Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Chức năng xét xử theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN PHẠM DUYÊN AN

CHỨC NĂNG XÉT XỬ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

CHỨC NĂNG XÉT XỬ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Trần Phạm Duyên An
Lớp: Cao học Luật, Khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn thạc sĩ “Chức năng xét xử theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi dưới sự hướng dẫn của
TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Những số liệu và thơng tin trích dẫn, chú thích trong luận
văn là trung thực, đầy đủ, chính xác. Kết quả nghiên cứu của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kì cơng trình khoa học nào khác.
Nếu có bất kỳ thơng tin nào sai sự thật, tơi sẽ hồn tồn chịu trách nhiệm.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày…. tháng…. năm 2019
Tác giả luận văn

Trần Phạm Duyên An


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND


Tịa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XXST

Xét xử sơ thẩm


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................................................................7
1.1. Chức năng tố tụng hình sự ............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm chức năng tố tụng hình sự......................................................... 7
1.1.2. Phân loại chức năng tố tụng hình sự ......................................................... 9
1.2. Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự ..................................................... 17
1.2.1. Khái niệm, nội dung của chức năng xét xử trong tố tụng hình sự ........... 17
1.2.2. Chủ thể thực hiện, thời điểm bắt đầu và kết thúc của chức năng xét xử
trong tố tụng hình sự .......................................................................................... 22

1.2.3. Vị trí của chức năng xét xử trong tố tụng hình sự .................................... 25
1.2.4. Mối quan hệ giữa chức năng xét xử với chức năng buộc tội, chức năng
bào chữa ............................................................................................................. 27
1.3. Chức năng xét xử trong các mơ hình tố tụng hình sự ............................... 30
1.3.1. Chức năng xét xử trong tố tụng tố cáo ..................................................... 30
1.3.2. Chức năng xét xử trong tố tụng thẩm vấn ................................................ 31
1.3.3. Chức năng xét xử trong tố tụng tranh tụng .............................................. 32
1.3.4. Chức năng xét xử trong tố tụng pha trộn ................................................. 33
Kết luận chương 1 ...................................................................................................35
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨC
NĂNG XÉT XỬ .......................................................................................................37
2.1. Chức năng xét xử trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............. 37
2.1.1. Quy định về việc Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ.............. 37
2.1.2. Quy định về việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung............................ 39
2.1.3. Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................................. 46
2.2. Chức năng xét xử tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ....................................... 51
2.2.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng xét xử trong thủ tục xét
hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ....................................................................... 51
2.2.2. Quy định về xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội danh
nhẹ hơn tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ............................................................... 55


2.2.3. Quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử .................... 57
Kết luận chương 2 ...................................................................................................61
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG XÉT XỬ TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN .............................................63
3.1. Thực tiễn thực hiện chức năng xét xử trong tố tụng hình sự ................... 63
3.1.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện chức năng xét xử trong
tố tụng hình sự .................................................................................................... 63
3.1.2. Những hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng xét xử trong tố tụng

hình sự ................................................................................................................ 65
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng xét
xử trong tố tụng hình sự ..................................................................................... 71
3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng thực hiện chức
năng xét xử trong tố tụng hình sự ...................................................................... 73
3.2.1. Cải cách tư pháp và yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện chức năng
xét xử trong tố tụng hình sự ................................................................................ 73
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chức năng xét xử trong
tố tụng hình sự .................................................................................................... 75
3.2.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chức năng xét xử trong tố
tụng hình sự ........................................................................................................ 79
Kết luận chương 3 ...................................................................................................82
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chức năng tố tụng hình sự là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận
và thực tiễn. Nhận thức đúng đắn về nội dung, vị trí, vai trị của từng chức năng tố
tụng hình sự sẽ tạo cơ sở vững chắc định hướng cho công cuộc cải cách tư pháp,
góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống tội phạm. Chức năng xét xử là
một trong ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đóng vai trò trung tâm bên cạnh
hai chức năng buộc tội và bào chữa. Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm
2013 và Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tịa án nhân dân là cơ
quan thực hiện chức năng xét xử, là cơ quan trung tâm trong công cuộc cải cách tư
pháp. Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 xác định các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong đó trọng
tâm là xây dựng, hồn thiện tổ chức và hoạt động của Tịa án nhân dân.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời trên tinh thần thể chế hóa nội dung các
Nghị quyết về cải cách tư pháp. Ở lần ban hành này Quốc hội đã ghi nhận vào Bộ luật
tố tụng hình sự nhiều nhiệm vụ và quyền hạn mới cho Tòa án, nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động xét xử; tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định sự thật khách quan
của vụ án, xử lí kịp thời mọi hành vi phạm tội, kiểm soát chặt chẽ tội phạm. Trong đó
tiêu biểu là việc mở rộng giới hạn xét xử sơ thẩm, cùng với các quy định về hoạt
động chứng minh, thu thập, bổ sung chứng cứ của Tịa án. Điều này dẫn đến tình
trạng chồng chéo, lẫn lộn chức năng. Hơn nữa sẽ gây ra mâu thuẫn trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, vi phạm một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự,
ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của của người bị buộc tội. Vì vậy cần phải
nghiên cứu sửa đổi các quy định có liên quan đến chức năng xét xử.
Chủ thể thực hiện chức năng xét xử là thẩm phán và hội thẩm. Đây là nhân tố
quan trọng, quyết định hiệu quả, chất lượng việc thực hiện chức năng xét xử trong
thực tiễn. Hiện nay tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, sự gia tăng về
số lượng cũng như mức độ nguy hiểm đặt ra yêu cầu chất lượng thẩm phán và hội
thẩm phải ngày càng hoàn thiện về số lượng lẫn chất lượng, phục vụ cho công tác
xét xử, đấu tranh với tội phạm. Dựa trên yêu cầu thực tiễn, các lớp đào tạo bồi
dưỡng nghiệp vụ, phiên tòa trực tuyến rút kinh nghiệm mang lại nhiều bài học quý
báu. Các cuộc thi tuyển thẩm phán hằng năm được tổ chức ngày càng quy mô và


