Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.74 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---  ---

ĐỖ VĂN THINH

THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA
HÌNH SỰ SƠ THẨM

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số
: 60.38.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

Tiến só NGUYỄN THÁI PHÚC


TP. HỒ CHÍ MINH – 2006

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. BẢN CHẤT, NỘI DUNG CỦA THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TÒA SƠ THẨM.
1.1.


4

KHÁI QUÁT VỀ GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ PHIÊN TÒA
SƠ THẨM

1.1.1. Khái niệm và ý nghóa của phiên tòa hình sự sơ thẩm

4
4

1.1.1.1. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn độc lập của TTHS

4

1.1.1.2. Khái niệm và ý nghóa của phiên tòa hình sự sơ thẩm

7

1.1.2. Một số điều kiện chung của phiên tòa.

9

1.1.2.1. Thẩm quyền xét xử.

9

1.1.2.2. Điều kiện về HĐXX.

10


1.1.2.3. Những bảo đảm về tính hợp pháp, công khai, trực tiếp, và liên
tục khi xét xử.

11

1.1.2.4. Sự bình đẳng giữa hai bên tranh tụng trong hoạt động chứng
minh tại phiên tòa.

12

1.1.2.5. Sự hiện diện của những người tham gia phiên tòa.

13

1.1.2.6. Giới hạn xét xử của Tòa án sơ thẩm.

17

1.1.3. các thủ tục của phiên tòa sơ thẩm.

19

1.1.3.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa.

19

1.1.3.2. Thủ tục xét hỏi.

20


1.1.3.3. Thủ tục tranh luận.

20

1.1.3.4. Thủ tục nghị án và tuyên án.

21


1.2. NỘI DUNG CỦA THỦ TỤC XÉT HỎI.

22

1.2.1. Khái niệm về thủ tục xét hỏi.

22

1.2.1. Những nội dung chính của thủ tục xét hỏi.

23

1.3. BẢN CHẤT CỦA THỦ TỤC XÉT HỎI.

27

1.3.1. Thủ tục xét hỏi nhìn từ góc độ chức năng xét xử.

27

1.3.2. Thủ tục xét hỏi nhìn từ hoạt động chứng minh.


31

1.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA THỦ TỤC XÉT HỎI VỚI CÁC THỦ TỤC
KHÁC CỦA PHIÊN TÒA SƠ THẨM VÀ VỚI GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA.

33

1.4.1. Quan hệ với thủ tục bắt đầu phiên tòa.

33

1.4.2. Quan hệ với thủ tục tranh luận.

34

1.4.3. Quan hệ với thủ tục nghị án và tuyên án.

35

1.4.4. Quan hệ với giai đoạn điều tra.

36

1.5. THỦ TỤC XÉT HỎI TRONG CÁC MÔ HÌNH TỐ TỤNG.

38

1.5.1. Mô hình tố tụng xét hỏi và thủ tục xét hỏi.


38

1.5.2. Mô hình tố tụng tranh tụng và thủ tục xét hỏi.

39

1.5.3. Mô hình tố tụng pha trộn và thủ tục xét hỏi.

40

CHƯƠNG 2: THỦ TỤC XÉT HỎI: MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ. 41
2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ THAM GIA VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC
CHỦ THỂ ĐÓ TRONG THỦ TỤC XÉT HỎI.

41

2.1.1. Sự tham gia và vai trò của Tòa án.

41

2.1.2. Sự tham gia và vai trò của KSV.

47

2.1.3. Sự tham gia và vai trò của người bào chữa.

50

2.1.4. Sự tham gia và vai trò của người bị hại.


53

2.1.5. Sự tham gia và vai trò của bị cáo.

55

2.1.6. Sự tham gia và vai trò của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghóa vụ liện quan đến vụ án.

56


2.1.7. Sự tham gia và vai trò của người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

59

2.1.8. Sự tham gia và vai trò của người làm chứng.

61

2.1.9. Sự tham gia và vai trò của người giám định.

63

2.1.10. Sự tham gia và vai trò của Điều tra viên.

66

2.1.11. Sự tham gia và vai trò của người phiên dịch.


67

2.2. VỀ KHẢ NĂNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ, PHƯƠNG TIỆN KỸ
THUẬT.

68

2.3. VỀ KHẢ NĂNG THAY ĐỔI THÀNH VIÊN HĐXX.

70

2.4. CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỨ TỰ XÉT HỎI.

71

2.5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.

73

2.5.1. Những kiến nghị chung mang tính định hướng.

73

2.5.2. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục xét hỏi
tại phiên tòa sơ thẩm.

76

PHẦN KẾT LUẬN.


81

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có xác định: “Khi xét xử, các tòa án phải
bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự khách quan… phán
quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa…”. Đã hơn
bốn năm thực hiện Nghị quyết nêu trên, có những chuyển biến tích cực trong hoạt
động lập pháp về hình sự và hoạt động xét xử của Tòa án và các cơ quan tố tụng khác.
Thể hiện cụ thể nhất là việc ra đời của BLTTHS năm 2003 thay thế BLTTHS năm
1988, các phiên tòa thể hiện tính dân chủ và khách quan hơn…


Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự vẫn còn bộc lộ những hạn chế khi
BLTTHS chưa quy định rành mạch nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng tại
phiên tòa phù hợp với các chức năng tố tụng của nó. Chính vì vậy, tại phiên tòa có chủ
thể tiến hành tố tụng quá thụ động khi thực hiện nhiệm vụ của mình, có chủ thể lại
thực hiện cả nhiệm vụ của chủ thể khác, làm cho tính dân chủ và khách quan bị hạn
chế, chưa thể hiện rõ tính tranh tụng tại phiên tòa. Nhiệm vụ Cải cách tư pháp đang
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện nay, vì vậy ngày
02/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược Cải cách tư
pháp đến năm 2020, trong đó xác định mục tiêu của “hoạt động tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Nghị quyết cũng đưa
ra phương hướng trong thời gian tới là: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định
rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng

tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp ”.
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là khâu trung tâm, quan trọng nhất của
giai đoạn xét xử sơ thẩm, hoàn thiện thủ tục này là một nội dung của việc nâng cao
chất lượng phiên tòa mang tính dân chủ, khách quan và công bằng. Cho nên, chúng tôi
chọn đề tài “thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ” để làm luận văn thạc só với
mong muốn góp một ý kiến nhỏ nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục
này theo tinh thần trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Từ trước đến nay chưa có một đề tài hay công trình khoa học nào nghiên cứu
một các cụ thể, có hệ thống về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Có những
bài viết trên tạp chí và luận văn Thạc só luật học của một tác giả có đưa ra những nhận
xét về thủ tục này. Nhưng các tác giả nêu trên chỉ đưa ra một vài hạn chế của việc
thực hiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo BLTTHS hiện hành và có
những ý kiến mang tính gợi mở nhưng chưa làm rõ được bản chất của thủ tục xét hỏi
tại phiên tòa theo tinh thần của nguyên tắc tranh tụng và mô hình tố tụng pha trộn của
TTHS Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài:


