Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

NGUYỄN THỊ HỒNG NGA
MSSV: 0955030197

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ ĐIỂN
HÌNH CỦA NGƢỜI PHẠM TỘI VÀ VẤN ĐỀ
PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM

KHĨA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2009 – 2013

Người hướng dẫn:
Th.S. Lê Nguyên Thanh
Cử nhân Lê Thị Anh Nga

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HSST

: Hình sự sơ thẩm.

TAND

: Tịa án nhân dân.


TP.HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ ĐIỂN HÌNH CỦA
NGƢỜI PHẠM TỘI ..................................................................................................... 1
1.1. Khái niệm về đặc điểm tâm lý của người phạm tội ở góc độ nghiên cứu Tội phạm
học .............................................................................................................................. 1
1.2. Phạm vi, mức độ và mục đích nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý điển hình của
người phạm tội trong Tội phạm học (so sánh với các khoa học khác) ...................... 8
1.3. Tính chất phổ biến, điển hình của một số đặc điểm tâm lý của người phạm tội
được nghiên cứu ....................................................................................................... 13
1.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các đặc điểm tâm lý phổ biến, điển hình của người
phạm tội ở góc độ Tội phạm học ............................................................................. 14
1.5. Tình hình nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của người phạm tội trong Tội phạm
học nước ngoài ......................................................................................................... 16
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ ĐIỂN HÌNH CỦA
NGƢỜI PHẠM TỘI .................................................................................................. 23
2.1. Nhu cầu ............................................................................................................. 23
2.2. Hứng thú ........................................................................................................... 39
2.3. Định hướng giá trị ............................................................................................. 47
2.4. Ý thức đạo đức .................................................................................................. 55
2.5. Ý thức pháp luật ................................................................................................ 60
CHƢƠNG 3. VẤN ĐỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ ĐIỂN HÌNH CỦA NGƢỜI PHẠM TỘI .......... 69



3.1. Bản chất của hoạt động phòng ngừa tội phạm và cơ chế phịng ngừa tội phạm ở
góc độ tâm lý............................................................................................................. 69
3.2. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm tương ứng với các đặc điểm tâm lý của
người phạm tội ......................................................................................................... 72
KẾT LUẬN


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ là sự gia tăng

của tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật và tội phạm. Tình hình tội phạm diễn ra ngày càng
phức tạp, tội phạm có xu hướng tăng về cả số lượng lẫn mức độ nguy hiểm, đồng thời
xuất hiện thêm nhiều loại tội phạm mới như: tội phạm môi trường, tội phạm công nghệ
cao, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, tội phạm xuyên quốc gia... Đây là điều đáng
báo động cho tồn xã hội. Vì vậy, đòi hỏi nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm, để làm cho cơng tác phịng ngừa tội phạm có chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, có
hiệu quả hơn nữa, càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Có nhiều hướng tiếp cận vấn đề này, nhưng sẽ là đóng góp thiết thực nếu có sự
nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của một tội phạm dưới lăng kính tâm lý của người
phạm tội. Bởi tội phạm là do con người thực hiện, do đó muốn tìm hiểu tội phạm cần
phải nghiên cứu con người phạm tội, mà quan trọng là các đặc điểm tâm lý của người
phạm tội. Mặt khác, các biện pháp phòng chống tội phạm chủ yếu tác động đến con
người phạm tội và các mối quan hệ xã hội của con người. Vì vậy, nghiên cứu dưới góc
độ tâm lý sẽ mở ra nhiều khả năng tiếp cận những nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm
tội một cách cặn kẽ, chính xác; chỉ ra cơ sở để hoạch định các biện pháp phòng ngừa tội
phạm, đấu tranh và ngăn chặn các tội phạm ở nhiều mức độ khác nhau. Tất nhiên, không
phải tất cả các đặc điểm tâm lý của người phạm tội đều là đối tượng nghiên cứu của

khóa luận tốt nghiệp này, mà chỉ có những đặc điểm tâm lý nào có tính chất phổ biến,
điển hình và có ý nghĩa đối với việc thực hiện tội phạm và phòng ngừa tội phạm mới
được nghiên cứu.
Tuy vai trị của việc tìm hiểu đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội quan
trọng như đã nêu ở trên, nhưng hiện nay hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống về một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội dưới
góc độ Tội phạm học. Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề “Một số đặc điểm tâm lý điển hình


của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử
nhân luật.
2.

Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, Tội phạm học vẫn là một ngành khoa học còn non trẻ, số tài liệu

chuyên khảo của Tội phạm học rất ít ỏi, đặc biệt về tâm lý người phạm tội lại càng khan
hiếm. Có lẽ vì đây là một đối tượng nghiên cứu ln vận động biến đổi, với những trạng
thái tư tưởng tâm lý linh hoạt và đa dạng nên dường như tất cả các hướng nghiên cứu
đều là nghiên cứu mở.
Trong thời gian qua, đã có một số cơng trình nghiên cứu cũng như bài viết có đề
cập đến vấn đề tâm lý của người phạm tội như: luận văn “Vận dụng đặc điểm tâm lý tội
phạm phục vụ cho hoạt động điều tra khám phá tội phạm về ma túy”, bài viết “Cơ chế
tâm lý xã hội của các hành vi tiêu cực ở dạng tệ nạn xã hội” của PGS.TS. Phạm Văn
Tỉnh, bài viết “Một số đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên phạm tội” của Th.s
Đặng Thanh Nga; các khóa luận tốt nghiệp của tác giả Dương Bích Việt về “Cơ chế tâm
lý - xã hội của hành vi phạm tội trong Tội phạm học Việt Nam”, các khóa luận về đề tài
“Nhân thân người phạm tội dưới góc độ nghiên cứu Tội phạm học” của Đỗ Trúc Lâm,
Trần Thị Thúy Hường cũng có một phần liên quan đến tâm lý tội phạm. Ngoài ra, vấn đề
trên cịn được đề cập đến trong các giáo trình Tội phạm học của Đại học Luật Hà Nội,

