được bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, thiếu một cơ quan quản lý
và hướng dẫn thống nhất hoạt động công chứng Nhà nước. Ngoài ra, còn
một số việc công chứng rất cần thiết nhưng chưa được giao cho cơ quan nào
thực hiện, Tình trạng này gây nhiều khó khăn cho công dân, còn các cơ
quan tổ chức trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là
một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều vụ tranh chấp, vi phạm pháp
luật, gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết các
tranh chấp và vi phạm đó.

Trước nhu cầu bức xúc nêu trên, với chức năng, thẩm quyền quy định
trong nghị định 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng, ngày
10/10/1987 Bộ Tư pháp đã ban hành thông tư số 574/QL TPK hướng dẫn
thực hiện các việc công chứng Nhà nước. Có thể nói, thông tư số 574/QLTPK là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về tổ chức, được ban hành để
khai sinh ra những phòng công chứng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, một
mô hình công chứng theo mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Nội
dung của thông tư này đề cặp đến những vấn đề chủ yếu như :
- Mục đích của công tác công chứng;
- Thành lập phòng công chứng Nhà nước;
- Thẩm quyền thực hiện các việc công chứng của các phòng công
chứng;
- Thẩm quyền trách nhiệm thực hiện công chứng của các ủy ban nhân
dân;
- Lệ phí công chứng;
19


- Quản lý Nhà nước về công chứng.
Ở Thơng tư này bước đầu đã quy định về tổ chức hoạt động cơng chứng,
có quy định được thẩm quyền thực hiện các việc cơng chứng của Phịng cơng
chứng và Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên chưa phân biệt được công chứng, chứng
thực.
* Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 về tổ chức và hoạt động
công chứng Nhà nước :
Với ý nghóa và tầm quan trọng của hoạt động công chứng, việc tăng
cường công tác công chứng Nhà nước là yêu cầu bức xúc của quản lý kinh
tế – xã hội. Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện đổi mới kinh tế – xã hội theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng.

Để phát huy hiệu quả của hoạt động công chứng Nhà nước, tăng
cường quản lý xã hội bằng pháp luật và để giúp đỡ pháp lý cho công dân,
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, ngày 27/02/2991 Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt
động công chứng Nhà nước. Sau hơn 3 năm triển khai thành lập các phòng
công chứng nhà nước và tăng cường công tác công chứng kiêm nhiệm củ a
Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã theo Thông tư số 574/QL-TPK, từ việc ban
hành một văn bản tầm nghị định của Chính phủ có một ý nghóa đặc biệt
quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong công tác xây dựng văn bản
quy định về thể chế hoạt động của công chứng khẳng định vị trí, vai trò của
phòng công chứng, công chứng viên trong đời sống xã hội.
Nghị định số 45/HĐBT đã quy định những vấn đề rất cơ bản về tổ
chức, quản lý, hoạt động công chứng, cụ thể :
- Vị trí, chức năng, cơ cấu của phòng công chứng;
- Nhân sự của phòng công chứng nhà nước;
- Thẩm quyền công chứng của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ
quan ngoại giao;
- Quản lý Nhà nước đối với công tác công chứng.
Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị định số 45/HĐBT công tác
công chứng đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tính đến năm
1996, đã hình thành một hệ thống gồm 81 phòng công chứng Nhà nước ( ở
20


mỗi tỉnh, thành có từ 1 đến 3 phòng công chứng ), với số lượng là 165 công
chứng viên và 420 nhân viên nghiệp vụ. Nhiều phòng công chứng có trụ sở
được xây dựng mới và trang bị đầy đủ các phương tiện làm việc. Mỗi năm,
các phòng công chứng đã công chứng trên 3,2 triệu hợp đồng, giao dịch.
Kết quả hoạt động công chứng đã góp phần tạo ra sự an toàn pháp lý, thông
qua việc chủ động phòng ngừa tranh chấp, cung cấp các chứng từ xác thực