 Mục đích của việc nghiên cứu: Củng cố về mặt lý luận về bản chất của thủ
tục xét hỏi, vai trò của các chủ thể tham gia phiên tòa và hoàn thiện các quy định của
BLTTHS về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, nhất là hoàn thiện các quy
định về thứ tự xét hỏi tại phiên tòa.
 Nhiệm vụ của việc nghiên cứu: Làm rõ những hạn chế của các quy định hiện
hành của BLTTHS về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, đưa ra những cơ sở
lý luận cho việc sửa đổi các quy định này. Đồng thời, xác định rõ hơn vai trò của các
chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại phiên tòa.
 Phạm vi nghiên cứu: Để đạt được mục đích và thực hiện tốt nhiệm vụ trên,
đề tài nghiên cứu về bản chất của thủ tục xét hỏi và nội dung xét hỏi, tìm hiểu các mô
hình tố tụng hình sự và thủ tục xét hỏi của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến TTHS Việt

Nam; xác định rõ các chức năng tố tụng gắn liền với các chủ thể tại phiên tòa và nền
tảng để nghiên cứu vai trò của các chủ thể đó.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp áp dụng để nghiên cứu đề tài như: Phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác-Lênin, phương pháp mô tả, phương pháp so sánh, quy nạp và
các quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc cải cách tư pháp.
5. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Đề tài cho chúng ta cách nhìn đúng đắn hơn về nội dung, bản chất và tầm quan
trọng của thủ tục xét hỏi, về vai trò của các chủ thể tiến hành tố tụng tại phiên tòa,
hoàn thiện các quy định của thủ tục này để phiên tòa mang tính dân chủ, khách quan
hơn.
6. Cơ cấu của luận văn:
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Bản chất, nội dung của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Chương 2: Thủ tục xét hỏi: những hạn chế và kiến nghò


CHƯƠNG 1
BẢN CHẤT, NỘI DUNG CỦA THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
SƠ THẨM

1.1 Khái quát về giai đoạn xét xử sơ thẩm và phiên tòa hình sự sơ thẩm.
1.1.1. Khái niệm và ý nghóa của phiên tòa hình sự sơ thẩm:
1.1.1.1. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn độc lập của TTHS:
Tố tụng hình sự là một hệ thống các hành vi tố tụng và quan hệ tố tụng nảy sinh,
thay đổi và phát triển cùng với tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Các Hành vi tố tụng
này được thực hiện theo một trật tự hợp lý về thời gian và những nhiệm vụ cụ thể cần
được giải quyết để tiến đến đạt được nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là làm sáng
tỏ chân lý của vụ án. Những trình tự cụ thể của cả quá trình tố tụng được gọi là caùc giai



đoạn tố tụng hình sự, mà ở đó mỗi giai đoạn tố tụng hình sự là một cột mốc có ý nghóa
nhất định trong quá trình giải quyết vụ án. Trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều
quan điểm khác nhau về việc phân chia các giai đoạn tố tụng: Có quan điểm cho rằng
có bốn giai đoạn tố tụng [15], có quan điểm cho rằng có sáu giai đoạn tố tụng, quan
điểm khác lại cho rằng có sáu giai đoạn và hai giai đoạn đặc biệt [21]… Mặc dù còn ý
kiến khác nhau về các giai đoạn tố tụng hình sự, nhưng đa số các quan điểm đều thống
nhất xác định xét xử sơ thẩm là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm được tiến hành với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể tiến
hành tố tụng và tham gia tố tụng; nó được thực hiện bằng hình thức rất đặc biệt là tố
tụng phiên tòa – nơi mà Tòa án sẽ thẩm định, xem xét các chứng cứ mà các cơ quan
tiến hành tố tụng trước đó đã thu thập có đúng với quy định của pháp luật hay không,
quyền và lợi ích của những người liên quan có đảm bảo hay không, những vấn đề đó
được thể hiện bằng bản án.
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng, điều đó thể hiện:
- Chủ thể đặc trưng: Ở các giai đoạn trước các chủ thể tham gia tố tụng còn
mang tính đơn lẻ, có khi chỉ xuất hiện xen kẽ, nối tiếp, không có tính tập trung cao. Ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng xuất hiện
đầy đủ trong mối quan hệ ràng buộc về tố tụng, đặc biệt với sự xuất hiện của Tòa án –
chủ thể duy nhất thực hiện chức năng xét xử. Địa vị pháp lý của những người tham gia
tố tụng cũng có sự thay đổi nhất định, như bị can đã trở thành bị cáo. Bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác được coi là một trong các bên bình đẳng trong quan hệ tố
tụng tại phiên tòa…
- Có hành vi tố tụng và hình thức tố tụng đặc trưng: Tại giai đoạn trước khi xét
xử sơ thẩm việc lấy lời khai của bị can và những người tham gia tố tụng khác mang
tính bán công khai, còn tại phiên tòa việc lấy lời khai (còn gọi là thẩm vấn) diễn ra
công khai với sự hiện diện của tất cả những người tham gia và tham dự phiên tòa. Ở
giai đoạn sau xét xử phúc thẩm việc lấy lời khai bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác mặc dù cũng diễn ra công khai nhưng không phải lúc nào cũng có tính toàn
diện như ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, cấp phúc thẩm chỉ xem xét đến nội dung có

kháng cáo, kháng nghị.


- Có thời gian tố tụng đặc trưng: Pháp luật quy định ở mỗi giai đoạn đều có
những khoảng thời gian nhất định, nhưng giữa chúng luôn nối tiếp nhau một cách lôgích. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, thời gian được tính từ khi Tòa án nhận hồ sơ do
Viện kiểm sát chuyển qua đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm.
- Có các văn bản tố tụng đặc trưng: Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm có nhiều văn
bản tố tụng được Tòa án ban hành, nhưng đặc trưng nhất đó là bản án mà Tòa án đã
tuyên công khai.
Trong mối quan hệ với các giai đoạn tố tụng khác, giai đoạn xét xử sơ thẩm mặc
dù là một giai đoạn độc lập nhưng nó không tách rời các giai đoạn trước và sau nó.
Giữa các giai đoạn tố tụng luôn là một thể thống nhất của các hành vi tố tụng, các
quan hệ tố tụng và chúng luôn tác động, liên kết, ảnh hưởng lẫn nhau; mà trong đó giai
đoạn trước bao giờ cũng là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau luôn bổ sung những
khiếm khuyết của giai đoạn trước. Mỗi giai đoạn tố tụng đều có nhiệm vụ riêng mang
tính đặc trưng của nó, nhưng chúng đều hướng tới nhiệm vụ chung nhất của tố tụng
hình sự: vụ án phải được giải quyết đúng người, đúng tội, quyền lợi của các bên được
đảm bảo.
Theo tố tụng hình sự Việt Nam, giai đoạn xét xử sơ thẩm gồm phần chuẩn bị xét
xử và phiên tòa sơ thẩm; trong đó phiên tòa sơ thẩm thể hiện rõ nét nhất đặc trưng của
giai đoạn này. Cũng có quan điểm cho rằng cần coi chuẩn bị xét xử là một giai đoạn tố
tụng độc lập trong tố tụng hình sự [50]. Ở một số nước, trong đó có Liên Xô (cũ),
chuẩn bị xét xử được coi là giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự và người ta gọi đó là
giai đoạn chuyển Tòa. Nhưng theo TTHS Việt Nam chuẩn bị xét xử chỉ được coi là một
thủ tục (hay bước) của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian từ
khi Tòa án nhận hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển qua đến khi mở phiên tòa (nếu không
đình chỉ, tạm đình chỉ). Ở giai đoạn này, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa
nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét có đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa
hay chưa và Thẩm phán có quyền ra một trong những quyết định : đưa vụ án ra xét xử;
trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Còn phiên tòa sơ thẩm là hình thức đặc trưng của giai đọan xét xử sơ thẩm. Là
hình thức tổ chức công khai (trừ khi xử kín, nhưng rất hạn chế) với sự tham gia của
nhiều chủ thể khác nhau, ở đó vụ án chính thức được giải quyết. Khi đó kết quả của