Tập bài giảng và Giáo trình Tội phạm học của Đại học Luật TP.HCM, Giáo trình Tâm lý
học pháp lý của Học viện Cảnh sát nhân dân, giáo trình “Những vấn đề cơ bản của tâm
lý học tội phạm, tâm lý học điều tra tội phạm và tâm lý học quản lý” của Học viện Cảnh
sát nhân dân, tác phẩm “Xã hội học tội phạm” của tác giả Trần Đức Châm…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu và bài viết nêu trên có sự nghiên cứu về
đặc điểm tâm lý của người phạm tội nhưng ở những góc độ và phạm vi khác nhau. Đó
có thể là nghiên cứu tâm lý của người phạm tội ở phạm vi hẹp: nghiên cứu các đặc điểm
tâm lý tội phạm để điều tra, khám phá tội phạm về ma túy hay nghiên cứu vai trò của
đặc điểm tâm lý tiêu cực của con người đối với hành vi tệ nạn xã hội, hành vi phạm tội ở


người chưa thành niên… Ở các cơng trình này, các tác giả nghiên cứu tâm lý của con
người nói chung và của người phạm tội nói riêng ở các góc độ cụ thể, có thể là ở một
loại tội phạm hoặc ở một nhóm đối tượng xác định. Cũng có cơng trình nghiên cứu chỉ
có sự tìm hiểu, đề cập sơ qua về các đặc điểm tâm lý của người phạm tội ở dạng khái
quát mà không đi sâu vào phân tích chi tiết như: các khóa luận về cơ chế tâm lý - xã hội
của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân của người phạm tội hay các kiến thức được đề
cập trong các giáo trình Tội phạm học, Tâm lý học pháp lý, Xã hội học. Vì vậy, cần có
sự nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về các đặc điểm tâm lý điển hình của người
phạm tội, từ nguồn gốc hình thành đến cơ chế tác động của nó đối với các hành vi phạm
tội phổ biến, từ đó đưa ra biện pháp phịng ngừa tội phạm.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận

và thực tiễn của đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội. Từ đó góp phần làm
sáng tỏ được nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, hoàn thiện hơn lý luận Tội
phạm học, đồng thời làm cơ sở đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp.
Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của đề tài là xây dựng khái niệm đặc

điểm tâm lý của người phạm tội, phân tích các đặc điểm thuộc tâm lý điển hình của
người phạm tội và vai trị của nó đối với một số tội phạm phổ biến. Trên cơ sở đó, đánh
giá thực tiễn phịng ngừa tội phạm, đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả phịng ngừa tội phạm.
Tâm lý con người nói chung cũng như tâm lý người phạm tội nói riêng là một
lĩnh vực nghiên cứu rộng, cho nên nội dung đề tài không đi vào nghiên cứu tất cả những
vấn đề liên quan đến tâm lý người phạm tội, mà chỉ làm sáng tỏ các đặc điểm tâm lý phổ
biến, điển hình của người phạm tội. Các đặc điểm tâm lý này có vai trị trong việc xác
định ngun nhân và điều kiện của tội phạm.
4.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người phạm tội là nghiên cứu về con người, tâm
lý của con người, hành vi của con người và những nhân tố xã hội ảnh hưởng đến các đặc
điểm tâm lý của con người. Chính vì vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử là phương pháp luận chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu vấn đề đặc
điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.
Mặt khác, để phục vụ cho việc thu thập, phân tích và xử lý các thông tin cần thiết
nhằm làm rõ hơn các luận điểm trong khóa luận, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích, so sánh, phương pháp nghiên cứu các vụ án và
tham khảo các tài liệu khác.
5.

Ý nghĩa của khóa luận
Tác giả hy vọng với kết quả trên đề tài có thể có những đóng góp về mặt lý luận

và thực tiễn nhất định. Trước hết, về lý luận, đề tài cung cấp những nhận thức về đặc
điểm tâm lý điển hình của người phạm tội trong lĩnh vực Tội phạm học. Đồng thời, vạch

ra sự tác động, ảnh hưởng của các hiện tượng xã hội đến tâm lý người phạm tội. Từ đó,
tạo cơ sở khoa học để nhận thức đầy đủ và toàn diện về bản chất của hành vi phạm tội,
nguyên nhân của tội phạm. Góp phần hồn thiện hơn lý luận Tội phạm học và gợi mở
cho những nghiên cứu tiếp theo về đề tài này. Về thực tiễn, việc nghiên cứu của khóa
luận giúp cho các nhà hoạt động thực tiễn đánh giá đúng vị trí, vai trị của các biện pháp
phòng ngừa tội phạm liên quan đến đặc điểm tâm lý của người phạm tội, vì thế mà hồn
thiện hơn các chương trình, kế hoạch phịng chống tội phạm. Đề tài cũng sẽ là một tài
liệu tham khảo có giá trị cho người đọc trong q trình học tập, nghiên cứu bởi đây là
một vấn đề nghiên cứu cịn mới mẻ.
6.

Bố cục của khóa luận
Với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã nêu như trên, khóa

luận được xây dựng thành các bộ phận:
Mục lục.
Mở đầu.


Chương I: Lý luận chung về đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội ở góc
độ nghiên cứu Tội phạm học.
Chương II: Nội dung một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội.
Chương III: Vấn đề phòng ngừa tội phạm tội từ việc nghiên cứu một số đặc điểm
tâm lý điển hình của người phạm tội.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.


1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ ĐIỂN HÌNH CỦA
NGƢỜI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm về đặc điểm tâm lý của ngƣời phạm tội ở góc độ nghiên cứu Tội
phạm học
1.1.1. Khái niệm tâm lý
Một tội phạm cụ thể, như mọi hành vi khác của con người suy cho cùng là kết quả
của sự tác động lẫn nhau giữa cá nhân và hoàn cảnh khách quan bên ngoài. Trong sự tác
động đó, quyết định thực hiện tội phạm được thơng qua và được thể hiện trên thực tế. Như
vậy, để có thể xác định được ngun nhân hình thành tội phạm ở một con người và đề ra
biện pháp giáo dục, phịng ngừa thì cần thiết phải nghiên cứu sâu sắc các đặc điểm liên
quan đến cá nhân người phạm tội. Một trong những đặc điểm quan trọng của người phạm
tội có ảnh hưởng đến việc hình thành ngun nhân, động cơ của hành vi phạm tội là đặc
điểm tâm lý của người phạm tội.
Tâm lý con người hình thành dưới tác động của hoàn cảnh xã hội, phụ thuộc vào
các mối quan hệ xã hội mà người đó tham gia. Mặt khác, điều kiện xã hội và ảnh hưởng
bên ngồi chỉ có thể tác động đến con người thơng qua tâm lý của họ, kết hợp với ý thức.
Và khi tất cả các đặc điểm này phối hợp, thỏa mãn sẽ tạo thành động lực thúc đẩy con
người hành động. Cho nên, để hiểu rõ bản chất của hành động, hành vi của con người
cũng như hành vi của người phạm tội, tất yếu phải hiểu được đặc điểm tâm lý của người
đó, sự tương tác của nó với các yếu tố khách quan bên ngoài. Khi nghiên cứu đặc điểm
tâm lý của người phạm tội, giải thích nguyên nhân, các yếu tố tác động đến sự hình thành
các phẩm chất tâm lý tích cực hay tiêu cực ở họ, chúng ta phải có các tri thức căn bản nhất
về tâm lý con người, phải hiểu được các qui luật về sự hình thành, biểu hiện của tâm lý
người.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều người vẫn sử dụng từ “tâm lý” để chỉ thái độ,
cách cư xử phù hợp của con người hay để nói về ý muốn, nhu cầu, sở thích, ý nghĩ, tâm
tư, tình cảm của con người, về lòng người. Đây là cách hiểu “tâm lý” ở cấp độ nhận thức



Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phịng ngừa tội phạm.

