Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ



LÊ THỊ NGUYỆT
MSSV: 0855030259

CĂN CỨ THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2008 – 2012

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LƯƠNG THỊ MỸ QUỲNH

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến cơ Lương
Thị Mỹ Quỳnh, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt q trình viết khóa luận tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Luật đã tận tình truyền
đạt kiến thức cho em trong bốn năm học. Với vốn kiến thức đã tiếp thu được trong q
trình học khơng chỉ là nền tảng cho q trình nghiên cứu khóa luận mà cịn là hành
trang q báu để em bước vào đời một cách vững vàng và tự tin. Em xin chúc quý
Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và ln thành cơng trong sự nghiệp trồng người!
Mình xin cảm ơn những người bạn đã giúp đỡ mình trong q trình nghiên cứu,
tìm hiểu và hồn thành khóa luận này.
Cuối cùng, xin dành lời cảm ơn sâu lắng nhất đến những người thân u trong gia


đình của tơi. Xin gửi lời biết ơn đến bố mẹ, các anh chị, em trai đã dành cho tơi tất cả
tình u thương, sự cảm thông, chia sẻ và động viên quý giá. Tôi thực sự biết ơn tất cả!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

HĐND


Hội đồng nhân dân

QPPL

Quy phạm pháp luật

QHPL

Quan hệ pháp luật

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TAQS

Tòa án quân sự

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THTT

Tiến hành tố tụng


TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTDS

Tố tụng dân sự

TTHC

Tố tụng hành chính

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSQS


Viện kiểm sát quân sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH CĂN CỨ THAY ĐỔI NGƯỜI
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..................................................... 1
1.1. Một số khái niệm liên quan đến chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng .... 1
1.1.1. Khái niệm về người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự ........................................ 1
1.1.2. Khái niệm căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng ...................................................... 4
1.1.2.1. Khái niệm thay đổi người tiến hành tố tụng .................................................................. 4
1.1.2.2. Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng ....................................................................... 5
1.2. Mục đích, ý nghĩa của chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng .................... 6
1.2.1. Mục đích của chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng.................................. 7
1.2.2. Ý nghĩa của chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng .................................... 8
1.3. Các nguyên tắc tố tụng hình sự chi phối việc quy định và áp dụng chế định căn cứ
thay đổi người tiến hành tố tụng ............................................................................................. 9
1.3.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa......................................................................... 10
1.3.2. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án ......................................................................... 11
1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố
tụng ........................................................................................................................................... 12

1.3.4. Nguyên tắc xác định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng ........................................................................................................................................... 15
1.3.5. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật........ 16
CHƯƠNG 2. CĂN CỨ THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM – THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ
HỒN THIỆN......................................................................................................................... 19
2.1. Q trình phát triển của chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng trước khi
ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ................................................................................. 19
2.2. Các căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ....... 30


2.2.1. Các căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng ............................................................... 30
2.2.2. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.......................................................... 38
2.2.3. Thẩm quyền quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng........................................... 43
2.3. Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng theo quy định pháp luật tố tụng hình sự của
một số nước.............................................................................................................................. 47
2.4. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện chế định căn cứ thay đổi người
tiến hành tố tụng ..................................................................................................................... 52
2.4.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng chế định căn cứ thay đổi người tiến hành
tố tụng ....................................................................................................................................... 52
2.4.1.1. Những thành tựu về mặt lập pháp................................................................................ 52
2.4.1.2. Những kết quả đạt được từ hoạt động áp dụng pháp luật ........................................... 53
2.4.2. Những bất cập còn tồn tại trong việc áp dụng chế định căn cứ thay đổi người tiến
hành tố tụng ............................................................................................................................. 55
2.4.2.1. Những bất cập về mặt quy phạm ................................................................................. 55
2.4.2.2. Những bất cập trong việc áp dụng pháp luật .............................................................. 65
2.4.3. Một số kiến nghị hoàn thiện chế định các căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng . 67
2.4.3.1. Những kiến nghị cụ thể về mặt quy phạm pháp luật .................................................... 67
2.4.3.2. Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng ........................................................................................................................................... 70