phiên tòa khẳng định bị cáo có tội hay không có tội và nếu có thì là tội gì, hình phạt và
các vấn đề khác liên quan.
Do cùng nằm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nên giữa thủ tục chuẩn bị xét xử và
phiên tòa sơ thẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau,
điều đó thể hiện:
- Thủ tục chuẩn bị xét xử là tiền đề cần thiết cho phiên tòa nói chung và thủ tục
xét hỏi nói riêng. Thủ tục chuẩn bị xét xử tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết cho
thủ tục xét hỏi như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử là sự khẳng định có đủ cơ sở để
đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa, nên phần xét hỏi sẽ không mất nhiều thời gian cho
việc xác định tính chân thực của các chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập.
Trong phần chuẩn bị xét xử Tòà án phải thực hiện một số nội dung sau: Áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đưa vụ án ra xét xử khi
thấy các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ đã đầy đủ; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết
định đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án; triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa;
gởi các quyết định của Tòa án cho những người liên quan…
- Việc trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung trước khi mở phiên tòa, cũng như việc
xác định đầy đủ danh sách những người cần triệu tập sẽ đảm bảo cho quá trình xét hỏi
được toàn diện, hạn chế việc hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người tham gia tố tụng
cũng như việc trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung của HĐXX.
- Trong thời gian chuẩn bị xét xử, HĐXX, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự đã nghiên cứu hồ sơ vụ án, nên đã nắm bắt được cơ bản nội dung vụ
án, khi xét hỏi sẽ có trọng tâm và tập trung hơn vào những vấn đề còn khúc mắc. Vì
vậy sự thật sẽ dễ dàng được làm sáng tỏ và không mất nhiều thời gian vô ích.
- Tại phiên tòa, thông qua quá trình xét hỏi, nếu những người tham gia xét hỏi
thấy cần phải triệu tập thêm những người tham gia tố tụng như: người làm chứng,

người bị hại… để làm rõ vụ án và Tòa án thấy có căn cứ thì phải hoãn phiên tòa. Như
vậy, vụ án lại trở về thủ tục chuẩn bị xét xử, tuy thời gian cũng như công việc có ít
hơn, nhưng là sự hoàn thiện các thủ tục để vụ án được giải quyết tốt nhất. Đó chính là
sự tác động trở lại của phiên tòa đối với thủ tục chuẩn bị xét xử.


Tóm lại, xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng độc lập của quá trình tố tụng
hình sự; trong đó bao gồm thủ tục chuẩn bị xét xử và phiên tòa sơ thẩm. Chuẩn bị xét
xử là tiền đề cần thiết và quan trọng cho việc mở phiên tòa và tiến hành phiên tòa
thành công. Còn phiên tòa sơ thẩm là hình thức đặc trưng của giai đoạn này; là nơi thể
hiện đậm nét nhất nội dung của các nguyên tắc cơ bản của TTHS, thể hiện rõ nhất sự
hiện diện, mối quan hệ tác động qua lại giữa các chức năng cơ bản của TTHS: Chức
năng buộc tội – chức năng bào chữa – chức năng xét xử, trong đó chức năng xét xử có
vai trò quyết định.
1.1.1.2. Khái niệm và ý nghóa của phiên tòa hình sự sơ thẩm:
Trong khoa học pháp lý hiện nay chưa có định nghóa chính thức thế nào về
phiên tòa. Tuy nhiên, trên cơ sở xem xét đến ngữ nghóa của từ “phiên” thì phiên ở đây
có thể hiểu như là phiên chợ, phiên họp… là hình thức hoạt động có chủ đích với sự
tham gia của nhiều người. Cho nên, phiên tòa có thể hiểu là phiên họp của Tòa án hay
phiên họp của các quan tòa để xét xử một vụ việc cụ thể. Nhưng phiên họp này được
coi là phiên họp đặc biệt bởi nội dung, chủ thể… và hình thức đặc thù mà pháp luật quy
định rất chặt chẽ.
Theo quy định của BLTTHS thì phiên tòa được phân thành bốn loại khác nhau,
đó là phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm và phiên tòa
tái thẩm; trong đó phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm cũng là hai cấp xét xử
của Tòa án. Phiên tòa sơ thẩm được coi là cấp xét xử thứ nhất và là trung tâm của quá
trình tố tụng, có nhiẹâm vụ giải quyết cơ bản toàn bộ những vấn đề có liên quan đến vụ
án. Chính vì thế có thể khẳng định rằng phiên tòa sơ thẩm là hoạt động quan trọng
nhất của toàn bộ tiến trình tố tụng, điều đó thể hiện:
- Các hoạt động tố tụng diễn ra trước khi mở phiên tòa sơ thẩm như khởi tố, điều

tra, truy tố đều nhằm mục đích đưa người phạm tội ra xét xử bằng một phiên tòa và
mong muốn có một bản án đúng pháp luật, Tòa án là chủ thể duy nhất được pháp luật
giao nhiệm vụ đó. Các hoạt động trước khi mở phiên tòa là sự chuẩn bị, là những giả
thiết cho phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa sơ thẩm kiểm nghiệm, đánh giá những kết
quả đạt được của giai đoạn trước. Giai đoạn sau đó cũng chỉ là sự kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ của các quyết định sơ thẩm.