2
thơng thường. Nếu dừng lại ở cách hiểu này thì “tâm lý” chưa được hiểu một cách rõ ràng
và đầy đủ. Vậy “tâm lý là gì?”
Xét về mặt thuật ngữ thì “tâm lý” đã có từ lâu trong tiếng Việt. Trong Từ điển tiếng
Việt định nghĩa một cách tổng quát khái niệm tâm lý như sau: “Tâm lý” là tồn bộ nói
chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức,
tình cảm, ý chí…; biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi người. [20 – tr.823]. Ngồi
ra, cịn có nhiều cách định nghĩa khái niệm tâm lý theo các tài liệu khác như:
Theo tiếng Latinh, tâm lý (Psyche) có nghĩa là “linh hồn”, “tinh thần”. Theo Từ
điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên, 2008: Tâm lý là thuộc tính đặc biệt của vật chất có
tổ chức cao, là sự phản ánh hiện thực khách quan đảm bảo cho cơ thể sống thích ứng với
mơi trường có hiệu quả. Cịn theo Tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn chủ biên,
2007 thì tâm lý gồm tất cả các hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người gắn liền
với mọi hoạt động của con người.
Như vậy, thuật ngữ “tâm lý” trong khoa học là rất rộng, bao hàm tất cả các hiện
tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người (còn gọi là hệ thần kinh), gắn liền và điều
hành mọi hành động, hoạt động của con người. Tâm lý của con người là nhận thức, trí tuệ,
là xúc cảm, tình cảm, ý chí, là nhu cầu, động cơ hành vi, năng lực, ý thức, định hướng giá
trị… Để hiểu rõ hơn về tâm lý, điều cần thiết là phải hiểu được bản chất của tâm lý. Khi
giải thích về bản chất của tâm lý, Tâm lý học Mácxít đưa ra 3 luận điểm cơ bản như sau:
Luận điểm thứ nhất, tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan thơng qua hoạt
động của con người.
Chính các hiện tượng khách quan bên ngoài tác động vào hệ thần kinh, được não
tiếp nhận và nhờ hoạt động phân tích, tổng hợp của não mà tạo ra những hình ảnh tinh
thần (tâm lý) chứa đựng trong vết vật chất, đó là các q trình sinh lý, sinh hóa ở hệ thần
kinh và não bộ. C.Mác nói tinh thần, tư tưởng, tâm lý… chẳng qua là vật chất được
chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có [17 – tr.13].
Tuy vậy, con người không phải là một chủ thể tiếp thu một cách thụ động những

tác động của thế giới khách quan, mà mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

3
giới xung quanh đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, nhu cầu, tính khí… của riêng
mình vào hình ảnh đó. Làm cho hình ảnh tâm lý mang đậm tính chất chủ quan hay nói
cách khác, con người phản ánh thế giới khách quan bằng hình ảnh tâm lý thơng qua “lăng
kính chủ quan” của mình. Đây là lý giải tại sao cùng nhận sự tác động của thế giới về
cùng một hiện tượng khách quan nhưng những chủ thể khác nhau cho ta những hình ảnh
tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau; cùng một hiện thực khách quan tác động
đến một chủ thể duy nhất nhưng vào các thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác
nhau, với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu
hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy [17 – tr.14]. Từ những hình ảnh tâm lý
mang tính chủ thể riêng biệt đó, con người sẽ thể hiện ra thế giới hiện thực thông qua hoạt
động, sự giao lưu với những người xung quanh. Đây chính là sự phản ánh tâm lý.
Từ luận điểm trên ra có thể kết luận, tâm lý có nguồn gốc từ thế giới khách quan.
Mà thế giới khách quan bao gồm thế giới tự nhiên và thế giới xã hội. Vậy thì nguồn gốc tự
nhiên hay nguồn gốc xã hội có ảnh hưởng quyết định đến tâm lý con người?
Theo Tâm lý học Mácxít, tâm lý con người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
Đây là một trong ba luận điểm của Tâm lý học Mácxít về bản chất hiện tượng tâm lý
người.
Như đã phân tích ở trên, con người vừa là một thực thể tự nhiên lại vừa là một thực
thể xã hội. Chính con người tạo ra mơi trường xã hội với các mối quan hệ xã hội đa dạng,
nhiều chiều và thể hiện bản chất của mình là tổng hịa các mối quan hệ xã hội đó. Tâm lý
con người chịu sự quy định của các quan hệ xã hội mà họ tham gia. Chẳng hạn, các hoạt
động nghề nghiệp khác nhau luôn tạo ra những phong cách khác nhau trong hành vi của
mỗi người. Nếu bạn làm luật sư, hẳn bạn sẽ chịu ảnh hưởng của mơi trường nghề nghiệp
mà có phong cách điềm tĩnh, suy luận sắc bén, cẩn thận trong lời nói. Cịn nếu bạn là nghệ

sĩ, bạn sẽ là người có phong cách lãng mạn và bay bổng. Như vậy, phụ thuộc vào các quan
hệ xã hội khác nhau mà tâm lý của mỗi cá nhân có nội dung khác nhau.
Đồng thời, tâm lý người còn là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người
trong các mối quan hệ xã hội. Thông qua hoạt động và giao tiếp con người tiếp thu và lĩnh