2
chất lượng, yêu cầu đặt ra ngày càng cao thể hiện sự nâng tầm chất lượng đối với
chức danh này đáp ứng yêu cầu xét xử trên thực tế. Số lượng các vụ án được giải
quyết ngày càng nhiều, thể hiện sự cố gắng của cả tập thể ngành Tòa án. Tuy nhiên
vẫn còn một số tồn tại, chất lượng đội ngũ thẩm phán có sự phân hóa giữa các vùng
miền, nhận thức áp dụng pháp luật chưa đồng nhất, cịn mang nặng tư duy hành
chính chỉ đạo thỉnh thị, tâm lý lo sợ đối với việc bổ nhiệm lại. Đây là những vấn đề
cần được khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chức năng xét xử.
Trước đây đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về chức năng tố tụng

hình sự. Tuy nhiên khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã có nhiều sửa đổi
về phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng. Những sửa đổi
này nhằm tăng tính chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng để xử lý kịp thời tội
phạm. Nội dung của các chức năng tố tụng hình sự có nhiều thay đổi lớn, đặc biệt
chức năng xét xử được bổ sung nhiều nội dung mới chồng lấn phạm vi của các chức
năng khác. Việc đánh giá, phân tích một cách toàn diện những sửa đổi, bổ sung đối
với chức năng xét xử sẽ giúp hiểu rõ hơn chức năng xét xử theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam. Vì vậy cần có một đề tài nghiên cứu, đánh giá sự phù hợp giữa việc sửa
đổi và các kiến thức chung về mặt lý luận chức năng của tố tụng hình sự, tạo ra sự
đồng bộ trong việc sửa đổi, hướng tới nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
chức năng này, đưa Tòa án trở lại là cơ quan thực hiện chức năng xét xử đúng nghĩa.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đã chọn đề tài “Chức năng xét
xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về các chức năng cơ bản
của tố tụng hình sự ở những cấp độ và phạm vi khác nhau. Những cơng trình nghiên
cứu mà tác giả tiếp cận được bao gồm:
Về luận án tiến sĩ
- Lê Tiến Châu (2009), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt
Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội
viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.


3
Nội dung của hai luận án này đã làm rõ vấn đề về mặt lý luận, quy định pháp
luật cũng như thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về chức năng xét xử trên nền
tảng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Về luận văn thạc sĩ

- Lê Tiến Châu (2001), Các chức năng tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự;
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Ánh (2007), Chức năng xét xử của Tòa án trong tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Phùng Bá Thắng (2019), Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là những luận văn nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của chức năng
cơ bản trong tố tụng hình sự, từ khái quát đến cụ thể, luận văn của tác giả Lê Tiến
Châu đã nghiên cứu bao quát, toàn diện về cả ba chức năng cơ bản trong tố tụng
hình sự trên cơ sở Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Luận văn của tác giả Trần Thị
Ánh nghiên cứu ở góc độ chức năng xét xử, trong mối quan hệ với các nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự trên nền tảng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Gần đây
nhất là luận văn của tác giả Phùng Bá Thắng nghiên cứu về thẩm quyền khởi tố vụ
án của Viện kiểm sát và Tòa án (Hội đồng xét xử) theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015.
Về bài viết trên các tạp chí khoa học
- Nguyễn Thái Phúc (2007), “Mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 05;
- Nguyễn Thái Phúc (2019), “Cần sửa đổi và hoàn thiện Điều 298 về giới
hạn xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”.
Những bài viết này cung cấp các kiến thức hữu ích về chức năng tố tụng hình sự
từ nhiều góc độ khác nhau, bên cạnh đó cịn chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định
của pháp luật về nội dung chức năng xét xử. Tuy nhiên, những bài viết chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu, phân tích một vài khía cạnh riêng lẻ mà chưa có sự phân tích bao qt
tồn diện các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn thực hiện chức năng xét xử.
Các cơng trình nghiên cứu đã kể trên, là nguồn tư liệu quý báu bước đầu đã
tạo ra những nền tảng cơ bản cho việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chức


4

năng xét xử trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
đã có hiệu lực pháp luật, được áp dụng trên thực tiễn từ ngày 01/01/2018, nhiều quy
định mới về nội dung chức năng xét xử của Tòa án cũng được áp dụng nhưng chưa
có đề tài khoa học nào phân tích và đánh giá. Điều này cho thấy luận văn của tác giả
có tính thời sự và cấp thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực
tiễn thực hiện chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn đề ra giải
pháp góp phần hồn thiện pháp luật, phân định hợp lý những nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án thuộc chức xét xử, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức
năng tố tụng cơ bản này trong thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn cần hoàn thành những
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chức năng xét xử trong tố tụng hình sự;
- Phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành liên quan đến chức năng xét xử;
- Trình bày và nhận xét về thực tiễn thực hiện chức năng xét xử ở nước ta;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chức
năng xét xử.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam (chủ yếu là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) và thực
tiễn thực hiện chức năng xét xử. Tác giả lựa chọn những chế định còn nhiều quan
điểm khác nhau trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (chuẩn bị xét xử và tại
phiên tịa). Bên cạnh đó, luận văn cịn so sánh với một số quy định tương ứng trong
Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001.



5
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng xét xử
trong tố tụng hình sự trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: luận văn chủ yếu sử dụng số liệu thống kê trong ba năm gần đây
từ năm 2016 đến năm 2018 để tìm hiểu và nhận xét về thực tiễn thực hiện chức
năng xét xử trong tố tụng hình sự nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương của Đảng và nhà
Nước về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, đảm bảo
quyền con người trong tố tụng hình sự.
Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu điển hình trong lĩnh vực khoa học pháp lý như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê. Cụ thể, phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ luận
văn. Ở Chương 1 tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ
những vấn đề về mặt lý luận. Đối với Chương 2 về các quy định pháp luật tác giả sử
dụng phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp, trong đó phương pháp so sánh
được sử dụng để đối chiếu, so sánh quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Nga năm 2001 và so sánh giữa Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam qua các năm, làm rõ sự thay đổi và tiến bộ. Phương pháp
thống kê được sử dụng tại Chương 3 trong phần thực tiễn thực hiện chức năng xét
xử để minh chứng cho những kết quả đạt được.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng xét xử
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam; phân tích sự tương đồng giữa những vấn đề lý
luận chung và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Từ đó đề xuất các
định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả thực
hiện chức năng xét xử đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.

Với những đóng góp trên, tác giả hi vọng luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy, đóng góp
một phần nhỏ vào việc sửa đổi các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
để ngày càng hoàn thiện hơn.