- Phiên tòa sơ thẩm là nơi hội tụ đầy đủ cả ba chức năng cơ bản của tố tụng hình
sự một cách rõ nét nhất và có đầy đủ các chủ thể tham gia nhất. Phiên tòa sơ thẩm
cũng là nơi giải quyết các xung đột pháp lý giữa hai bên tranh tụng: bên buộc tội và bên
bào chữa. Mối quan hệ pháp luật xung đột này được hình thành trên cơ sở sự kiện có
dấu hiệu tội phạm – dấu hiệu vi phạm quy định của BLHS. Xung đột quan hệ pháp
luật hình sự phải căn cứ vào quy định của pháp luật Hình sự để giải quyết. Trên cơ sở
kết quả tranh tụng của hai bên, Tòa án căn cứ vào pháp luật Hình sự sẽ tuyên bản án
của mình. Vì vậy, có thể nói phiên tòa sơ thẩm là nơi thể hiện hoạt động của cơ quan
Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng pháp luật vào trong trường hợp cụ thể [50].
- Chỉ có thông qua phiên tòa và bởi chủ thể duy nhất là Tòa án, bị cáo mới bị
kết tội do đã thực hiện hành vi phạm tội. Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9 BLTTHS
quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ”. Điều này khẳng định phiên tòa là nơi duy nhất ra
bản án để xác định một người có tội hay không có tội và nếu có tội thì đó là tội gì, hình
phạt áp dụng cho họ ra sao.
- Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm mọi chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra thu
thập trong giai đoạn điều tra được xem xét một cách công khai. Mặc dù các tài liệu
này là cơ sở để Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng đó chưa phải là chuẩn
mực, chưa phải là cái tất yếu. Những chứng cứ, tài liệu nếu không được xem xét tại
phiên tòa đều không được dùng làm căn cứ để HĐXX quyết định khi nghị án và tuyên
án.
- Thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa, Tòa án phát hiện ra những nguyên

nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, những thiếu sót trong công tác quản lý của
các chủ thể khác nhau từ đó có những kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét giải
quyết. Phiên tòa còn là một trong những hình thức tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp
luật cho quần chúng nhân dân.
1.1.2. Một số điều kiện chung của phiên tòa sơ thẩm:
BLTTHS quy định những điều kiện chung về phiên tòa sơ thẩm – những quy
định mang tính bắt buộc trong mọi phiên tòa nhằm tạo những điều kiện tối thiểu cần
thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của phiên tòa. Đó là các điều kiện sau đây:


1.1.2.1. Thẩm quyền xét xử:
Thẩm quyền xét xử của Tòa án là vấn đề phức tạp không chỉ trong các quy định
của pháp luật mà còn trong thực tiễn áp dụng. Trên thế giới, đa số các nước quy định
thẩm quyền xét xử của Tịa án theo cấp xét xử và Tịa án được tổ chức theo ba cấp là:
Tòa án sơ thẩm, Tòa án phúc thẩm và Tòa phá án. Tương ứng với ba cấp tổ chức đó là
thẩm quyền xét xử: Tòa sơ thẩm xét xử tất cả các vụ án; Tòa phúc thẩm xét xử các vụ
án bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa phá án thực hành quyền xét xử giám đốc thẩm. Vì
vậy ở các nước này chỉ có khái niệm thẩm quyền theo lãnh thổ.
BLTTHS của nước ta phân chia thẩm quyền xét xử trên cơ sở căn cứ vào các
dấu hiệu của vụ án, như: về loại tội, về lãnh thổ, và về người phạm tội; tương ứng như
vậy có ba loại thẩm quyền: thẩm quyền theo việc, thẩm quyền theo người và thẩm
quyền theo lãnh thổ. Mỗi vụ án đều có những dấu hiệu để Tòa án có thể biết được nó
thuộc loại thẩm quyền nào và trên cơ sở đó, theo pháp luật TTHS thì Tòa án nào có
thẩm quyền xét xử.
Việc phân chia thẩm quyền xét xử như trên đều có ý nghóa khoa học nhất định.
Tuy nhiên, qua hơn mười năm kể từ khi BLTTHS năm 1988 ra đời thì việc phân chia
này đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập. BLTTHS năm 2003 đã có những thay đổi nhất
định về thẩm quyền xét xử, như quy định về tăng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện
và Tòa án quân sự khu vực được xét xử sơ thẩm các vụ án ở mức rất nghiêm trọng
(khoản1 Điều 170) có khung hình phạt đến 15 năm tù. Sự sửa đổi này mặc dù đã có sự

nhìn nhận đúng đắn hơn về vai trò của cấp sơ thẩm nhưng chưa thật sự tạo ra một bước
đột phá. Vì thế, trong Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã vạch ra những
bước đi cụ thể hơn để tiến tới thành lập các Tòa án khu vực, tổ chức Tòa án theo cấp
xét xử chứ không theo cấp hành chính lãnh thổ như hiện nay [35].
1.1.2.2. Điều kiện về Hội đồng xét xử:
Những điều kiện về HĐXX đó là các quy định về số lượng thành viên, cơ cấu
thành phần, bình đẳng theo pháp luật giữa các thành viên và yêu cầu không thay đổi
thành viên của HĐXX trong suốt quá trình xét xử vụ án.
Thành phần HĐXX là những người mà theo quy định của pháp luật họ có quyền
tham gia trong HĐXX và nhân danh Nhà nước tiến hành việc xét xử tại phiên tòa.


Trên thế giới, thành phần HĐXX có thể phân thành ba dạng sau: 1) HĐXX có Hội
thẩm nhân dân tham gia cùng với Thẩm phán chuyên nghiệp. Khi xét xử, Hội thẩm
ngang quyền với Thẩm phán, cùng Thẩm phán quyết định cả vấn đề sự kiện cũng như
vấn đề pháp lý…. 2) Việc xét xử được tiến hành bởi hai thành phần riêng biệt: Đoàn
bồi thẩm và Thẩm phán chuyên nghiệp. Đoàn bồi thẩm quyết định bị cáo có tội hay
không có tội, nếu có tội thì Thẩm phán quyết định hình phạt cho bị cáo. Hội đồng bồi
thẩm và Thẩm phán không nghị án cùng nhau. 3) Việc xét xử chỉ gồm một hoặc ba
Thẩm phán chuyên nghiệp, tùy theo tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt dự
kiến áp dụng cho bị cáo là không nặng và (hoặc) theo yêu cầu của bị cáo.[38]
Cộng hòa liên bang Nga là một trong những nước điển hình về tính đa dạng của
thành phần xét xử, tùy theo tính chất của từng vụ án và yêu cầu nhất định của bị cáo
các vụ án hình sự có thể được xét xử bởi một trong bốn dạng thành phần xét xử sau
đây: Một Thẩm phán; một Thẩm phán chuyên nghiệp và hai Hội thẩm nhân dân; ba
Thẩm phán chuyên nghiệp; một Thẩm phán chuyên nghiệp và các Hội thẩm là bồi
thẩm viên [57].
Ở Việt Nam trong cơ cấu thành phần HĐXX có đa số những người không
chuyên, đó chính là Hội thẩm. Sự tham gia của những người không chuyên trong
HĐXX là một trong những hình thức đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Số lượng thành viên tham gia xét xử cũng là một trong những đảm bảo cần thiết
khi xét xử từng vụ án cụ thể. Theo Điều 185 BLTTHS thì HĐXX sơ thẩm gồm 3 người
(1 Thẩm phán, 2 Hội thẩm). Nếu vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hay vụ án
mà bị cáo đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì
HĐXX gồm 5 người (2 Thẩm phán, 3 Hội thẩm). Nếu bị cáo là người chưa thành niên
thì cơ cấu thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (khoản1 Điều 307 BLTTHS).
Những quy định trên là mang tính bắt buộc khi xét xử bất kỳ một vụ án cụ thể
nào, nếu không tuân thủ các quy định trên thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng và cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm là điều không thể tránh khỏi.
Một trong những nội dung quan trọng của các điều kiện về HĐXX là khả năng
không bị thay đổi của HĐXX sau khi đã kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa. BLTTHS