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

4
hội vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội sau đó biến thành cái riêng cho bản thân.
Bởi xã hội luôn vận động, phát triển không ngừng mà tâm lý con người là sự phản ánh thế
giới xung quanh nên cũng không ngừng vận động, phát triển. Bản chất xã hội của tâm lý
người thể hiện ở sự kế thừa kinh nghiệm của cá nhân và học hỏi ở người khác, ở xã hội, ở
các nền văn hóa. Như vậy, tâm lý người chính là kết quả của q trình xã hội hố mang
tính chất đặc trưng của xã hội theo từng giai đoạn, thời kỳ. Điều này giải thích tâm lý con
người ở những giai đoạn, thời kỳ lịch sử khác nhau thì khác nhau.
Luận điểm thứ ba, tâm lý là chức năng của não.
Bộ não con người là hệ thần kinh cấp cao, nơi diễn ra các hoạt động thần kinh phức
tạp, các cơ chế biến đổi lý hóa ở các nơ-ron thần kinh… Từ đó điều khiển hoạt động của
cơ thể con người, đồng thời tạo ra hiện tượng tâm lý. Tâm lý người, trước hết là do cơ sở
của cấu trúc sinh học đặc biệt sinh ra và có khả năng phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ não, thông qua cấu trúc của hệ thần kinh và các cơ quan thụ cảm, đồng thời bộ não có
khả năng thể hiện nhận thức thơng qua hành vi và kết quả hoạt động. Cụ thể của quá trình
là một chuỗi hoạt động từ khi bộ não nhận tác động của thế giới khách quan dưới dạng
xung thần kinh, sau đó sẽ sinh ra hình ảnh tâm lý theo cơ chế phản xạ. Chính ở đây cũng
tạo nên sự khác nhau về phản xạ của các cá thể: cùng một tác động với chỉ số như nhau
(cường độ, kích thước, thời gian…) có thể tạo ra các phản xạ khác nhau với các “giai
tầng” tâm lý rất khác nhau [17 – tr.17].
Ngoài những đặc điểm thuộc về bản chất của tâm lý con người nói chung như trên,
tâm lý của người phạm tội ở góc độ nghiên cứu Tội phạm học có những nét đặc trưng

riêng:
Thứ nhất, tâm lý của người phạm tội là tất cả hiện tượng tinh thần nảy sinh trong
đầu óc của người phạm tội, bao gồm hiện tượng tâm lý tích cực và tiêu cực (trong đó có
tâm lý tội phạm) điều hành hành vi, hoạt động phạm tội của họ. Nó nói lên quan điểm, thái
độ đối với giá trị đạo đức, xã hội khác nhau và mức độ nhận thức giá trị đối với người đó.
Thứ hai, tâm lý người phạm tội khơng phải đã có sẵn, khơng di truyền và mã hóa
theo gen mà nó là kết quả của q trình hình thành, phát triển dưới sự tác động của nhiều


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

5
yếu tố bên trong và bên ngoài cá nhân. Tâm lý người phạm tội chịu sự chi phối của các
yếu tố thể chất, môi trường sống và hoạt động của cá nhân, nhưng q trình xã hội hóa và
thích ứng xã hội của họ có khiếm khuyết và sai lệch chuẩn mực xã hội, trong đó có chuẩn
mực pháp luật hình sự có tính chất quyết định [15 – tr.10].
Thứ ba, trong tâm lý người phạm tội có một bộ phận đó là tâm lý tội phạm hay còn
gọi là tâm lý phạm tội, ý thức phạm tội, đây là tâm lý tiêu cực phản ánh sự tác động của
những yếu tố tiêu cực trong môi trường đến cá nhân, định hướng, điều khiển, điều chỉnh
hành vi phạm tội của cá nhân. Những đặc điểm tâm lý mang tính tiêu cực thể hiện sự
chống đối, đi ngược lại những chuẩn mực của đạo đức và xã hội. Ở người phạm tội
thường có những đặc điểm tâm lý gần giống nhau, đặc biệt là những người cùng phạm
một nhóm tội, ví dụ như nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe thì người phạm tội
thường có tâm lý xem thường tính mạng, sức khỏe người khác.
1.1.2. Đặc điểm của tâm lý
Tuy tâm lý con người là hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc, mang tính chất
trừu tượng nhưng vẫn có những đặc điểm chung.
Đặc điểm thứ nhất:
Tâm lý là một hiện tượng tinh thần gần gũi, thân thuộc với con người. Tâm lý
khơng phải là những gì cao siêu, xa lạ mà chính là những gì con người suy nghĩ, hành

động, cảm nhận hàng ngày.
Đặc điểm thứ hai:
Các hiện tượng tâm lý này vô cùng đa dạng, phức tạp, phong phú từ cảm giác, tri
giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng đến tình cảm, ý chí, năng lực, tính khí, niềm tin, lý
tưởng… Bởi các hiện tượng tâm lý của con người là những hiện tượng tinh thần, tồn tại
một cách chủ quan trong đầu óc con người nên khơng thể cân, đong, đo, đếm… Nhưng
chúng ta vẫn có thể nghiên cứu thơng qua sự biểu hiện ra bên ngồi của chúng một cách
thường xuyên.
Đặc điểm thứ ba:


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

6
Tâm lý người mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân nên tâm lý của con
người là không ai giống ai một cách hồn tồn. Đó là do mỗi người có cấu trúc hệ thần
kinh và cơ thể khác nhau; tuổi tác khác nhau; giới tính khác nhau; nghề nghiệp khác nhau;
địa vị xã hội khác nhau; điều kiện sống khác nhau... Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả
của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội thơng qua hoạt
động và giao tiếp, vui chơi, lao động, học tập… Trong đó giáo dục giữ vai trị chủ đạo,
hoạt động và giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định. Vì thế khi nghiên
cứu sự hình thành, cải tạo tâm lý con người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người
sống và hoạt động.
Đặc điểm thứ tư:
Các hiện tượng tâm lý trong cùng một chủ thể luôn ln có sự tác động qua lại lẫn
nhau. Hiện tượng tâm lý này có thể là nguyên nhân, có thể là kết quả, hoặc yếu tố chi phối
hiện tượng tâm lý khác.
Đặc điểm thứ năm:
Các hiện tượng tâm lý của con người có sức mạnh vơ cùng to lớn chi phối hoạt
động của con người. Một ví dụ cho đặc điểm này là vào năm 1902, nhà bác học Cô-phenhap, người Đan Mạch, đã làm thí nghiệm trên một tử tù và chứng minh rằng con người có

thể tự ám thị mình và giết chết bản thân chỉ trong một thời gian ngắn. Tâm lý có thể giúp
con người tăng thêm sức mạnh, vượt qua khó khăn để đi đến thành cơng, cũng có thể
khiến con người trở nên yếu ớt, bạc nhược và thất bại.
Trên đây là những đặc điểm tâm lý chung của con người, người phạm tội cũng
khơng nằm ngồi số đó. Tuy nhiên, đối với riêng người phạm tội cịn có những đặc trưng
trong tâm lý như sau:
Thứ nhất, tâm lý phản ánh nhận thức xã hội của người phạm tội, thường những đặc
điểm tâm lý này mang tính tiêu cực thể hiện sự chống đối, đi ngược lại những chuẩn mực
của đạo đức và xã hội. Nó được hình thành trong suốt q trình sống, dưới sự tác động và
ảnh hưởng lâu dài của môi trường sống xung quanh, đồng thời cũng được chọn lọc, tiếp
nhận bởi chính yếu tố cá nhân của người phạm tội. Ở đây ta khơng thể tuyệt đối hóa vai