6
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chức năng xét xử trong tố tụng hình sự
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chức năng xét xử
Chương 3. Thực tiễn thực hiện chức năng xét xử và giải pháp hoàn thiện


7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Chức năng tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm chức năng tố tụng hình sự
Hiện nay khái niệm chức năng tố tụng hình sự (TTHS) vẫn chưa có sự thống
nhất. Các nhà nghiên cứu khoa học khai thác khái niệm chức năng TTHS ở nhiều
khía cạnh, cấp độ khác nhau. Theo từ điển pháp lý thì chức năng là “phương diện
mặt hoạt động chủ yếu của một thiết chế (cơ quan, tổ chức)”1. Như vậy chỉ những
phương diện, mặt hoạt động cơ bản, chủ yếu của các chủ thể trong TTHS mang tính
chất định hướng lâu dài thể hiện được bản chất, mục đích góp phần vào sự vận động
ổn định của quá trình TTHS mới được xem là chức năng của TTHS. Có quan điểm
cho rằng: “Nói đến chức năng tố tụng hình sự là nói đến những định hướng hoạt
động trong q trình tố tụng hình sự mà khơng lẫn lộn với chức năng vốn có của

các thiết chế tổ chức”2. Ở đây tác giả đã nêu ra điểm khác nhau giữa chức năng
TTHS và chức năng được đặt ra từ tổ chức và tính chất hoạt động của các chủ thể
TTHS, đồng thời xác định chức năng TTHS là định hướng hoạt động trong quá
trình TTHS. Nếu hiểu chức năng TTHS đồng nhất với chức năng được đặt ra từ tổ
chức và tính chất hoạt động của các chủ thể TTHS thì sẽ tồn tại trong TTHS các
chức năng điều tra vụ án hình sự (VAHS) của Cơ quan điều tra, chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát (VKS), chức năng
xét xử, chức năng bào chữa. Hơn nữa, chức năng TTHS là những định hướng hoạt
động trong cả quá trình TTHS, nếu chỉ hiểu chức năng TTHS trong phạm vi chỉ là
những định hướng các hoạt động của các chủ thể có quyền và nghĩa vụ tố tụng là
quá hẹp. Chức năng TTHS là những định hướng mang tính chỉ đạo nhằm phân định
các hoạt động của các chủ thể khác nhau một cách rõ ràng phù hợp với quyền và
nghĩa vụ tố tụng của các bên chủ thể. Dưới đây là những quan điểm của những tác
giả khác nhau về chức năng TTHS.
Quan điểm thứ nhất: “Chức năng tố tụng hình sự là những hoạt động
mang tính định hướng cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực tố
1

Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp, tr. 126.
Đào Trí Úc (2011), “Tố tụng hình sự Việt Nam cần được đổi mới và hoàn thiện theo hướng nào”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 14 (199).
2


8
tụng hình sự của các chủ thể khác nhau, trong những phạm vi nhất định, trên cơ
sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố
tụng”3. TTHS là một hệ thống bao gồm các yếu tố chủ đạo: mục đích TTHS, các
nguyên tắc cơ bản của TTHS, các chức năng chủ yếu trong TTHS, vị trí pháp lý
của các chủ thể hoạt động TTHS và quan hệ giữa các chủ thế đó trong TTHS,

các giai đoạn TTHS, phương thức đạt được mục đích của TTHS hay là vấn đề
chứng cứ và chứng minh trong TTHS. Trong đó mục đích TTHS là yếu tố quyết
định, đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cho các hoạt động TTHS đó là nguyên tắc
TTHS. Mục đích và nguyên tắc TTHS là xuất phát điểm để xác định chức năng,
vị trí và mối quan hệ giữa các chủ thể TTHS trong một phạm vi và mức độ nhất
định. Với cách tiếp cận dựa trên lý thuyết về chức năng luận, tác giả coi TTHS là
một hệ thống, trong hệ thống này các chủ thể tiến hành nhiều hoạt động và hành
vi khác nhau nhưng chỉ những hoạt động chủ yếu góp phần vào sự vận hành ổn
định của hệ thống TTHS mới được gọi là chức năng. Bên cạnh đó các hoạt động
trong TTHS ln có mối liên hệ lẫn nhau, mỗi chủ thể trong quan hệ TTHS thực
hiện nhiều hoạt động khác nhau nhưng đều hướng các hành vi TTHS của mình
đến mục đích tương ứng nhất định do pháp luật quy định. Cách định nghĩa chức
năng TTHS này xem chức năng TTHS là hoạt động cụ thể của các chủ thể nhằm
phân định các hoạt động của các chủ thể, có quyền và nghĩa vụ tố tụng khác
nhau là chưa đầy đủ, chưa nêu bật được mối quan hệ gắn kế hữu cơ giữa các
chức năng TTHS. Bởi vì TTHS là tổng hợp nhiều hoạt động khác nhau do nhiều
chủ thể thực hiện, định hướng khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng đều
hướng đến thực hiện mục tiêu chung của TTHS là xác định sự thật khách quan
của vụ án, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời các hoạt
động này cần được phân định một cách rõ ràng cụ thể.
Quan điểm thứ hai: “Chức năng tố tụng hình sự là những định hướng của các
hoạt động tố tụng. Hoạt động tố tụng hình sự được đặc trưng bởi các chức năng cơ
bản có mối quan hệ mật thiết và khơng thể tách rời nhau. Đó là chức năng buộc tội,
chức năng bảo vệ và bào chữa, chức năng xét xử. Những chức năng này thể hiện
trong quá trình giải quyết tất cả các vụ án hình sự. Ở trong từng giai đoạn các chức
năng này thuộc về các chủ thể nhất định. Để thực hiện chức năng của mình, các chủ
3

Đinh Thị Mai (06/6/2014), “Sinh hoạt khoa học Lý luận cơ bản về các chức năng của Tố tụng hình sự”,
( truy cập ngày 12/02/2019).