chỉ quy định những khả năng dẫn đến việc thay đổi thành viên HĐXX trong thủ tục bắt
đầu phiên tòa (Điều 202), còn các thủ tục sau đó đều không quy định. Do đó, nếu
những người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi thành viên HĐXX khi đã chuyển qua
các thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án thì không có ý nghóa bắt buộc đối
với HĐXX cho dù yêu cầu đó là có căn cứ.
1.1.2.3. Những đảm bảo về tính hợp pháp, công khai, trực tiếp và liên tục khi xét
xử:
Việc tổ chức phiên tòa là do Tòa án quyết định trên cơ sở từng vụ án cụ thể.
Mặc dù vậy, không phải Tòa án muốn mở phiên tòa như thế nào cũng được, chỉ khi các
điều kiện cần thiết cho việc mở phiên tòa đã được đảm bảo thì phiên tòa đó mới được
coi là hợp pháp. Chẳng hạn như vấn đề thời hạn: Thời hạn chuẩn bị mở phiên tòa; thời
hạn giao các quyết định, văn bản tố tụng cho bị báo và những người tham gia tố tụng
khác…
Ví dụ: Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải giao cho bị cáo trước khi mở phiên
tòa 10 ngày (khoản1 Điều 182 BLTTHS), nếu không giao đủ thời gian theo luật định
khi bị cáo có yêu cầu thì phiên tòa phải hoãn.

Tính công khai, trực tiếp và liên tục khi xét xử cũng là một trong những điều
kiện rất quan trọng để có thể thừa nhận về sự hợp pháp của phiên tòa: Nguyên tắc Xét
xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục được coi là một trong những nguyên tắc quan trọng
của việc tiến hành phiên tòa. Xét xử trực tiếp đòi hỏi sự có mặt của bị cáo và những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa, và trong những trường hợp theo quy định của
BLTTHS mà họ vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, nếu có người vắng mặt
mà sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án thì HĐXX
quyết định vẫn tiến hành xét xử.
Xét xử bằng lời thể hiện ở chỗ: Việc hỏi, trả lời, tranh luận, tuyên án đều phải
bằng lời chứ không phải bằng ký hiệu hay viết trên giấy, bản án là kết quả của quá
trình giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 24 BLTTHS thì những người tham gia tố
tụng có quyền dùng tiếng nói của dân tộc mình, nếu không phải tiếng phổ thông thì
phải có phiên dịch. Còn đối với người tham gia tố tụng là người câm và người điếc thì
phải thông qua người biết ký hiệu, hiểu được người câm, người điếc muốn nói gì và


theo quy định tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS thì họ được coi như người phiên dịch của
người câm và người điếc.
Xét xử phải được tiến hành liên tục từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi tuyên án,
trừ thời gian nghỉ (nghỉ qua đêm, nghỉ ngày lễ, ngày chủ nhật, nghỉ vì lý do khách quan
khác…), thời gian nghị án cũng là thời gian Tòa án làm việc. Trong thời gian đang xét
xử một phiên tòa, HĐXX đó không được tiến hành bất kỳ một phiên tòa thứ hai nào.
Thành phần HĐXX không được thay thế kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên
tòa. Trong quá trình xét xử nếu có thành viên HĐXX không tiếp tục tham gia xét xử
được thì phiên tòa vẫn có thể tiếp tục nếu có thành viên dự khuyết và thành viên đó
phải có mặt tại phiên tòa từ đầu, nếu không phải tiến hành lại từ đầu.
1.1.2.4.

Sự bình đẳng của hai bên tranh tụng trong hoạt động chứng minh tại
phiên tòa:


Tại phiên tòa các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên bào chữa phải bình đẳng
với nhau trong việc thực hiện chức năng của mình. Sự bình đẳng này thể hiện trong
việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu; bình đẳng trong quá trình xét hỏi, tranh luận; có và
được bảo đảm các điều kiện như nhau để phục vụ cho việc chứng minh của mỗi bên.
Ví dụ: Tại phiên tòa Kiểm sát viên và người bào chữa cùng được sử dụng máy
chiếu, bảng vẽ… để chứng minh cho lập luận của mình.
Pháp luật tố tụng của chúng ta hiện nay đã quy định quyền của bên buộc tội và
quyền của bên bào chữa trong hoạt động chứng minh tại phiên tòa cũng như các giai
đoạn tố tụng khác là tương đối bình đẳng. Tuy nhiên, các quy định này chưa thật sự cụ
thể nên trong thực tiễn việc sử dụng các công cụ dùng để trợ giúp cho việc chứng minh
của người bào chữa còn hạn chế.
1.1.2.5. Sự hiện diện của những người tham gia phiên tòa.
Phiên tòa là hình thức hoạt động thực hiện chức năng xét xử của Tòa án, nó
được diễn ra với sự tham gia khá đầy đủ của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia
tố tụng. Khác với giai đoạn điều tra, việc lấy lời khai chỉ diễn ra ở từng người hoặc
nhóm người, mang tính công khai hạn chế. Còn ở phiên tòa, hoạt động xét xử là công
khai, việc điều tra tại phiên tòa mang tính tổng thể, có tính đối chất cao và thể hiện rõ


nhất tính tranh tụng, nên sự hiện diện của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố
tụng là rất cần thiết:
- Sự hiện diện của KSV: Sự tham gia của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là
bắt buộc, đây vừa là quyền và cũng là nghóa vụ của Viện kiểm sát.
Theo pháp luật hiện hành thì KSV tham gia phiên tòa với hai chức năng là:
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sự tham gia của KSV tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm là bắt buộc, điều này xuất phát từ chức năng công tố của
Viện kiểm sát. Viện kiểm sát truy tố bị can bằng bản cáo trạng. Tại phiên tòa, KSV
phải có nghóa vụ bảo vệ cáo trạng, phải chứng minh cho HĐXX thấy việc truy tố bị can
của mình là có căn cứ. KSV đại diện cho Viện kiểm sát tại phiên tòa là trục trung tâm

cho các chủ thể tố tụng khác. Chính vì thế khi không có KSV tại phiên tòa - tức là
không có người nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội thì không có phiên tòa.
Cho nên, khoản 2 Điều 189 BLTTHS quy định: Nếu KSV vắng mặt, bị thay đổi thì
phải có KSV dự khuyết thay thế và việc xét xử tại phiên tòa mới được tiếp tục, nếu
không thì HĐXX phải hoãn phiên tòa.
- Sự hiện diện của bị cáo: Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS thì bị cáo là
người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Điều 187 BLTTHS quy định về sự có mặt
của bị cáo tại phiên tòa là bắt buộc là nhằm để thực hiện tốt nguyên tắc xét xử trực
tiếp, bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho bị
cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa theo quy định của pháp luật.
Do yêu cầu bị cáo tại phiên tòa là bắt buộc đối với tất cả các vụ án, nên nếu bị
cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa, trong trường hợp bị cáo
vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải. Tòa án chỉ xét xử vắng mặt
bị cáo trong từng trường hợp rất đặt biệt và rất hạn chế được quy định tại khoản 2 Điều
187 BLTTHS.
- Sự hiện diện của người bào chữa : BLTTHS hiện hành cũng như các văn bản
hướng dẫn thi hành đều không định nghóa thế nào là người bào chữa mà chỉ nêu người
bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo; bào chữa viên nhân dân.