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

7
trò của mơi trường sống đối với việc hình thành các đặc điểm tiêu cực của cá nhân cũng
như không thể cho rằng những đặc điểm xấu có sẵn trong cá nhân là mang tính tất yếu,
khơng thể thay đổi. Cần phải nhận thức rằng việc hình thành các đặc điểm tiêu cực của các
nhân là hệ quả của sự tác động mang tính biện chứng giữa nhân tố cá nhân với mơi trường
bên ngồi, trong đó bản thân cá nhân đó có sự tự do đầy đủ về ý chí và sự độc lập tương
đối với môi trường xã hội.
Thứ hai, đặc điểm tâm lý của người phạm tội là những đặc điểm đóng vai trị quan
trọng trong việc thúc đẩy người phạm tội lựa chọn và điều khiển xử sự chống đối xã hội
của người đó.
Thứ ba, nhóm đặc điểm này tồn tại mang tính ổn định, lâu dài, khó phá vỡ. Các đặc
điểm này trong sự tương tác với nhau và với những tình huống khách quan thuận lợi bên
ngoài sẽ làm phát sinh động cơ của hành vi phạm tội. Giữa hành vi phạm tội và tâm lý của
người phạm tội gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người dù nghĩ tiêu cực như thế nào đi
chăng nữa, khi ý nghĩ đó chưa được bộc lộ ra bên ngoài bằng hành vi tương ứng xâm

phạm khách thể mà pháp luật bảo vệ thì khơng thể coi tâm lý đó là tâm lý của người phạm
tội. Chỉ khi tâm lý đó định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi phạm tội thì tâm lý đó là
tâm lý người phạm tội - kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa các hiện tượng tâm lý tích
cực và tâm lý tiêu cực. Nếu tâm lý của người phạm tội được thể hiện ra ngoài thế giới
khách quan bằng hành vi xâm phạm khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ thì khi đó
tâm lý người phạm tội có sự biến đổi thành tâm lý tội phạm.
1.2. Phạm vi, mức độ và mục đích nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý điển
hình của ngƣời phạm tội trong Tội phạm học (so sánh với các khoa học khác)
Đặc điểm tâm lý của người phạm tội là những đặc điểm đặc trưng phản ánh bản
chất của người phạm tội. Những đặc điểm này tác động với hoàn cảnh khách quan khác
tạo nên xử sự phạm tội. Tội phạm học nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm, dấu hiệu tâm
lý của người phạm tội và xem xét mối liên hệ, tác động của mơi trường bên ngồi đối với
chúng để lý giải nguyên nhân, điều kiện của quá trình hình thành tội phạm. Khi đã nhận
thức một cách đầy đủ, sâu sắc về con người phạm tội thông qua các đặc điểm tâm lý của


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phịng ngừa tội phạm.

8
họ thì chúng ta có thể “giải mã” được vì sao một người phạm tội và phạm tội này chứ
không phải tội khác. Chính từ đó, có thể dự báo được tội phạm và phịng ngừa tội phạm có
hiệu quả.
Đặc điểm tâm lý trong nhân thân người phạm tội không chỉ là đối tượng nghiên cứu
của Tội phạm học mà nó cịn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác như:
Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Tâm lý học… Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích, nhiệm
vụ nghiên cứu riêng mà mỗi ngành nghiên cứu về tâm lý người phạm tội theo những tiêu
chí khác nhau, với phạm vi và mức độ cũng khác nhau. Với mục đích xác định nguyên
nhân, điều kiện phạm tội; dự báo và phòng ngừa tội phạm, Tội phạm học nghiên cứu đặc
điểm tâm lý người phạm tội ở một phạm vi rộng và mức độ chi tiết. Chẳng hạn về phạm vi
nghiên cứu, Tội phạm học nghiên cứu về đặc điểm tâm lý người phạm tội bao gồm một

tổng thể các đặc điểm như: nhu cầu, hứng thú, định hướng giá trị, ý thức đạo đức, ý thức
pháp luật… và những yếu tố tác động đến việc hình thành nhân cách, ý thức, tâm lý con
người. Trong những điều kiện ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển và hình thành nhân
cách, ý thức, thái độ tâm lý của con người thì con người rất dễ nảy sinh trạng thái tiêu cực,
các thái độ xử sự đi ngược lại với những quy định của pháp luật.
Tuy vậy, Tội phạm học không nghiên cứu tất cả các yếu tố tâm lý người phạm tội
mà chỉ nghiên cứu những đặc điểm phổ biến, điển hình phản ánh được bản chất của con
người phạm tội, đồng thời đó cũng là những đặc điểm tâm lý có ảnh hưởng trong cơ chế
hành vi phạm tội, thể hiện sự chống đối xã hội.
Tóm lại, nghiên cứu các đặc điểm tâm lý điển của người phạm tội theo khoa học
Tội phạm học là việc nghiên cứu các đặc điểm tâm lý và các yếu tố tác động đến sự hình
thành và phát triển tâm lý làm ảnh hưởng đến hành vi của con người khiến họ thực hiện
hành vi phạm tội, từ đó lý giải nguyên nhân của tội phạm.
Cùng nghiên cứu về đặc điểm tâm lý của người phạm tội nhưng khoa học Luật
Hình sự có phạm vi, mức độ và mục đích nghiên cứu khác. Các đặc điểm tâm lý trong
nhân thân người phạm tội được khoa học Luật Hình sự nghiên cứu nhằm mục đích đánh