9
thể có một số giới hạn do pháp luật tố tụng hình sự quy định về các quyền và nghĩa
vụ pháp lý”4. Theo tác giả này, chức năng TTHS là phương hướng phân định hoạt
động trong TTHS, trên cơ sở đó phân định thành ba chức năng cơ bản bao gồm buộc
tội, bào chữa và xét xử, ba chức năng này xuất hiện trong trong quá trình giải quyết
mọi VAHS. Chức năng TTHS không phải là sự phân định hoạt động tố tụng của bất
kì chủ thể nào mà là định hướng của các hoạt động TTHS nói chung. Chức năng
TTHS là chức năng chung, bao trùm các chức năng cụ thể của các chủ thể. Mỗi chủ
thể (nhóm chủ thể) có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định phù hợp với nội dung của
từng chức năng tố tụng cụ thể, sẽ thực hiện nhiều hoạt động theo những định hướng
khác nhau do pháp luật quy định nhưng đều hướng tới mục đích cuối cùng của TTHS
là đảm bảo giải quyết vụ án đúng đắn, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. VAHS
sẽ không thể giải quyết nếu thiếu một trong ba chức năng cơ bản, sự tồn tại của ba
chức năng cơ bản này mang tính tất yếu khách quan. Chức năng buộc tội và bào chữa
tồn tại song song đối lập nhau, chức năng xét xử tồn tại với nhiệm vụ đưa ra phán
quyết dựa trên cơ sở các hoạt động của chức năng buộc tội và bào chữa. Định nghĩa
về chức năng TTHS xuất phát từ mối quan hệ giữa cái chức năng cơ bản của TTHS
với hành vi tố tụng của các chủ thể quan hệ pháp luật TTHS.
Định nghĩa về chức năng TTHS của những tác giả khác nhau, do cách tiếp
cận vấn đề khác nhau nên có quan điểm cho rằng chức năng TTHS là những định
hướng, những quan điểm khác lại khẳng định chức năng TTHS là những dạng hoạt
động cụ thể có định hướng nhất định nhưng dù là hoạt động hay định hướng chức
năng TTHS đều phải hướng tới thực hiện nhiệm vụ chung của luật TTHS giải quyết
đúng đắn vụ án, trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ nhất định. Có quan điểm liệt
kê chức năng TTHS cơ bản trong khái niệm, có quan điểm thì khơng.
Như vậy, dựa vào các giải thích trên, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát
chức năng TTHS là những định hướng cơ bản phân định hoạt động cơ bản lâu dài
cho các nhóm chủ thể khác nhau trong phạm vi quyền và nghĩa vụ nhất định, nhằm

thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS.
1.1.2. Phân loại chức năng tố tụng hình sự
Các chủ thể trong quá trình TTHS thực hiện rất nhiều hoạt động khác nhau
với những định hướng độc lập, vì vậy tồn tại trong TTHS có nhiều chức năng khác
4

Nguyễn Mạnh Hùng (2008), “Hoàn thiện các chức năng tố tụng hình sự trong tiến trình cải cách tư pháp ở
nước ta”, Nhà nước và pháp luật, số 9, tr. 69.


10
nhau. Trong khoa học TTHS hiện nay có nhiều quan điểm về việc phân loại chức
năng TTHS dựa trên những cách tiếp cận khác nhau.
- Theo quan điểm truyền thống, TTHS có ba chức năng bao gồm: chức năng
buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử.
- Theo quan điểm đa chức năng: ngoài ba chức năng truyền thống, TTHS cịn
có các chức năng như chức năng điều tra, chức năng giải quyết việc kiện dân sự,
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Về chức năng điều tra VAHS có một số quan điểm cho rằng chức năng điều
tra là chức năng cơ bản trong TTHS. Trong phạm vi chức năng này Cơ quan điều
tra sẽ thực hiện nhiều hoạt động nhằm thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm,
các hoạt động này góp phần vào việc giải quyết VAHS, thực hiện nhiệm vụ chung
của TTHS. Ở giai đoạn điều tra sẽ không xuất hiện chức năng buộc tội, đến phiên
tòa xét xử sơ thẩm (XXST) chức năng buộc tội mới xuất hiện, do VKS là chủ thể
thực hiện. Chức năng điều tra không nằm trong phạm vi chức năng buộc tội mà tồn
tại độc lập, có đối tượng và nội dung cụ thể, riêng biệt. Các chủ thể thực hiện chức
năng điều tra sẽ tiến hành thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án
chứ khơng có mục đích buộc tội hay bào chữa, giúp hoạt động điều tra diễn ra một
cách khách quan. Tuy nhiên quan điểm này không hợp lý vì theo quy định của
BLTTHS năm 2015 trong giai đoạn điều tra VAHS bị can có thể tự bào chữa, nhờ

người khác bào chữa. Như vậy trong giai đoạn này đã xuất hiện chức năng bào
chữa, hai chức năng buộc tội và bào chữa tuy đối ngược nhau nhưng luôn xuất hiện
cùng một thời điểm. Hơn nữa theo quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS năm
2015 “khi có đủ căn cứ xác định một người hay pháp nhân thực hiện hành vi phạm
tội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi
tố bị can”. Như vậy Cơ quan điều tra đã xác định người thực hiện hành vi phạm tội
mới tiến hành khởi tố bị can đồng thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế,
thực hiện các hoạt động điều tra để thu thập các chứng cứ, tài liệu đồ vật nhằm xác
định sự thật khách quan của vụ án phục vụ cho hoạt động truy tố của VKS. Việc
thực hiện chức năng buộc tội trong giai đoạn điều tra sẽ khơng vi phạm ngun tắc
suy đốn vơ tội. Bởi vì theo ngun tắc suy đốn vơ tội, việc truy cứu trách nhiệm
hình sự của người phạm tội trong giai đoạn này phải được thực hiện theo quy định
của pháp luật TTHS, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra. Quy định này thể hiện sự tôn trọng


11
và bảo vệ quyền con người, hạn chế tình trạng bức cung, dùng nhục hình. Việc
khơng cho là có tội theo nội dung của nguyên tắc không đồng nghĩa với việc không
thực hiện chức năng buộc tội, đây chỉ là đảm bảo cho quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, có ý nghĩa nhân đạo và dân chủ sâu sắc. Tuy có sự khác biệt về hình thức, nội
dung về chức năng buộc tội trong giai đoạn điều tra và giai đoạn XXST, nhưng
chức năng buộc tội trong giai đoạn điều tra là tiền đề, cơ sở để thực hiện chức năng
buộc tội trong giai đoạn xét xử. Hoạt động buộc tội trong giai đoạn điều tra là sự
chuẩn bị các căn cứ và điều kiện cho việc buộc tội tại phiên tòa, giúp củng cố các
cáo buộc, chứng minh tội phạm và bác bỏ quan điểm bào chữa. Cả hai hoạt động
này đều là bộ phận quan trọng không thể tách rời của chức năng buộc tội.
Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015 và khoản 1 Điều 2 Luật tổ
chức VKS nhân dân năm 2014, trong quá trình giải quyết VAHS, VKS có hai chức
năng cơ bản đó là thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Vì vậy có