Sự tham gia phiên tòa của người bào chữa theo hai khả năng và điều kiện: Do bị
cáo, gia đình hoăïc thân nhân bị cáo mời và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận
hoặc cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư thông qua Văn phòng luật sư, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa
và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận.
Khi đã được Tòa án chấp nhận là người bào chữa cho bị cáo thì người bào chữa
phải có nghóa vụ tham gia phiên tòa. Điều luật quy định quyền tham gia phiên tòa của
người bào chữa là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc thực hiện quyền bào chữa
của bị cáo trong tố tụng hình sự. Đồng thời, sự có mặt của người bào chữa bảo đảm cho

việc tranh tụng công khai trước phiên tòa giữa bên buộc tội và bên gỡ tội và từ đó xác
định chính xác sự thật khách quan.
Trước đây, BLTTHS năm 1988, tại khoản 1 Điều 65 có quy định: “… Nếu người
bào chữa vắng mặt nhưng có gởi trước bản bào chữa thì tòa án vẫn mở phiên tòa xét
xử”. Quy định như vậy nhiều khi gây khó khăn cho Tòa án, vì nếu người bào chữa
không gởi bản bào chữa thì Tòa án phải hoãn phiên tòa. Để khắc phục tình trạng này,
Điều 190 BLTTHS năm 2003 quy định: “… Nếu người bào chữa vắng mặt thì Tòa án
vẫn mở phiên tòa xét xử”. Điều này đã nâng cao trách nhiệm của người bào chữa và
hạn chế tình trạng án quá hạn luật định do phải hoãn vì vắng mặt người bào chữa. Tuy
nhiên, không phải trong mọi trường hợp vắng mặt người bào chữa Tòa án vẫn tiến
hành xét xử, khi người bào chữa vắng mặt có lý do chính đáng thì Tòa án vẫn có thể
xem xét hoãn phiên tòa. Mọi trường hợp người bào chữa được bị cáo mời mà vắng mặt
không có lý do chính đáng thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án. Nếu phiên tòa xét
xử bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần
hoặc bị cáo bị xét xử về tội có mức hình phạt cao nhất là tử hình mà người bào chữa
vắng mặt, thậm chí đã gởi trước bài bào chữa cho bị cáo thì HĐXX phải hoãn phiên
tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo từ chối người bào chữa.
- Sự hiện diện của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghóa vụ liên quan đến vụ án : Sự có mặt của những người trên hoặc người
đại diện của họ tại phiên tòa để giúp cho việc xác định sự thật khách quan liên quan
đến quyền và nghóa vụ của họ và tạo điều kiện cho họ bảo vệ quyền lợi của mình. Vì
vậy, pháp luật quy định sự có mặt của họ tại phiên tòa là nghóa vụ của họ. Tuy nhiên,


khoản 1 Điều 191 BLTTHS quy định cho HĐXX có quyền vẫn tiến hành xét xử hay
hoãn phiên tòa trong từng trường hợp cụ thể.
Nếu sự vắng mặt của các chủ thể này không trở ngại cho việc xét xử, tức không
trở ngại cho HĐXX xác định tình tiết vụ án liên quan đến quyết định của mình do trong
giai đoạn điều tra họ đã có lời khai, đưa ra yêu cầu… hay sự vắng mặt của họ trở ngại
cho vấn đề bồi thường nhưng có thể tách vấn đề đó ra giải quyết bằng thủ tục tố tụng

dân sự thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án bình thường. Cần nhớ rằng, các chủ thể
này tham gia phiên tòa có ý nghóa quan trọng đến việc xác định các tình tiết của vụ án,
họ là nguồn chứng cứ thì sự có mặt của họ là bắt buộc, nếu không có mặt họ thì
HĐXX phải hoãn phiên tòa.
- Sự hiện diện của người bảo vệ quyền lợi của đương sự: Theo quy định tại Điều
59 BLTTHS thì người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người được người bị hại;
nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghóa vụ liên quan đến vụ án
nhờ và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ.
Việc tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm của người bảo vệ quyền lợi của đương
sự là trên cơ sở các đương sự nhờ và không mang tính bắt buộc đối với cơ quan tiến
hành tố tụng, nên sự vắng mặt của họ không dẫn đến hoãn phiên tòa.
Một người chỉ tham gia tố tụng với một tư cách, hoặc là người đại diện cho
đương sự uỷ quyền hoặc là người bảo vệ quyền lợi của đương sự [9].
- Sự hiện diện của người làm chứng: Những người biết được những tình tiết liên
quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng phải trực
tiếp tham gia phiên tòa chứ không thể ủy quyền cho người khác được. Vì vậy, bất cứ ai
biết được những tình tiết của vụ án, có khả năng nhận thức và khai báo trung thực thì
đều có thể trở thành người làm chứng cho dù đó là người chưa thành niên hay người có
nhược điểm về thể chất. BLTTHS chỉ cấm người làm chứng là người bào chữa của bị
can, bị cáo, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng
nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.
Người làm chứng tham gia phiên tòa chủ yếu là thực hiện nghóa vụ hơn là quyền. Nếu
Tòa án đã triệu tập, người làm chứng không đến mà sự vắng mặt của họ gây trở ngại
cho xét xử thì có thể bị dẫn giải (Điều 192-BLTTHS).


- Sự hiện diện của người giám định: Người giám định có thể là giám định viên
tư pháp hoặc bất kỳ người nào có khả năng giám định, đáp ứng được yêu cầu mà cơ
quan tố tụng đặt ra. Người giám định tham gia phiên tòa sơ thẩm theo giấy triệu tập
của Tòa án, họ có những quyền liên quan đến việc giám định như: quyền tìm hiểu tài