2.4.3.3. Tuyên truyền và nâng cao ý thức người tham gia tố tụng và người dân ..................... 71

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NĨI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, về đối ngoại, Nhà nước ta đang từng bước mở rộng
quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác, thúc đẩy quá trình hội nhập trên nhiều lĩnh vực
với các quốc gia trên thế giới và khu vực. Về đối nội, Đảng và Nhà nước ta đang chủ
trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN.
Với đường lối, chủ trương trên trong những năm gần đây chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đời sống nhân dân được nâng cao. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển đó, tình hình tội phạm khơng ngừng gia tăng, với tính chất ngày càng
nguy hiểm, mức độ tinh vi hơn, thiệt hại vô cùng lớn. Điều kiện kinh tế xã hội, khoa
học công nghệ phát triển, nhất là sự phát triển của công nghệ thông tin theo xu hướng
tồn cầu hóa, khu vực khóa đã làm phát sinh nhiều loại tội phạm mang tính chất xuyên
quốc gia. Trong khi đó, cơng tác đấu tranh phịng và chống tội phạm mặc dù đã có
những cố gắng nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Đặc biệt trong thời gian gần đây cịn cho
thấy tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm đang xảy ra hết sức phổ biến, một số cơ quan
THTT, người THTT có những biểu hiện vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng, dẫn
đến xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, làm giảm lòng
tin của nhân dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật, đi ngược lại với xu thế phát triển
chung của thời đại.
Trước tình hình trên đã đặt ra cho lý luận và thực tiễn TTHS nhiều vấn đề cấp
bách cần phải xem xét và kịp thời có những biện pháp để khắc phục. Trong số những
vấn đề cấp bách thì vấn đề đảm bảo sự vơ tư, khách quan của người THTT là rất cần

thiết. Khi người THTT thật sự vô tư, khách quan, “thiết diện, vô tư” như ơng Bao Cơng
thì mới đảm bảo cho vụ án được giải quyết một cách đúng đắn, đảm bảo được mục tiêu
phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội cũng như nhiệm vụ bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo
dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm.
Muốn người THTT vơ tư, khách quan điều quan trọng là phải loại bỏ những yếu tố ảnh


hưởng, tác động đến người THTT khi thực hiện nhiệm vụ. Chính vì thế, thay đổi người
THTT khi có một trong những căn cứ luật định là điều cần thiết, loại bỏ thiên vị, không
thiết diện của người thực hiện nhiệm vụ cơng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho xã hội
và cơng dân.
Vì vậy, nghiên cứu chế định căn cứ thay đổi người THTT là một tất yếu, nhằm
tạo ra một môi trường pháp lý trong sạch, là một trong những điều kiện quan trọng có
tính chất quyết định để vụ án được giải quyết khách quan, không làm oan người vô tội
và không để lọt tội phạm.
Để góp phần vào khoa học pháp lý hồn thiện chế định căn cứ thay đổi người
THTT, tác giả chọn đề tài: “Căn cứ thay đổi người THT – Lý luận và thực tiễn ” để
nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của mình.
Tình hình nghiên cứu
Sự vơ tư, khách quan của người THTT là một trong những yếu tố quyết định đến
việc giải quyết VAHS. Liên quan đến việc thay đổi người THTT đã có một cơng trình
nghiên cứu, đó là: Lê Hồng Trang – Thay đổi người THTT trong pháp luật TTHS Việt
Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, cơng trình trên của tác giả Lê Hồng Trang nghiên cứu theo BLTTHS 1988.
Ngồi ra, cịn có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến việc thay
đổi người THTT như: Nguyễn Phạm Duy Trang – Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư khách
quan của người THTT trong TTHS, Luận văn cử nhân Luật trường Đại học Luật thành