ý kiến cho rằng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết VAHS
cũng là một chức năng cơ bản trong TTHS. Trong quá trình kiểm sát hoạt động tư
pháp, VKS có thể kịp thời phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật, áp dụng các biện
pháp xử lý thích hợp. Thực chất Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao
việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, Quốc hội giám sát việc
tuân theo pháp luật bằng nhiều hình thức khác nhau, trong lĩnh vực tư pháp thông qua
hoạt động của VKS. Viện kiểm sát có trách nhiệm phải kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động TTHS nhằm kịp thời phát hiện mọi vi phạm. Chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật không chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS mà còn trong lĩnh vực
khác bao gồm tố tụng hành chính, dân sự, kinh tế, thi hành án, tạm giữ, tạm giam.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau đối tượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật sẽ hoàn
toàn khác nhau và chịu sự điểu chỉnh của các nguyên tắc khác nhau. Đây là chức
năng chung – chức năng nhà nước có phạm vi rất rộng. Hơn nữa chức năng kiểm sát
là chức năng được đặt ra từ tổ chức và tính chất hoạt động của VKS, khơng phải chức
năng mang tính định hướng hoạt động trong q trình TTHS khơng thể nhầm lẫn
giữa chức năng vốn có của thiết chế tổ chức và chức năng TTHS. Như vậy, kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS không phải là chức năng cơ bản của TTHS.
Ngoài ra trong một số VAHS có xuất hiện những vấn đề dân sự, vì vậy có ý
kiến cho rằng chức năng duy trì việc kiện tụng dân sự và chức năng bảo vệ quyền dân
sự là chức năng cơ bản của TTHS. Vấn đề dân sự trong VAHS là những quan hệ về


12
đòi tài sản, đòi bồi thường giá trị tài sản do bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị
hủy hoại, yêu cầu sửa chữa tài sản bị hư hỏng, địi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn
liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt
hại do tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Khi giải quyết vấn đề dân
sự trong cùng VAHS sẽ đáp ứng được tính chính xác, khách quan, tồn diện đồng
thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thiệt hại và cho cả bị can, bị cáo

được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. BLTTHS đã quy định nguyên tắc
cơ bản khi giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS và những người tham gia tố tụng
với tư cách nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Tuy là những vấn đề dân sự phát sinh
trong VAHS nhưng bản chất đây vẫn là những quan hệ pháp luật dân sự, chịu sự điều
chỉnh của các nguyên tắc trong luật tố tụng dân sự và nội dung trong bộ luật dân sự.
Đồng thời vấn đề dân sự trong VAHS không xuất hiện trong mọi VAHS và việc giải
quyết có thể tách rời thành vụ án riêng giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nếu đảm
bảo không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án và giải quyết vấn đề bồi thường
chưa có điều kiện chứng minh. Việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án không bị ảnh
hưởng bởi nếu chưa giải quyết được những vấn đề về dân sự. Từ đó khẳng định chức
năng giải quyết việc dân sự không phải là chức năng cơ bản của TTHS.
Như vậy trong TTHS có nhiều chức năng khác nhau, nhưng chỉ có ba chức
năng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử.
Các chức năng cơ bản trong một số trường hợp thường bị nhầm lẫn với các chức
năng khác trong TTHS, vì vậy cần hiểu rõ nội dung, đặc trưng của chức năng cơ
bản trong TTHS để có sự nhận thức đầy đủ.
- Chức năng buộc tội
Chức năng buộc tội là chức năng cơ bản trong TTHS, đóng vai trị quan
trọng trong sự vận hành của TTHS. Sự tồn tại của chức năng buộc tội sẽ quyết định
sự tồn tại của chức năng bào chữa và chức năng xét xử. “Buộc tội là một trong
những chức năng cơ bản đó là chức năng trong tố tụng, có vai trị quan trọng, nhất
là trong hình thức buộc tội nhân danh nhà nước. Nó được coi là trục chính, thu hút
hoạt động của tất cả những người tham gia phiên tòa”5, nhưng hiện nay vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau về chức năng buộc tội.
5

Lê Tiến Châu (2001), Các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, tr. 10.



13
Quan điểm thứ nhất phổ biến khá biến tại các nước theo hệ thống án lệ,
những người theo quan điểm này cho rằng: “Buộc tội là ghép cho ai một việc bị luật
hình sự trừng phạt”6 hay “buộc tội là luận tội”7. Tại các nước theo hệ thống án lệ,
chức năng buộc tội chỉ thực sự xuất hiện ở giai đoạn xét xử, còn các hoạt động
trong giai đoạn tiền xét xử được xem như sự chuẩn bị cho cuộc tranh luận tại phiên
tòa. Theo quan điểm này, phạm vi chức năng buộc tội đã bị thu hẹp. Hơn nữa việc
cho rằng buộc tội là gán ghép tội lỗi cho người thực hiện hành vi phạm tội là không
hợp lý. Bởi vì, chức năng buộc tội là tổng hợp nhiều hoạt động tố tụng nhằm phát
hiện chủ thể thực hiện tội phạm và chứng minh lỗi của người đã thực hiện tội phạm,
động cơ, mục đích cũng như các tình tiết ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của
người phạm tội.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Chức năng buộc tội cịn gọi là chức năng truy
cứu trách nhiệm hình sự, là một dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm
tội, chứng minh lỗi của người đó, đảm bảo phán xử và hình phạt đối với người
đó”8. Theo quan điểm này, nội dung chức năng buộc tội là phát hiện kẻ phạm tội,
chứng minh lỗi của người đó. Chức năng buộc tội sẽ xác định mục đích và đối
tượng của TTHS. Song song với sự tồn tại của chức năng buộc tội sẽ là chức năng
bào chữa. Như vậy thời điểm bắt đầu chức năng buộc tội cũng là thời điểm bắt đầu
xuất hiện chức năng bào chữa từ khi có quyết định khởi tố bị can, xác định được
người thực hiện hành vi phạm tội trong một số trường hợp đặc biệt có thể sớm hơn.
Hai chức năng này tồn tại song song và đối lập nhau trong quá trình giải quyết
VAHS. Cùng với chức năng buộc tội, chức năng bào chữa trải dài từ giai đoạn điều
tra đến giai đoạn xét xử. Trong quá trình giải quyết VAHS, có nhiều dạng hoạt động
tố tụng khác nhau nhưng chỉ những hoạt động nhằm phát hiện kẻ phạm tội, chứng
minh lỗi của người đó mới được xem là chức năng buộc tội. Tuy nhiên không phải
mọi chủ thể thực hiện việc làm sáng tỏ tình tiết khách quan của vụ án, chứng minh
hành vi phạm tội đều thực hiện chức năng buộc tội. Các chủ thể như người làm
chứng, người giám định, chỉ tham gia tố tụng nhằm chứng minh sự thật khách quan
của vụ án, cung cấp những thơng tin có thật liên quan đến VAHS, đồng thời hỗ trợ

q trình giải quyết VAHS. Ngồi ra cịn có Hội đồng xét xử (HĐXX), việc đưa ra
bản án, quyết định hình phạt đối với người phạm tội khơng phải thực hiện nội dung
6

Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 10.
Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 10.
8
Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 11.
7


14
chức năng buộc tội, đây là nội dung của chức năng xét xử, một chức năng cơ bản
khác trong TTHS. Chức năng buộc tội trong giai đoạn điều tra và chức năng buộc
tội trong giai đoạn xét xử có những nhiệm vụ, yêu cầu đặc trưng khác nhau, nhưng
về bản chất vẫn là chức năng buộc tội. Vì vậy, bên cạnh kiểm sát viên - VKS cịn có
các chủ thể khác thực hiện chức năng buộc tội bao gồm: điều tra viên - Cơ quan
điều tra (công tố), người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại (tư tố).
Như vậy dựa trên quan điểm thứ này có thể khẳng định khái niệm, nội dung, vai trị,
thời điểm xuất hiện, chủ thể thực hiện chức năng buộc tội.
- Chức năng bào chữa
Hiện nay, việc nghiên cứu chức năng cơ bản trong TTHS nhiều tác giả xuất
phát từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau nên khái niệm, nội dung, vai trò, thời
điểm bắt đầu, kết thúc và chủ thể thực hiện chức năng bào chữa cũng tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau.
Khái niệm chức năng bào chữa được thừa nhận phổ biến nhất: “là một dạng
hoạt động tố tụng hình sự được pháp luật đảm bảo cho người bị buộc tội bằng cách
tự mình hoặc nhờ người khác đưa ra những chứng cứ và lập luận không chỉ bác bỏ
sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm cho mình mà cịn đưa ra những gì có lợi cho
họ trong quá trình tố tụng”9. Như vậy chức năng bào chữa không chỉ bác bỏ sự buộc

tội chống lại sự buộc tội thiếu căn cứ, nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ sự thật, giúp tòa
án xét xử đúng người đúng tội. Bên cạnh việc bác bỏ sự buộc tội chức năng bào chữa
cịn làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị buộc tội bảo vệ lợi ích của người
bị buộc tội. Như vậy nội dung của chức năng bào chữa sẽ là toàn bộ những hoạt động
mà người bào chữa hoặc người bị buộc tội thực hiện để chống lại sự buộc tội, làm
sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị buộc tội. Sự tồn tại của chức năng buộc tội
song song và đối lập với sự tồn tại của chức năng bào chữa, thời điểm bắt đầu và kết
thúc chức năng bào chữa cùng thời điểm bắt đầu và kết thúc của chức năng buộc tội,
đây là cơ sở quan trọng giúp TTHS vận hành tốt, đúng yêu cầu của pháp luật. TTHS
nếu thiếu sự bào chữa chỉ là sự buộc tội một chiều, áp đặt, thiếu căn cứ.
- Chức năng xét xử
Chức năng cơ bản thứ ba trong TTHS là chức năng xét xử, chức năng này
tồn tại trong TTHS, tố tụng dân sự và cả tố tụng hành chính. Tuy nhiên, trong phạm
9

Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 15.


15
vi luận văn chỉ nghiên cứu chức năng xét xử trong TTHS. Cũng như chức năng
buộc tội và chức năng bào chữa, khái niệm về chức năng xét xử còn tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau.
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng: “Chức năng xét xử là hoạt động đặc
trưng, là nhiệm vụ của Tòa án – cơ quan duy nhất của một quốc gia được đảm
nhiệm chức năng xét xử”10. Khái niệm này đã bước đầu đề cập đến chức năng cơ
bản trong TTHS và khẳng định chủ thể duy nhất được được giao nhiệm vụ thực
hiện chức năng này là Tòa án, tuy nhiên vẫn còn điểm chưa hợp lý. Ở nội dung đầu
tiên trong khái niệm đã khẳng định chức năng xét xử là hoạt động đặc trưng của
Tòa án, nhưng chưa làm rõ điểm đặc trưng cụ thể ra sao để phân biệt, nhận biết
chức năng xét xử với hai các chức năng cơ bản khác. Nội dung tiếp theo được nêu

ra trong khái niệm lại khẳng định chức năng là nhiệm vụ. Đây là điểm chưa hợp lý,
bởi vì nhiệm vụ được hiểu “ là những công việc phải làm trong một thời gian nhất
định”11, có sự thay đổi theo từng giai đoạn, hồn cảnh cụ thể, trong khi đó chức
năng được hiểu “là những phương diện hoạt động chủ yếu, có tính định hướng lâu
dài”, ổn định, bền vững, để thực hiện một chức năng có thể đặt ra nhiều nhiệm vụ
trong những giai đoạn nhất định. Tại khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2014
đã quy định rõ ràng về nhiệm vụ của Tịa án: “Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Như
vậy việc đồng nhất khái niệm chức năng và nhiệm vụ là điều khó chấp nhận. Nội
dung định nghĩa về chức năng xét xử ở quan điểm đầu tiên chưa đầy đủ và cụ thể,
không thể hiện rõ ràng được đặc trưng cơ bản để tạo thành nội dung của khái niệm
về chức năng xét xử, mục đích nhận biết, phân biệt chức năng với hai chức năng cơ
bản cịn lại trong TTHS.
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng: “Chức năng xét xử là chức năng giải
quyết vụ án, xem xét và xử các vụ án”12 hay “Chức năng xét xử là hoạt động của
Tòa án nhằm giải quyết vụ án”13. Hai khái niệm này tiếp tục đồng nhất hai vấn đề
khác nhau là chức năng xét xử và chức năng giải quyết vụ án. Việc giải quyết
VAHS có phạm vi rộng bắt đầu từ khi khởi tố VAHS, các chủ thể như Cơ quan điều
10

Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 15.
Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 5.
12
Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 15.
13
Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 15
11