liệu của vụ án, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp tài liệu… Tuy nhiên, trong
thực tế không phải vụ án nào có kết luận giám định thì người giám định cũng phải
tham gia. Tùy thuộc vào việc Tòa án thấy có cần thiết phải triệu tập người giám định
ra tòa hay không và sự tham gia phiên tòa khi có giấy triệu tập là nghóa vụ của người
giám định mà pháp luật đã quy định.
Như vậy, ngoài KSV, bị cáo là tham gia bắt buộc ở tất cả các phiên toà, các chủ
thể còn lại tùy từng vụ án cụ thể mà họ có thể tham gia tố tụng tại phiên tòa và cũng
tùy từng vụ án cụ thể mà tính bắt buộc tuyệt đối hay tuỳ nghi trong việc tham gia phiên
tòa của mỗi chủ thể. Ngoài yếu tố chủ quan của mỗi chủ thể thì yếu tố khách quan để
bảo đảm cho sự tham gia của họ là hết sức cần thiết. Chẳng hạn như người bị hại,
người có quyền lợi, nghóa vụ liên quan đến vụ án; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự;
người làm chứng nếu quyền lợi của họ không có hoặc không đáng kể thì họ không tích
cực tham gia phiên tòa, nhưng sự tham gia của họ rất có ý nghóa trong việc xác định
các tình tiết của vụ án thì các cơ quan tố tụng đảm bảo các điều kiện cấn thiết cho họ
tham gia, như: giữ bí mật đời tư cho họ, tạo các điều kiện về đi lại khi đến tham gia
phiên tòa…
1.1.2.6. Giới hạn xét xử của Tòa án sơ thẩm.
Giới hạn của việc xét xử là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều trong
giới luật học và hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất.
Quy định của Điều 196 BLTTHS hiện hành thực chất là Điều 170 BLTTHS năm
1988 và tinh thần tại Thông tư liên ngành số 01 ngày 08/12/1988. Giới hạn xét xử từ
trước đến nay có nhiều quan điểm khác nhau, tựu trung lại có hai nhóm quan điểm sau
đây:
- Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng:
+ BLTTHS quy định giới hạn xét xử là trái với nguyên tắc độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật của Tòa án. Viện kiểm sát có quyền truy tố ai, hành vi gì ra trước Tòa


án, còn hành vi đó cần được xử lý như thế nào (tội danh gì, hình phạt ra sao) lại là
thẩm quyền độc lập của Tòa án.

+ Không nên quy định giới hạn xét xử trong BLTTHS hoặc sửa đổi theo hướng
Tòa án chỉ xét xử các bị cáo và các hành vi mà Viện kiểm sát truy tố.
+ Khi xét xử Tòa án không còn bị ràng buộc bởi phạm vi các điều luật mà Viện
kiểm sát viện dẫn khi truy tố. Trong nhóm này có nhiều ý kiến đề xuất sửa đổi quy
định về giới hạn xét xử khác nhau.
- Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng:
+ Giới hạn xét xử đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án được xác định và có mục
đích… đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo.
+ Tòa án không thể thay đổi nội dung định tội (tội danh) ở phiên tòa nếu việc
thay đổi đó làm xấu tình trạng bị cáo và vi phạm quyền bào chữa của bị cáo.
Việc thay đổi nội dung định tội ở Tòa án vi phạm quyền bào chữa của bị cáo
trong hai trường hợp: a) Khi việc định tội bị thay đổi nặng hơn; b) Khi việc định tội bị
thay đổi mặc dù không nặng hơn, thậm chí nhẹ hơn nhưng là sự thay đổi cơ bản về các
tình tiết thực tế của vụ án so với nội dung buộc tội ban đầu. Tòa án có thể thay đổi nội
dung định tội trong trường hợp nếu sự thay đổi đó không làm xấu tình trạng bị cáo và
không có sự bổ sung cho nội dung buộc tội ban đầu. Nếu tại phiên tòa xác định bị cáo
phạm tội mà chưa bị đưa ra truy tố thì Tòa án quyết định khởi tố vụ án và chuyển hồ sơ
điều tra theo thủ tục chung. Trong nhóm này có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định về
giới hạn xét xử như đoạn 1 Điều 196 BLTTHS [51], có ý kiến đề nghị bổ sung theo
hướng nói trên [26].
- Nhóm quan điểm thứ ba cũng đồng tình với việc quy định giới hạn xét xử sơ
thẩm hình sự của Tòa án nhưng đề xuất thay đổi cơ bản nội dung của Điều 196
BLTTHS. Quan điểm này cho rằng: Ba chức năng cơ bản của TTHS là chức năng buộc
tội, chức năng xét xử và chức năng bào chữa hoàn toàn độc lập với nhau nhưng không
thể thiếu được nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giới hạn xét xử thực chất
là nguyên tắc xử lý một cách hài hòa mối quan hệ giữa ba chức năng cơ bản của TTHS
tại phiên tòa sơ thẩm và chính giới hạn xét xử này là yếu tố đảm bảo cho Tòa án luôn


luôn là Tòa án - cơ quan thực hiện chức năng xét xử chứ không phải là cơ quan thực

hiện chức năng buộc tội, vì:
+ Ngay từ đầu hoạt động xét xử của Tòa án đã phụ thuộc vào hoạt động truy tố
của Viện kiểm sát.
+ Nội dung, phạm vi truy tố xác định nội dung hoạt động xét xử của Tòa án.
(Hoạt động bào chữa cũng phụ thuộc vào nội dung và phạm vi truy tố).
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ là sự thừa nhận chính thức của Tòa án về
việc nội dung truy tố sẽ là đối tượng và phạm vi xét xử của Tòa án tại phiên tòa.
+ Giới hạn xét xử không thể ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Tòa án. Giới
hạn xét xử là yếu tố bảo đảm cho Tòa án luôn là cơ quan thực hiện chức năng xét xử.
Giới hạn xét xử không cho phép Tòa án có thể làm xấu tình trạng của bị cáo so với nội
dung truy tố.
+ Nguyên tắc không được làm xấu tình trạng bị cáo và nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo là hai yếu tố phải được cân nhắc khi giải quyết sự khác biệt
về đánh giá pháp lý giữa quyết định truy tố và quyết định của Tòa án. Tòa án có thể
vượt quá giới hạn xét xử như là một ngoại lệ nếu điều đó không làm xấu tình trạng của
bị cáo và không vi phạm quyền bào chữa của bị cáo.
Trên cơ sở này tác giả đề xuất nội dung Điều 196 cần được quy định như sau:
1. Tòa án chỉ xét xử bị cáo (hoặc các bị cáo) trong phạm vi truy tố.
2. Tòa án có thể xét xử khác với nội dung quyết định truy tố nếu không làm xấu
tình trạng của bị cáo hoặc không vi phạm quyền bào chữa của bị cáo [39].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, vì giới hạn xét xử bảo đảm hài hòa mối
quan hệ giữa các chức năng tố tụng hình sự, không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo
và đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo là những đòi hỏi có tính bắt buộc trong TTHS.
Khi xác định được giới hạn xét xử thì việc xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm cũng phải
trong giới hạn đó.
1.1.3. Các thủ tục của phiên tòa sơ thẩm:
Bất cứ phiên tòa hình sự sơ thẩm nào dù có một bị cáo hay nhiều bị cáo, dù bị
cáo bị Viện kiểm sát truy tố về tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, thời gian