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

9
giá, phân tích vai trị của các đặc điểm đó trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự, định tội
danh, quyết định hình phạt [14 – tr.122, 124] [16 – tr.117, 119].
Khi nghiên cứu về đặc điểm tâm lý của người phạm tội, Luật Hình sự cũng tìm
hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý tiêu cực, hình thành động cơ dẫn đến
việc thực hiện hành vi phạm tội của người phạm tội. Nhưng mục đích khơng phải để lý
giải nguyên nhân phạm tội, dự báo và phòng ngừa tội phạm như Tội phạm học mà Luật
Hình sự nghiên cứu những đặc điểm tâm lý của người phạm tội để xác định những yếu tố
này có ảnh hưởng như thế nào đối với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội có ý nghĩa quan trọng

trong việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, định tội danh và quyết định hình phạt đối với
người phạm tội. Đây là điểm khác nhau rất quan trọng giữa Luật Hình sự và Tội phạm học
khi nghiên cứu về đặc điểm tâm lý người phạm tội.
Có thể nêu ra một ví dụ chứng tỏ lập luận này như sau: tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã sửa đổi, bổ sung
năm 2009) là trường hợp giết người trong trạng thái bị kích động mạnh do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích
của người đó. Đối với tội này, Luật Hình sự nghiên cứu tình trạng tinh thần bị kích động
mạnh của người phạm tội ở góc độ là tình trạng của người phạm tội khơng hồn tồn tự
chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình [3]. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của nạn nhân là
nguyên nhân làm cho trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy đến cao độ và người
phạm tội lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Như vậy, để xem xét dấu hiệu
“giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, Luật Hình sự phải đi vào phân
tích nguyên nhân tác động vào trạng thái tinh thần, trạng thái tâm lý cùng diễn biến tâm lý
của người phạm tội khiến cho người đó đi đến thực hiện hành vi giết người. Trên cơ sở đó
xác định những sự việc này có phù hợp, đồng nhất với khái niệm được nêu trong Luật
Hình sự hay khơng? Nếu khơng đồng nhất thì sự việc đó khơng có ý nghĩa về mặt hình sự,
nếu đồng nhất thì đây là cơ sở để giải quyết đúng đắn về trách nhiệm hình sự đối với


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

10
người phạm tội. Trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội ở tội giết người
theo Điều 95 này sẽ nhẹ hơn so với trách nhiệm hình sự và hình phạt ở tội giết người
thơng thường, bởi vì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là thấp hơn.
Nhưng nếu nghiên cứu tội giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh
ở góc độ Tội phạm học thì người nghiên cứu sẽ phải theo các tiêu chí và mục đích khác
với Luật Hình sự. Góc độ tâm lý của người phạm tội ở Điều 95 này sẽ được Tội phạm học

nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn và mức độ chi tiết hơn. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu
là phát hiện ra quy luật phát sinh, tồn tại và vận động của tội phạm thơng qua việc tìm
hiểu ngun nhân, điều kiện của tội phạm, Tội phạm học không chỉ nghiên cứu tâm lý
người phạm tội để trả lời cho câu hỏi: người phạm tội nguy hiểm như thế nào? Mà còn lý
giải tại sao tội phạm này lại xảy ra? Vì sao trong cùng một hoàn cảnh, người này lựa chọn
phương án thực hiện hành vi phạm tội, người khác lại không? Điểm khác nhau về diễn
biến tâm lý của những người phạm tội khác nhau trong cùng một tội ở Điều 95 này là như
thế nào? Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân (nếu nạn nhân là
người thân của người phạm tội) đối với tâm lý kích động mạnh của người phạm tội là như
thế nào?... Và hàng loạt các vấn đề khác liên quan đến tâm lý người phạm tội được đặt ra.
Mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của việc thực hiện tội phạm
để phục vụ cho việc xây dựng các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả
cao nhất.
Tuy mục đích, phạm vi nghiên cứu không trùng nhau nhưng Tội phạm học và khoa
học Luật Hình sự có mối quan hệ chặt chẽ. Mối quan hệ này thể hiện trước hết ở nhiệm vụ
chung khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội mà cụ thể hơn là đặc điểm tâm lý người
phạm tội là phục vụ cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Khoa học Luật Hình sự có
thể sử dụng kết quả nghiên cứu của Tội phạm học về đặc điểm tâm lý của người phạm tội
trong một tội phạm cụ thể để xác định chính xác, đúng đắn hơn trách nhiệm hình sự mà
người phạm tội phải chịu, cũng như hình phạt tương xứng với mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội thể hiện trong đặc điểm tâm lý của người đó.


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

11
Khác với Tội phạm học và khoa học Luật Hình sự, khoa học Luật Tố tụng hình sự
chủ yếu nghiên cứu các hoạt động tố tụng hình sự như: điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án, mối quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự. Theo ngun tắc khơng ai bị coi là có tội và phải chịu

hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2003) thì người bị tình nghi là người phạm tội trong quá trình xét xử theo
trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự chưa thể khẳng định là người phạm tội. Vì
vậy, trong Tố tụng hình sự không sử dụng khái niệm “người phạm tội” mà được thay thế
bằng khái niệm bị can - người đã bị khởi tố về hình sự (khoản 1 Điều 49 Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003) hay bị cáo - người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (khoản 1 Điều 50
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003). Do đó, dưới góc độ của Luật Tố tụng hình sự có khái niệm
nhân thân bị can hoặc nhân thân bị cáo tùy theo giai đoạn tố tụng. Các đặc điểm tâm lý là
yếu tố không thể không đề cập khi chúng ta nhắc đến nhân thân bị can, bị cáo.
Khoa học Luật Tố tụng hình sự nghiên cứu đặc điểm tâm lý điển hình của bị can, bị
cáo vì trách nhiệm của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong từng vụ án cụ thể
là phải tìm ra nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc thực hiện tội phạm thơng qua q
trình tố tụng hình sự như: hỏi cung, lấy lời khai, điều tra, xét xử... Để thực hiện tốt nhiệm
vụ của mình, những cơ quan tham gia tố tụng, người tham gia tố tụng phải tìm hiểu rõ đặc
điểm tâm lý của bị can, bị cáo; không để xảy ra những sai lầm về mặt tố tụng. Ví dụ: đối
với bị can, bị cáo là người có nhược điểm về tâm thần, có tâm lý rối loạn, khơng bình
thường khi đưa ra xét xử nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng
mời người bào chữa thì cơ quan điều tra,Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đồn
luật sư phân cơng Văn phịng luật sư cử người bào chữa cho họ (khoản 2 Điều 57 Bộ luật
tố tụng hình sự 2003). Có thể khẳng định, tham gia vào từng giai đoạn tố tụng khác nhau,
người phạm tội sẽ chịu tác động của điều kiện và mục đích khác nhau của hoạt động mà
có những diễn biến tâm lý khác biệt. Tất cả những diễn biến tâm lý của người phạm tội
với các tư cách là người bị tình nghi, bị can, bị cáo, phạm nhân… là đối tượng được quan
tâm nghiên cứu của Luật Tố tụng hình sự. Ngoài đối tượng là bị can, bị cáo, phạm nhân


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phịng ngừa tội phạm.