đã giải quyết nhiều tranh chấp, giúp đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích
của mình.
Tuy nhiên, qua một thời gian triển khai thực hiện Nghị định này đã
bộc lộ một số hạn chế như :
+ Khái niệm công chứng còn chung chung, chưa làm rõ bản chất của
việc chứng nhận tính xác thực đối với các hợp đồng, dẫn đến những cách
hiểu với những hệ quả khác nhau trong hoạt động thực hiện của các phòng
công chứng nhà nước. Trong Nghị định số 45/CP vẫn còn lẫn lộn giữa cơng
chứng và chứng thực;
+ Giá trị các văn bản công chứng chưa được xác định rõ ( giá trị
chứng cứ, giá trị thi hành như một phán quyết của tòa án ), dẫn đến tình
trạng hoặc là đề cao quá văn bản công chứng hoặc là xem thường văn bản
công chứng;
+ Các quy định về việc công chứng còn nằm tản mạn ở nhiều văn
bản như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hàng hải, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật
phá sản . . . vì thế chưa có sự thống nhất giữa các văn bản để dễ hiểu, dễ
thực hiện, các quy định về nhiệm vụ của công chứng vừa thiếu, vừa thừa.
Ví dụ như việc chứng thực về thừa kế, tài sản trong các hoạt động kinh tế –
xã hội chưa được quy định đầy đủ, trong khi đó việc cấp bản sao văn bản
công chứng là việc đương nhiên thì lại có quy định. Việc chứng nhận bản
sao quá phiền, nhưng chỉ là hình thức khiến phòng công chứng phải đảm
nhận một công việc lớn không phù hợp với tổ chức, gây cho người có nhu
cầu công chứng phải chờ đợi;
+ Quy định về quản lý đối với công chứng còn chung chung, thiếu sự
phân định rõ ràng về nội dung quản lý của Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng công chứng Nhà nước, dẫn
đến tình trạng buông lỏng hoặc chồng chéo trong quản lý.
* Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức
hoạt động công chứng Nhà nước :
21



Nhằm tăng cường công tác quản lý xã hội bằng pháp luật và cải cách
một bước về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước, ngày 18/5/1996
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/CP ( thay thế cho Nghị định số
45/HĐBT ) về việc tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Nghị định
này được xây dựng trên cơ sở kế thừa những điểm tích cực của Nghị định
45/HĐBT đúc kết những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn công tác
công chứng, kết hợp tham khảo và tiếp thu những kinh nghiệm của nước
ngoài. Trong quá trình nghiên cứu, chuẩn bị dự thảo Nghị định này, Bộ Tư
pháp đã nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp của các chuyên gia Pháp, đặc
biệt là những góp ý về mô hình tổ chức, quản lý hệ thống công chứng về
tính chất của công chứng viên, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng,
trách nhiệm nghề nghiệp, việc công chứng Việt Nam hoạt động theo cách
thức của những nước theo mô hình công chứng La tinh và chuẩn bị các điều
kiện bước đi để công chứng Việt Nam gia nhập ngôi nhà chung của hệ
thống công chứng La tinh thế giới.
So với Nghị định số 45/HĐBT thì Nghị định này có một số điểm mới
rất đáng chú ý. Trước hết là việc xác định nội hàm của việc công chứng,
mục đích của hoạt động công chứng và giá trị của văn bản công chứng.
Nhà nước quản lý các hợp đồng, giao dịch thông qua việc giao cho
công chứng viên đem lại tính đích thực cho các hợp đồng, giao dịch đó. Sự
ổn định của quan hệ xã hội, các giao dịch dân sự, kinh tế là điều kiện quan
trọng bảo đảm cho sự phát triển kinh tế. Đây là một biện pháp tích cực, tác
động trực tiếp vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ
chức, hạn chế những tranh chấp và vi phạm pháp luật, tạo môi trường ổn
định cho các giao dịch, bảo đảm việc tự giác chấp hành pháp luật, Nhà
nước không thụ động để các tranh chấp xảy ra cho toà án phải phân xử gây
tốn kém thời gian và vật chất, và ngay cả khi có tranh chấp, thì văn bản
công chứng được coi là một chứng cứ hiển nhiên, một chứng cứ có độ tin

cậy cao trước tòa án.
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng phải xuất phát từ Nhà
nước về công chứng : Công chứng Việt Nam là công chứng Nhà nước,
phòng công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà
nước. Việc khẳng định bản chất của cơ quan công chứng trong giai đoạn
này là phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện kinh tế xã hội và những
đặc thù của Việt Nam trong thời kỳ quá độ.