xét xử có thể chỉ một buổi hay nhiều ngày cũng đều phải diễn ra theo một trình tự nhất
định, trình tự này do pháp luật quy định, gồm các thủ tục sau: thủ tục bắt đầu phiên tòa,
xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
1.1.3.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa:
Hay còn gọi là “thủ tục khai mạc phiên tòa” được quy định từ Điều 201 đến
Điều 205 BLTTHS. Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định nhằm kiểm tra sự có mặt
của những người tham gia tố tụng, giải thích các quyền và nghóa vụ tố tụng và tạo
những điều kiện cần thiết cho phần tiếp theo. Ở phần này chủ yếu do Thẩm phán - chủ
tọa phiên tòa tiến hành.
Nội dung chủ yếu của phần này là Chủ tọa phiên tòa xác định mọi vấn đề để
cho các bước tiếp theo của phiên tòa thực hiện tốt nhất, như xác định những người được
triệu tập tại phiên tòa đã đầy đủ hay chưa, xem xét nếu có người vắng mặt thì có dẫn
đến hoãn phiên tòa hay không; bị cáo có nhận được bản cáo trạng theo đúng thời hạn
do luật định hay không… Pháp luật quy định như trên là để đảm bảo quyền bào chữa
của bị cáo. Ngoài ra, trong thủ tục này HĐXX còn giải quyết các yêu cầu về thay đổi
những người tiến hành tố tụng, về yêu cầu cần triệu tập thêm người làm chứng hay
những yêu cầu khác của người tham gia tố tụng.
1.1.3.2. Xét hỏi tại phiên tòa:
Thủ tục xét hỏi tại phiên Tòa (hay còn gọi là thẩm vấn) được quy định từ Điều
206 đến Điều 216 BLTTHS. Đây là thủ tục quan trọng nhất của phiên tòa khi mọi vấn
đề của vụ án được đưa ra xem xét công khai.
Nội dung của thủ tục này là làm rõ các tình tiết của vụ án: các tình tiết buộc tội,
gỡ tội, tăng nặng, giảm nhẹ; các tình tiết về trách nhiệm dân sự và những tình tiết
khác. Nội dung của phầøn xét hỏi là cơ sở để cho phầøn tranh luận, nghị án và tuyên án,
nếu có tình tiết nào chưa được làm rõ tại phần xét hỏi thì ở bất cứ thời điểm nào (trừ
khi đã tuyên án) HĐXX có thể quyết định quay trở lại xét hỏi.
Để làm rõ các tình tiết của vụ án thì những người tham gia xét hỏi phải trực tiếp
xét hỏi và nghe bị cáo và những người tham gia tố tụng trình bày, trả lời, nghe kết luận
của người giám định, xem xét các vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố
các tài liệu, xem xét tại chỗ… “Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt đôïng xét xử vaø



cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án, có thể có những câu hỏi
và những câu trả lời tại phiên Tòa không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai
đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghóa vô cùng quan trọng ở chỗ việc hỏi và trả lời
được diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của Cơ quan điều
tra” [43].
Thủ tục xét hỏi kết thúc khi tất cả các vấn đề của vụ án đã được làm rõ, trong
quá trình tranh luận theo yêu cầu của người tham gia tố tụng hoặc HĐXX tự quyết định
trở lại phần xét hỏi nếu thấy cần thiết.
1.1.3.3. Tranh luận tại phiên tòa:
Thủ tục tranh luận tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo cho các chủ thể
thuộc chức năng buộc tội và bào chữa phân tích, đánh giá chứng cứ của vụ án đã được
làm rõ trong thủ tục xét hỏi, đưa ra lập luận và quan điểm giải quyết vụ án nhằm giúp
HĐXX quyết định vụ án một cách chính xác, khách quan. Tranh luận tại phiên tòa là
biểu hiện tập trung nhất, cao độ nhất của tranh tụng dân chủ. Đây là nơi mà KSV và
người bào chữa thể hiện rõ nhất vai trò, khả năng của mình, còn HĐXX đóng vai trò
quan sát, trọng tài điều khiển việc tranh luận của các bên.
Cần phân biệt hai khái niệm “tranh tụng” và “tranh luận”: “Tranh tụng được
hiểu như là một quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữ hai chức năng đối trọng
nhau như là tiền đề cần thiết khách quan cho hoạt động xét xử. Còn tranh luận là một
thủ tục - một phần độc lập của phiên tòa sơ thẩm, một phần của tiến trình tranh tụng trong đó các bên buộc tội và bào chữa thông qua phần trình bày của mình tổng hợp và
đánh giá kết quả của phần xét hỏi, phân tích đánh giá các chứng cứ của vụ án và đưa
ra những đánh giá chính trị - xã hội và đánh giá pháp lý đối với hành vi của bị cáo, đề
nghị hình phạt, mức hình phạt và những vấn đề có liên quan mà Tòa án phải giải quyết
khi nghị án” [38].
1.1.3.4. Nghị án và tuyên án:
+ Nghị án: Là việc HĐXX thảo luận và thông qua bản án tại phòng nghị án trên
cơ sở biểu quyết theo đa số. Chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án và
chỉ có họ mới có quyền vào phòng nghị án .



Khi nghị án HĐXX phải xem xét tất cả các vấn đề của vụ án và giải quyết bằng
cách thảo luận dân chủ, biểu quyết theo đa số từng vấn đề. Khi nghị án HĐXX phải
giải quyết các vấn đề sau đây: Tội danh (điều khoản BLHS cần áp dụng); hình phạt
(hình phạt chính, hình phạt bổ sung, mức hình phạt…); các biện pháp tư pháp (tịch thu
tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hay bồi thường thiệt
hại, buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh); xử lý vật chứng; những vấn đề khác
(bắt giam hay trả tự do cho bị cáo ngay sau khi tuyên án, án phí… ). Nếu qua việc nghị
án HĐXX thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoăïc xét hỏi không đầy đủ thì
HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận. Khi nghị án HĐXX phải lập thành
biên bản gọi là biên bản nghị án. Trên cơ sở những vấn đề đã giải quyết được ghi nhận
trong biên bản nghị án thì Chủ tọa phiên tòa soạn thảo bản án.
+ Tuyên án: Là tại phiên tòa HĐXX đọc toàn bộ nội dung bản án đã được thông
qua khi nghị án. Việc đọc bản án có thể do bất cứ thành viên nào trong HĐXX thực
hiện, nhưng thông thường là do Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa.
Bản án là văn bản pháp lý quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án hình sự,
nó “là kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, là văn
bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa mà trong đó, khẳng
định về việc người bị đưa ra xét xử bị coi là có tội (hay không có tội), cũng như về việc
áp dụng (hay không áp dụng) hình phạt hoặc (và) biện pháp cưỡng chế về hình sự khác
đối với người này theo các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS” [10].
Trên cơ sở định nghóa này thì bản án hình sự sơ thẩm có các dấu hiệu sau:
- Là kết quả cuối cùng của vấn đề giải quyết trách nhiệm hình sự;
- Là văn bản pháp lý của Tòa án tuyên tại phiên tòa;
- Phải có sự khẳng định dứt khoát và rõ ràng của Tòa án về việc người đưa ra xét
xử bị coi là có tội hay (không có tội);
- Phải có sự quyết định của Toà án về việc có áp dụng (hay không áp dụng) hình
phạt hoặc (và) biện pháp cưỡng chế về hình sự đối với người này theo các quy định
của pháp luật hình sự;

- Phải có sự khẳng định rõ về thời hạn có hiệu lực pháp luật của bản án hình sự đã
được tuyên theo các quy định của pháp luật TTHS.


×