16
tra, VKS, người bào chữa cũng tham gia vào để giải quyết VAHS, khơng chỉ riêng
Tịa án. VAHS sẽ khơng thể giải quyết được một cách khách quan, công bằng nếu
không trải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử do các chủ thể khác
nhau có quyền, nghĩa vụ tố tụng nhất định thực hiện. Như vậy đồng nhất xét xử và
giải quyết vụ án là hồn tồn khơng hợp lý, hơn nữa có thể gây nhầm lẫn chức năng
xét xử với hai chức năng cơ bản còn lại, mở rộng phạm vi nội dung chức năng xét
xử vi phạm nhiều nguyên tắc cơ bản trong TTHS.
Như vậy, với tư cách là một trong những chức năng cơ bản của TTHS chức
năng xét xử có thể được hiểu: “là hoạt động tố tụng có định hướng của Tịa án có
thẩm quyền xem xét, quyết định người bị buộc tội có tội hay khơng và xác định
trách nhiệm hình sự đối với người có tội”14.
Từ những phân tích trên về ba chức năng cơ bản có thể hiểu: “Chức năng cơ
bản trong tố tụng hình sự là những phương diện hoạt động chủ đạo, có tính chất
tiêu biểu đặc trưng cho hoạt động tố tụng hình sự, liên quan trực tiếp đến sự xuất
hiện, vận động và kết thúc của tố tụng hình sự và mối liên hệ giữa chúng với nhau
được điều chỉnh bởi những nguyên tắc hoặc quy định của luật”15. Như vậy chức
năng cơ bản TTHS sẽ bao gồm ba chức năng: chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử. Đây là ba chức năng mang tính “tất yếu, tiền định” luôn
tồn tại trong việc giải quyết mọi VAHS. Chức năng TTHS không cơ bản được hiểu
là“Những phương diện hoạt động không phải chủ đạo, không tiêu biểu hoặc đặc
trưng cho hoạt động tố tụng hình sự và khơng liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện,
tồn tại hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng hình sự nhưng cũng góp phần thực hiện
nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự”16. Chức năng không cơ bản sẽ bao gồm nhiều
chức năng trong đó tiêu biểu là các chức năng điều tra, chức năng giải quyết việc
kiện dân sự, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Như vậy, bên cạnh ba
chức năng cơ bản của luật TTHS là buộc tội, bào chữa và xét xử cịn có các chức
năng khơng cơ bản khác hỗ trợ cho các chức năng cơ bản. Đồng thời khẳng định:
14


Lê Tiến Châu (2001), tlđd (5), tr. 16.
Nguyễn Thái Phúc, “Chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề để hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự ở Việt
Nam hiện nay”, Tham luận Hội thảo khoa học Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư
pháp ở Việt nam hiện nay, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội ngày 28/11/2015, tr. 6 được trích trong Lê Huỳnh
Tấn Duy (2017), Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, tr. 10.
16
Nguyễn Thái Phúc, “Chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề để hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự ở Việt
Nam hiện nay”, Tham luận Hội thảo khoa học Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư
pháp ở Việt nam hiện nay, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội ngày 28/11/2015, tr. 6 được trích trong Lê
Huỳnh Tấn Duy, chú thích 15, tr. 6.
15


17
“Chức năng cơ bản là những chức năng mà khi thực hiện sẽ giải quyết được nhiệm
vụ chung của tố tụng hình sự”17.
1.2. Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự
1.2.1. Khái niệm, nội dung của chức năng xét xử trong tố tụng hình sự
Khái niệm chức năng xét xử trong TTHS
Như đã nghiên cứu và phân tích ở phần phân loại, khái niệm chức năng xét
xử có thể được hiểu: “là hoạt động tố tụng có định hướng của Tịa án có thẩm
quyền xem xét, quyết định người bị buộc tội có tội hay khơng và xác định trách
nhiệm hình sự đối với người có tội”.
Nội dung của chức năng xét xử trong TTHS
Nội dung chức năng xét xử là tổng thể các quyền và trách nhiệm mà pháp luật
TTHS quy định cho Tòa án nhằm thực hiện chức năng xét xử. Khi thực hiện chức
năng xét xử Tòa án sẽ tập trung vào ba nội dung cơ bản quan trọng. Thứ nhất, xác
định sự thật khách quan của vụ án. Thứ hai, định tội danh chính xác, phù hợp với
hành vi phạm tội. Thứ ba, áp dụng trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Từ nội dung của chức năng xét xử,

TTHS sẽ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, cách thức thực hiện quyền hạn,
trách nhiệm phù hợp với phạm vi giới hạn của chức năng xét xử. Vì vậy những quy
định của pháp luật TTHS về nhiệm vụ, quyền hạn nào không nằm trong phạm vi giới
hạn nội dung chức năng xét xử thì khơng thể giao cho Tịa án. Ngược lại những quy
định thuộc nội dung chức năng xét xử nhưng vì những lý do khác nhau, pháp luật
TTHS lại giao cho chủ thể khác thực hiện, cần nghiên cứu để đưa về cho chủ thể có
trách nhiệm thực hiện chức năng xét xử là Tòa án. Nhận thức đúng đắn về nội dung
của chức năng xét xử là cơ sở để xác định giới hạn phạm vi giữa các chức năng tố
tụng, tránh xảy ra tình trạng lẫn lộn, chồng chèo, làm thay chức năng, làm không hết
chức năng đang tồn tại trong lý luận và thực tiễn. Xác định được nội dung chức năng
xét xử sẽ xác định đúng vị trí của chức năng này trong TTHS.
Dựa trên các yếu tố về truyền thống pháp luật, mơ hình, hình thức TTHS và
quan niệm của mỗi quốc gia về phương thức và cách thức để tìm ra sự thật khách
quan của vụ án sẽ đưa ra quan điểm khác nhau về nội dung chức năng xét xử.
17

Giáo trình tố tụng hình sự Xơ Viết, Mátxcơva, NXB. Văn học pháp lý, 1980, tr.15 được trích trong Lê Tiến
Châu, chú thích số 05, tr. 7.


