Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.12 KB, 2 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
NHỮNG CÂU HÁT THAN THÂN
Các điểm cơ bản:
_Những câu hát than thân thể hiện một mặt cảm xúc khác trong tình cảm của người
Việt Nam.
_ Dùng thực vật (trái bần), động vật thưừong thấy (con cò, tằm, kiến,…) làm hình
ảnh so sánh, ẩn dụ để diễn ta tâm trạng, thân phận của con người thưừong gặp phải nỗi
đắng cay, đau khổ như nông dân, phụ nữ, lính thú,…
_ Cả ba bài đều được làm bằng thơ lục bát.
I. Con người chẳng ai giống ai, số phận của mỗi người mỗi khác. Có người sinh ra và
lớn lên là được hưởng cuộc đời hạnh phúc. Có người vừa mới sinh ra là chịu cảnh khổ
đau. Có người vì hồn cảnh mà phải sống cực khổ, chịu đắng cay vì quan niệm khắc
khe của xã hội. Dù họ có lạc quan cách mấy thì cũng có lúc than thở về thân phận mình.
Những điều thường thấy trong đời sống thực ấy lại được phản ánh vào điệu lời ca.
II. Con cị trong ca dao thường là hình ảnh tượng trưng cho người mẹ, cũng có thể là
biểu tượng của người nơng dân, bởi nơng dân cũng như con cị thường kiếm ăn trên
đồng ruộng, cũng thức khuya dậy sớm, cần mẫn, chịu thương chịu khó với đồng cạn
đồng sâu. Cũng như mọi người, gặp lúc khó khăn trắc trở, họ cũng than trách .
<i>Nước non lận cận một mình,</i>
<i>Thân cị lên xuống thác ghềnh bấy nay.</i>
<i>Ai làm cho bể kia đầy,</i>
<i>Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?</i>
Hai câu đầu, ‘cò’ than thở về thân phận của mình. Khi cho rằng ‘cị’ tương trưng
cho người nơng dân thì ‘nước non’ chính là đồng ruộng mà cũng có thể chốn rừng sấu
núi cao “lên thác xuống ghềnh’ chính là những khó khăn trắc trở. Từ lúc khó khăn trắc
trở cho tới nay chỉ có một mình ‘cị’ dấu thân chịu đựng để cố vượt qua. Khó khăn trắc
trở là do ‘bể kia đầy, ai kia cạn’ khác với mức độ bình thường. Mà bể đầy, ao cạn do ai
gây ra? Hai câu cuối của bài ca dao nhằm trả lời câu hỏi ấy. Nhưng phím chỉ đại từ ‘Ai’
không chỉ rõ người nào. Cái hay của nó ở chỗ nội dung ám chỉ của bài ca dao thay đổi
tùy theo khung cảnh xuất hiện. Nó có thể là lời than trách, tố cáo chế độ cai trị khi xuất
hiện giữa cộng đồng làng xã, cũng là lời than trách người chồng (hay người vợ) bội bạc
khiến bản thân đã cực mà con cái (cò con) càng nheo nhóc, ốm o gầy mịn.
Cũng là câu hác than thân nhưng bài ca dao dưới đây lại than cho nhiều thân phận
khác nhau qua hình ảnh của con tằm, lũ kiến,…
<i>Thương thay thân phận con tằm,</i>
<i>Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.</i>
<i>Thương thay lũ kiến li ti,</i>
<i>Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.</i>
<i>Thương thay hạc lánh đường mây,</i>
<i>Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.</i>
<i>Dầu kêu ra máu có người nào nghe.</i>
Mỗi cặp câu trong tắm câu lục bát thể hiện lòng thương về thân phận long đong, vất
vả của một loài động vật ‘con tằm, con kiến, con hạc, con cuốc’ đều là hình ảnh ẩn dụ.
‘Con tằm’ nhằm ám chỉ ai? Phải chăng đó là hình ảnh của người thợ dệt quanh năm bám
Cuối cùng là bài ca dao mở đầu bằng cụm từ so sánh ‘thân em như’ có khá nhiều bài:
‘Thân em như hạt mưa xa’, ‘Thân em như tấm lụa đào’, ‘Thân em như chẽn lúa địng
địng’. Dù có ví với vật gì thì người phụ nữ ngày trước vẫn bị lệ thuộc vào đạo tam tòng,
tứ đức; bị lệ thuộc vào quan niệm ‘cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy’ một cách khắc khe,
nhiều khi đến độ tàn nhẫn. Họ không được quyền lựa chọn để lập gia đình mà phó mặc
cho sự may rủi, trong nhờ đục chịu và chỉ dám than thân trách phận mình.
III. Muốn biết đời sống tình cảm, trong đó có nỗi buồn thương , than thân trách phận thì
nên tìm đến ca dao Việt Nam. Ở kho tàng ấy chúng ta cịn gặp sự khơn khéo, tế nhị