12
thì Luật Tố tụng hình sự cịn nghiên cứu các khía cạnh tâm lý của người làm chứng, người

bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, của các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư pháp... khi
họ tham gia vào các giai đoạn khác nhau của quá trình xét xử.
Như vậy, khoa học Luật Tố tụng hình sự nghiên cứu đặc điểm tâm lý điển hình của
bị can, bị cáo trong nhân thân bị can, bị cáo là nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong từng giai đoạn tố tụng cụ thể để
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong khi đó, mục đích của Tội phạm học là nhằm tìm
hiểu nguyên nhân, điều kiện phạm tội để từ đó dự báo và phịng ngừa tội phạm. Vì mục
đích khác nhau nên phạm vi nghiên cứu và mức độ nghiên cứu của Tội phạm học về đặc
điểm tâm lý người phạm tội sâu rộng hơn khoa học Luật Tố tụng hình sự. Tuy khác nhau
như vậy nhưng khi cùng nghiên cứu về đặc điểm tâm lý của người phạm tội giữa Tội
phạm học và khoa học Luật Tố tụng hình sự có sự hỗ trợ, bổ sung lý luận cho nhau, từ đó
phục vụ cho cơng tác hoạch định chính sách hình sự và đưa ra các giải pháp hồn thiện
pháp luật, giúp đấu tranh phịng, chống tội phạm ngày càng vững mạnh.
1.3. Tính chất phổ biến, điển hình của một số đặc điểm tâm lý của ngƣời phạm
tội đƣợc nghiên cứu
Hành vi phạm tội của một người luôn chịu sự chi phối của đời sống tâm lý, đặc
điểm cá nhân trong hoàn cảnh xã hội của họ. Vậy đặc điểm tâm lý nào của người phạm tội
là nguyên nhân dẫn đến việc họ thực hiện hành vi phạm tội. Cần phải thấy rằng, đối với
con người, đặc trưng cơ bản là hoạt động có ý thức, có mục đích. Tội phạm được thực
hiện do cố ý hay vô ý nhưng vẫn là hành vi của con người có ý thức. Do vậy, nguyên nhân
dẫn đến hành vi này không chỉ phụ thuộc vào chủ thể hành động với những kết cấu hết
sức phức tạp về tâm sinh lí mà cịn phụ thuộc vào những hồn cảnh xã hội mà họ trải
nghiệm. Trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ phân tích một số đặc điểm tâm lý phổ
biến, điển hình của người phạm tội với mục đích làm sáng tỏ một phần nguyên nhân phạm
tội.
Tính chất phổ biến trong tâm lý người phạm tội thể hiện ở sự tác động đối với
nhiều tội phạm khác nhau. Chẳng hạn khi nghiên cứu về ý thức pháp luật của người phạm


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.


13
tội - một đặc điểm trong tâm lý người phạm tội, Tội phạm học nhận thấy phần lớn người
phạm tội có sự hiểu biết về pháp luật rất hạn chế, những quy định của pháp luật chưa thực
sự có ý nghĩa trong đời sống hàng ngày của họ, việc giải quyết các mối quan hệ xã hội chủ
yếu dựa trên thói quen, kinh nghiệm cá nhân hoặc những phong tục, tập quán địa phương.
Chính ý thức pháp luật cịn nhiều hạn chế là một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn
đến nhiều tội phạm khác nhau như: tội giết người, tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác, tội hiếp dâm trẻ em... Một ví dụ khác cho tính chất phổ biến
của đặc điểm tâm lý của người phạm tội được tác giả lựa chọn nghiên cứu đó là ý thức đạo
đức. Ý thức đạo đức của hầu hết người phạm tội đều có sự sai lệch hoặc không nhận thức
được các giá trị đạo đức như những người bình thường khác. Người phạm tội có những
quan niệm, đánh giá riêng biệt về nội dung của những giá trị đạo đức, quan niệm của họ
về điều thiện - ác, tốt - xấu, chính - tà có sự sai lệch so với những chuẩn mực chung của xã
hội, của giai cấp. Chính ý thức đạo đức như vậy là một trong những nguyên nhân phổ biến
làm cho người phạm tội có thái độ ứng xử chống đối lại xã hội, đi ngược lại các giá trị mà
cộng đồng trân trọng và gìn giữ.
Khác với tính chất phổ biến, tính chất điển hình của tâm lý người phạm tội nói lên
sự tác động rõ nét đối với việc hình thành động cơ, nguyên nhân thực hiện tội phạm. Mỗi
loại tội phạm hay mỗi hành vi phạm tội cụ thể đều có những động cơ, nguyên nhân riêng
của nó. Tuy có thể tồn tại nhiều loại động cơ, nguyên nhân nhưng trong số đó sẽ có những
động cơ, nguyên nhân có tính chất quyết định. Cũng tương tự như vậy, có thể trong tâm lý
của người phạm tội diễn ra nhiều kiểu suy nghĩ và tính tốn nhưng sẽ có những đặc điểm
tâm lý có tính chất quan trọng, quyết định đến việc hình thành động cơ thực hiện hành vi
phạm tội. Sự tác động quyết định, rõ nét của đặc điểm tâm lý đối với việc hình thành động
cơ, nguyên nhân thực hiện tội phạm là mối quan tâm nghiên cứu hàng đầu của Tội phạm
học khi nghiên cứu về tâm lý của người phạm tội.
Vì giới hạn về dung lượng của khóa luận tốt nghiệp nên tác giả chỉ lựa chọn để
nghiên cứu một số đặc điểm của tâm lý người phạm tội có tính chất điển hình như nhu
cầu, hứng thú, định hướng giá trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật. Còn các đặc điểm khác



Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

14
của tâm lý như niềm tin, lý tưởng, tính cách, khí chất… là các đặc điểm tâm lý ít phổ biến,
khơng điển hình, ảnh hưởng khơng rõ nét đối với hành vi phạm tội nên tác giả không lựa
chọn làm đối tượng nghiên cứu.
1.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các đặc điểm tâm lý phổ biến, điển hình của
ngƣời phạm tội ở góc độ Tội phạm học
Kết quả nghiên cứu đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội có ý nghĩa rất
quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm. Cụ thể như
sau:
Trước hết, nghiên cứu đặc điểm tâm lý người phạm tội giúp hiểu rõ hơn về nguyên
nhân và điều kiện của một tội phạm cụ thể. Đây chính là những đặc điểm thể hiện rõ nhất
các quan niệm, quan điểm, tính cách, lối sống tiêu cực hay nói cách khác thể hiện nhân
cách, phẩm chất lệch lạc của một con người. Các nhóm đặc điểm nhân thân khác khơng
phải khơng có ý nghĩa trong cơ chế hành vi phạm tội nhưng nhóm đặc điểm phản ánh tâm
lý tiêu cực của người phạm tội có vai trị đặc biệt quan trọng trong cơ chế hành vi phạm
tội. Chính việc hình thành những đặc điểm tâm lý tiêu cực này là tiền đề cho giai đoạn tiếp
theo là giai đoạn làm phát sinh hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, một người dù có những phẩm chất, nhân cách xấu đến mấy nhưng nếu
không có những yếu tố bên ngồi mơi trường thuận lợi thì cũng khơng thể phát sinh tội
phạm và ngược lại, những yếu tố môi trường dù thuận lợi đến mấy, nếu như con người
khơng có những phẩm chất, nhân cách xấu, tâm lý tiêu cực thì cũng khơng thể phát sinh
hành vi phạm tội. Quan điểm này cũng đã được GS.TS. Võ khánh Vinh khẳng định:
“...những điều kiện, những yếu tố của mơi trường bên ngồi hay những q trình tâm lý
bên trong con người, dù ở mức độ bất lợi và xấu như thế nào đi chăng nữa, tự nó đều
khơng phải là ngun nhân và điều kiện của hành vi phạm tội cụ thể, mà phải là sự tương
tác, kết hợp của hai loại yếu tố đó mới trở thành nguyên nhân và điều kiện của tội phạm

cụ thể” [24 – tr.44].
Như vậy, việc Tội phạm học đi sâu vào nghiên cứu các yếu tố thuộc về tâm lý của
người phạm tội và quá trình hình thành những đặc điểm tâm lý tiêu cực dẫn đến việc con


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phòng ngừa tội phạm.

15
người thực hiện tội phạm sẽ giúp xác định được nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ
thể.
Thứ hai, nghiên cứu đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội tạo cơ sở cho
việc xây dựng các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội. Con đường trở thành tội
phạm của mỗi người khơng hồn tồn giống nhau, có người do nhu cầu thiếu thốn tiền
bạc, có người do tâm lý thích bạo lực hay đơn giản chỉ là do tinh thần bị kích động mạnh
mà khơng điều khiển được hành vi của mình mà phạm tội... Từ những yếu tố khác nhau đó
dẫn đến mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do mỗi người gây ra
cũng không giống nhau. Điều này địi hỏi phải có một mơi trường quản lí, giáo dục phù
hợp với đặc điểm tâm lý của người phạm tội, từ đó làm thay đổi cách nhìn nhận, thái độ
của họ, giúp họ hình thành tâm lý, thái độ phù hợp với yêu cầu của xã hội. Chính kết quả
nghiên cứu đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội sẽ là căn cứ để xây dựng nội
dung, phương pháp, hình thức giáo dục cải tạo đối với người phạm tội.
Thứ ba, nghiên cứu đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội có ý nghĩa quan
trọng trong dự báo và phòng ngừa tội phạm. Việc nghiên cứu những đặc điểm tâm lý điển
hình của người phạm tội cho phép xác định những đặc điểm ấy có ảnh hưởng như thế nào
đối với việc thực hiện hành vi phạm tội, vai trị, vị trí của mỗi đặc điểm trong cơ chế tâm lí
xã hội của hành vi phạm tội. Đồng thời, chúng ta thấy được sự ảnh hưởng của điều kiện xã
hội đến việc hình thành tâm lý tiêu cực của người phạm tội. Dựa vào đó có thể đưa ra
được các dự báo về tình hình tội phạm cùng biện pháp, kế hoạch phòng ngừa tội phạm,
loại trừ các điều kiện thuận lợi cho việc phát sinh tội phạm, hạn chế các nhân tố có ảnh
hưởng đến sự hình thành các đặc điểm tâm lý tiêu cực của con người.

Tóm lại, việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội có ý nghĩa
to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đây là cơ sở đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm
thích hợp để loại bỏ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội của mỗi người; cũng như
giúp xây dựng mơ hình quản lí, giáo dục cải tạo phù hợp, tạo điều kiện cho người phạm
tội tái hòa nhập với xã hội.


Một số đặc điểm tâm lý điển hình của người phạm tội và vấn đề phịng ngừa tội phạm.

16
1.5. Tình hình nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của ngƣời phạm tội trong Tội
phạm học nƣớc ngoài
Tâm lý người phạm tội cũng như ảnh hưởng của tâm lý đối với việc hình thành
nguyên nhân phạm tội là vấn đề được các nhà khoa học nước ngoài đề cập và nghiên cứu
từ nhiều thập kỷ trước. Các nhà Tội phạm học đã cố gắng lý giải nguyên nhân tội phạm
bắt nguồn từ vấn đề tâm lý của người phạm tội. Từ đây hình thành nhiều nhánh khác nhau
của các thuyết tâm lý trong Tội phạm học.
Thời lỳ sơ khai của thuyết tâm lý quyết định, các nhà khoa học đã nghiên cứu hành
vi phạm tội theo hai hướng: hướng thứ nhất, nhấn mạnh hành vi phạm tội như là hành vi
có điều kiện, hướng thứ hai coi hành vi phạm tội như là sự rối loạn nhân cách hoặc là bệnh
tâm thần về tâm lý.
Sau đó, một số nhà khoa học khác đi theo con đường nghiên cứu, tìm hiểu về bệnh
học tâm lý (Psychopathology). Nhà nghiên cứu Nolan D.C. Lewis đã coi: “Người phạm
tội như những người bình thường có cuộc sống theo thiên hướng bản năng, ham muốn,
khát khao, có cảm xúc nhưng nếu một trong những khả năng nhận thức của anh ta rõ ràng
kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự kiềm hãm theo khuynh hướng nào đó. Con người anh ta sẽ
hoạt động theo hướng lệch lạc dẫn đến việc anh ta xung đột với pháp luật và các hình
mẫu văn hóa của xã hội” [11– tr.101, 102].
Còn các nhà khoa học đi theo con đường Tội phạm học tâm thần (Psychiatric
Criminology) như Hervey M. Cleckley, Hans J. Eysenck đã tập trung tìm hiểu mối liên hệ

giữa tội phạm và nhân cách con người theo hai hướng: 1) Các loại nhân cách chống đối xã
hội; 2) Loại nhân cách liên quan đến việc thực hiện tội phạm. Quan điểm của Tội phạm
học tâm thần cũng đã lý giải xu hướng cũng như động cơ phạm tội có liên quan đến loại
nhân cách. Tuy nhiên, “thuyết tâm lý quyết định” thực sự bùng nổ và bắt đầu có chỗ đứng
quan trọng trong Tội phạm học từ khi xuất hiện những cơng trình nghiên cứu nổi tiếng về
phân tâm học của Sigmund Freud.


×