18
Ở các nước theo truyền thống án lệ (Anh, Mỹ), quá trình TTHS chỉ thật sự bắt
đầu từ thời điểm xét xử được tiến hành dưới hình thức tranh tụng tại phiên tịa. Cụ
thể tại Mỹ đặc trưng cho mơ hình TTHS tranh tụng, mục tiêu ưu tiên là kiểm sốt
tội phạm trong khi đó đồng thời duy trì một quy trình thủ tục cơng bằng, cân bằng
mục tiêu giữa kiểm soát tội phạm và bảo vệ quyền hiến pháp của mỗi cá nhân. Chức
năng xét xử được thực hiện bởi Tịa án và bồi thẩm đồn. Trong giai đoạn điều tra,
Tịa án có vai trị chủ yếu nhằm mục đích kiềm chế hoạt động điều tra chống lại sự
lạm quyền. Tuy có nhiều quyền hạn đối với hoạt động điều tra nhưng Tịa án Hoa
kỳ khơng có thẩm quyền yêu cầu điều tra và trả hồ sơ điều tra bổ sung. Trong giai

đoạn xét xử, Tòa án tham gia phiên xét xử với tư cách là người ra quyết định trung
lập giữa hai bên buộc tội và bào chữa, các thẩm phán giỏi thường là những người
can thiệp ít nhất vào quá trình tranh tụng để lấy chứng cứ. Tịa án khơng phải cơ
quan buộc tội, khơng đóng vai trị gì trong quyết định buộc tội của cơng tố viên,
cũng khơng thuộc bên gỡ tội. Vì vậy, Tịa án khơng có quyền lệnh cho Bồi thẩm
đồn xem xét một tội danh lớn hơn tội danh mà công tố viên đã buộc tội bị cáo. Để
đảm bảo sự trung lập, thốt khỏi định kiến, ảnh hưởng Tịa án khơng nghiên cứu hồ
sơ vụ án trước khi diễn ra phiên xét xử, trong trường hợp cần thiết một số thẩm
phán có thể u cầu cơng tố viên nộp lên tịa một biên bản tóm tắt vụ án. Điều đó
cũng khuyến khích các bên phải tận dụng hết mọi cơ hội hay khả năng để tìm tịi,
đưa ra những chứng cứ thuyết phục nhất và qua đó thẩm phán có điều hiện để suy
xét, đưa ra phán quyết thích hợp nhất. Các bên đóng vai trị chính, tích cực trước và
trong phiên xét xử là công tố viên luật sư bào chữa. Công tố viên được pháp luật
TTHS Hoa Kỳ trao một quyền quan trọng – Quyền tùy nghi truy tố, được tự do
quyết định sẽ lập hồ sơ cho cáo buộc tội phạm nào, nếu có, và từ đó cũng được tự
do tham gia thỏa thuận nhận tội với bị cáo. Tuy nhiên đối với những lời buộc tội rõ
ràng thiếu cơ sở pháp lý theo yêu cầu của luật sư và bị cáo, Tịa án có thể bác bỏ.
Đối với luật sư bào chữa sự tham gia là bắt buộc trong mọi giai đoạn của q trình
tố tụng tại tịa sau khi cáo buộc được gửi tới tòa, đồng thời quyết định các vấn đề
pháp lý sẽ được đưa ra giải quyết trước phiên tòa, đàm phán thỏa thuận nhận tội với
cơng tố viên nếu có thể. Luật sư bào chữa có một địa vị tố tụng và những quyền
năng ngang bằng, không hề thua kém các công tố viên. Sự ngang bằng này thể hiện
ở chỗ, nếu pháp luật dành cho một cơng tố viên những quyền gì thì một Luật sư bào
chữa cũng được pháp luật dành cho những quyền năng tương ứng như thế. Do sự
khác nhau trong truyền thống pháp luật, mơ hình TTHS mà nội dung chức năng xét


19
xử của Tòa án trong các nước theo truyền thống án lệ bị hạn chế, trong khi đó nội
dung chức năng buộc tội và bào chữa được quan tâm đề cao.

Đối với các nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (bao gồm các
nước Tây Âu, xã hội chủ nghĩa Đơng Âu và Việt Nam) thì vai trị của Tòa án được
đề cao, nội dung chức năng xét xử được mở rộng so với các nước thuộc hệ thống
pháp luật án lệ. Tịa án khơng chỉ đóng vai trò trọng tài giữa hai bên buộc tội và bào
chữa mà cịn tham gia tích cực vào q trình chứng minh sự thật khách quan của vụ
án. Tiêu biểu là trong TTHS của Pháp, trong giai đoạn điều tra do cảnh sát điều tra
tiến hành, công tố viên chỉ đạo, thẩm phán sẽ đóng vai trị chính trong hoạt động
kiểm soát hoạt động điều tra, chủ yếu là hoạt động bắt giữ. Trước khi mở phiên tòa
chứng cứ sẽ do thẩm phán điều tra hoặc Công tố viên thu thập. Khi kết thúc giai
đoạn điều tra thẩm phán điều tra sẽ chuyển hồ sơ cho Tòa án nếu các chứng cứ đã
được thu thập đầy đủ. Để đảm bảo quá trình xét xử được diễn ra cơng bằng thẩm
phán xét xử không phải thẩm phán điều tra. Tuy nhiên, trong phiên tòa xét xử các
thẩm phán sẽ thực hiện trực tiếp việc thẩm vấn các nhân chứng một cách tích cực
chứ không phải công tố viên và luật sư bào chữa. Do đó chức năng buộc tội và chức
năng bào chữa rất hạn chế, mờ nhạt, không phát huy được tính chủ động, sáng tạo.
Tịa án khơng cịn là người trọng tài đúng nghĩa, mà biến thành công tố viên hoặc
luật sư bào chữa thứ hai trong quá trình tranh tụng, gây lẫn lộn nội dung giữa các
chức năng. Hoạt động của Tịa án có vẻ dư thừa, làm thay q nhiều việc khơng
nhằm mục đích thực hiện chức năng xét xử, ảnh hưởng tới hiệu quả TTHS và việc
thực hiện các chức năng TTHS khác.
Xuất phát từ truyền thống pháp luật khác nhau, các hình thức tố tụng khác
nhau mà các pháp luật TTHS các quốc gia quy định quyền và nghĩa vụ của Tòa án
trong việc thực hiện chức năng xét xử không giống nhau, hoặc giao quá nhiều
quyền và nghĩa vụ cho Tòa án hoặc hạn chế. Điều này đã ảnh hưởng đến chức năng
xét xử, hiệu quả hoạt động của Tịa án trong q trình TTHS.
Chức năng xét xử là hoạt động tố tụng có định hướng của Tịa án có thẩm quyền
xem xét, quyết định người bị buộc tội có tội hay khơng và xác định trách nhiệm hình
sự đối với người có tội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức
và Nhà nước. Theo pháp luật TTHS Việt Nam, chức năng xét xử được giao cho Tòa
án thực hiện, tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét

xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Tòa án


×