22


Về thẩm quyền và phạm vi công chứng, Nghị định này quy định có 4
loại cơ quan có thẩm quyền thực hiện công chứng, gồm : Phòng công chứng
nhà nước, Ủy ban nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân xã và cơ quan ngoại
giao và lãnh sự quán ở nước ngoài.
Việc phân định thẩm quyền theo phạm vi việc công chứng dựa trên
nguyên tắc chung là vừa khẳng định tầm quan trọng của phòng công chứng
chuyên nghiệp với việc được giao thẩm quyền chứng nhận đối với tất cả
các việc công chứng kể cả các hợp đồng, giao dịch, văn bản có yếu tố nước
ngoài, vừa khẳng định việc tạm thời giao cho các cơ quan hành chính cấp
huyện, cấp xã công chứng những hợp đồng, giao dịch và các loại giấy tờ
thông dụng trong điều kiện mạng lưới các phòng công chứng mới chỉ có ở 3
thành phố, tỉnh lỵ đông dân cư, đồng thời đáp ứng những nhu cầu công
chứng của công dân và tổ chức Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Về việc quản lý Nhà nước, Nghị định quy định Chính phủ thống nhất
quản lý Nhà nước về công chứng trong phạm vi cả nước, Bộ Tư pháp giúp
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công chứng. Ngoài ra, trong quản
lý nhà nước về công chứng còn có sự phân cấp cho Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh và Giám đốc Sở Tư pháp.

Sau bốn năm triển khai thực hiện Nghị định 31/CP công tác công
chứng đã đạt được những kết quả quan trọng, hệ thống các phòng công
chứng được củng cố và tiếp tục phát triển. Cho đến thời điểm tháng 6 năm
2000 cả nước đã có 96 phòng công chứng, trong đó có 61 phòng số 1, có 24
phòng số 2, 09 phòng số 3 và có 2 phòng số 4, với tổng số trong đó có 244
công chứng viên, 440 nhân viên nghiệp vụ, kế toán và 106 người làm việc
theo chế độ hợp đồng. Các công chứng viên đều có trình độ cử nhân luật trở
lên, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho các phòng công chứng đã
được đầu tư hơn trước, nhiều phòng công chứng đã xây được trụ sở riêng.
Nhìn chung việc triển khai Nghị định số 31/CP và các văn bản pháp
luật khác về công chứng trong giai đoạn này đã đem lại những kinh nghiệm
bước đầu trong việc triển khai tổ chức và hoạt động công chứng.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối và những chủ trương mới
của Đảng, đất nước ta có những chuyển biến to lớn về mặt đời sống kinh tế
– xã hội. Trước tình hình đó, nhiều quy định của Nghị định số 31/CP đã tỏ
ra bất cập không còn phù hợp với thực tế sống động của đời sống xã hội
23


trong giai đoạn hiện nay, làm cản trở sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường có định hướng XHCN.
- Về phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch. Điều 18 của Nghị định
số 31/CP đã liệt kê cụ thể các việc công chứng, cho nên các phòng công
chứng chỉ căn cứ vào đó để thực hiện, dẫn đến sự cứng nhắc, bó hẹp không
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các cá nhân, tổ chức về hợp đồng giao
dịch thuộc các lónh vực dân sự, kinh tế, thương mại…trong nền kinh tế thị
trường, gây cản trở các hoạt động kinh tế xã hội. Nhiều yêu cầu công chứng
bị từ chối hoặc có một số việc phải có sự phối hợp của nhiều cơ quan, nhiều
ngành mới hướng dẫn được
- Tính chuyên nghiệp hóa hoạt động công chứng trong Nghị định

31/CP chưa được thể hiện rõ, chưa quan niệm công chứng là một nghề, cho
nên cần thiết phải có những quy định điều chỉnh nhằm sắp xếp lại, kiện
toàn các phòng công chứng, chuẩn bị điều kiện để từng bước chuyển các
phòng công chứng thành tổ chức xã hội nghề nghiệp;
- Tuy đã có một số quy định về việc phân định trách nhiệm quản lý
Nhà nước giữa các Bộ, ngành và địa phương, nhưng trong Nghị định 31/CP
chưa quy định rõ việc thống nhất quản lý Nhà nước về công chứng, chứng
thực, thiếu những quy định về sự phối hợp, chế độ báo cáo, kiểm tra, tranh
tra, xử lý vi phạm. Do đó có những sai sót về chuyện môn, nghiệp vụ không
được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời hoặc có nhiều trường hợp thiếu căn
cứ pháp luật để xử lý.
* Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng,
chứng thực :
Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, theo định hướng
XHCN, công chứng Việt Nam đã và đang chứng tỏ là một công cụ đắc lực
phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả, góp phần tích cực phòng ngừa tranh
chấp. Tạo ra sự an toàn pháp lý cho các quan hệ giao dịch trong xã hội. Tuy
nhiên, với những điểm bất cập được phân tích ở trên đã gây ra nhiều cản
trở cho hoạt động kinh tế xã hội. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu công chứng,
chứng thực ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế phát triển
theo cơ chế thị trường có định hướng XHCN, góp phần phục vụ sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước
đối với hoạt đông công chứng, chứng thực cần phải xây dựng một văn bản
mới thay thế Nghị định 31/CP.
24


Ngày 08 tháng 12 năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Việc ban hành Nghị định mới
về công chứng, chứng thực, trước hết nhằm khắc phục những điểm còn bất

cập của Nghị định 31/CP, đồng thời tạo điều kiện cho công tác công chứng,
chứng thực tiếp tục phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, phục vụ tốt
hơn cho nhu cầu công chứng, chứng thực của công dân, doanh nghiệp và tổ
chức góp phần đắc lực hơn trong việc bảo đảm sự an toàn về pháp lý trong
các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác, phòng
ngừa vi phạm và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghóa.
Thời điểm ban hành Nghị định 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng
thực vào năm 2000, một năm đánh dấu giai đoạn mới trong phát triển kinh
tế của đất nước. Nghị định có hiệu lực từ quý II năm 2001, đúng vào thời
điểm bắt đầu triển khai thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội mới
mà Đại hội Đảng IX của Đảng. Thực tiễn 10 năm thi hành Nghị định số
45/HĐBT năm 1991 và Nghị định số 31/CP năm 1996, cho thấy công
chứng, chứng thực là “ hàn thử biểu ” của sự phát triển kinh tế xã hội. Ở nơi
mà kinh tế phát triển như ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng và nói chung là các vùng trọng điểm kinh tế, thì ở đó có nhu cầu về
công chứng, chứng thực rất lớn. Trong cơ chế thị trường các cá nhân, doanh
nghiệp và tổ chức tham gia giao dịch đều mong muốn có sự an toàn pháp lý
phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật.
Mặt khác công chứng, chứng thực là một lónh vực được Đảng, Chính
phủ rất quan tâm, từ năm 1993 ngành công chứng đã được ưu tiên cải cách
thể chế, thủ tục hành chính. Việc Chính phủ ban hành Nghị định số
75/2000/NĐ-CP cũng là nhằm tiếp tục cải cách thể chế và cải cách hành
chính trong lónh vực tư pháp, pháp luật. Chính vì phạm vi điều chỉnh của
Nghị định này liên quan đến lợi ích hàng ngày của người dân, doanh
nghiệp, tổ chức nên các cơ quan có thẩm quyền (chủ thể thực hiện việc
công chứng, chứng thực) là rất rộng, bao gồm các phòng công chứng, tất cả
các Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã và các cơ quan đại diện của Việt Nam
ở nước ngoài.
Nghị định về công chứng, chứng thực được xây dựng dựa trên việc
quán triệt những quan điểm sau :

- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động công chứng, tạo tiền đề
để tiến tới chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa nghề công chứng ở Việt
Nam;
25


×