phố Hồ Chí Minh; Th.s Mai Thanh Hiếu – Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm trong Tố
tụng hình sự - Tạp chí Luật học số 7/2008; Nguyễn Khắc Công – Quyền thay đổi Kiểm
sát viên tại phiên tòa – Tập san Tòa án nhân dân số 1/1989; Đỗ Văn Tạo – Bàn về
trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người THTT theo Điều 42 BLTTHS 2003 – Tạp
chí Kiểm sát – VKSTANDTC, số 6/2010; Những bài viết này chỉ đề cập đến một khía
cạnh hoặc một số căn cứ thay đổi người THTT cụ thể như Thẩm phán, Hội thẩm hoặc
Kiểm sát viên.
Nói chung, cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách tổng
quát toàn bộ các căn cứ thay đổi người THTT theo pháp luật hiện hành và hướng hoàn
thiện các quy định này trong tương lai.


Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu về chế định căn cứ thay đổi người THTT qua các giai đoạn
phát triển của Việt Nam từ thời kì phong kiến cho đến nay. Nghiên cứu sơ lược về chế
định căn cứ thay đổi người THTT theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và
tập trung nghiên cứu chế định căn cứ thay đổi người THTT theo quy định của
BLTTHS 2003.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quy định pháp luật từ thời kỳ phong kiến,
các văn bản pháp luật thời kỳ sau cách mạng Tháng 8, BTLLHS 1988, BLTTHS 2003
các văn bản hướng dẫn và các văn bản pháp lý có liên quan.
Đề tài thực hiện nhằm những mục đích sau:
- Nghiên cứu chế định về các căn cứ thay đổi người THTT trong pháp luật
TTHS qua các thời kỳ lịch sử và trong pháp luật hiện hành.
- Nghiên cứu tham khảo quy định về căn cứ thay đổi người THTT theo pháp luật
của một số nước trên thế giới.
- Tìm hiểu và đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ thay đổi người THTT và đề
xuất một số kiến nghị hoàn thiện chế định này.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài là cơng trình nghiên cứu khoa học tồn diện về chế định căn cứ thay đổi

người THTT theo pháp luật TTHS hiện hành, là sự tổng hợp những phân tích, bình
luận về quan điểm của các nhà nghiên cứu về các quy định pháp luật và những kiến
nghị trong thời kỳ đổi mới.
Đề tài góp phần vào khoa học pháp lý hoàn thiện chế định căn cứ thay đổi người
THTT trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập toàn cầu.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Để thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận đã dựa trên cơ sở phép
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa trên tư tưởng Hồ
Chí Minh để xem xét, đánh giá các mặt của vấn đề trong mối liên hệ với nhau và trong
sự xuyên suốt từ lịch sử đến hiện tại.
Phương pháp nghiên cứu: Để làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản cần nghiên cứu
trong đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp
phân tích, phương pháp giải thích, phương pháp so sánh, tổng hợp, liệt kê, v.v…


Bố cục đề tài
Đề tài bao gồm: Lời cảm ơn, danh mục những từ viết tắt, mục lục, phần mở đầu,
phần nội dung chính, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội
dung chính gồm có hai chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chế định căn cứ thay đổi người THTT
Chương II: Căn cứ thay đổi người THTT trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
– Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH CĂN CỨ THAY ĐỔI
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Sự vơ tư của người THTT là một trong những điều kiện quan trọng có tính chất
quyết định để vụ án được giải quyết chính xác, khách quan, đặc biệt trong TTHS, đây
là yếu tố quyết định đến sự đúng đắn của bản án, đảm bảo không làm oan người vơ tội
và khơng để lọt tội phạm. Do đó, việc quy định các căn cứ thay đổi người THTT khi họ

không vô tư, khách quan trong BLTTHS là rất cần thiết. Những nội dung sẽ được trình
bày trong Chương 1 là những kiến thức nền tảng ở khía cạnh lý luận về chế định căn cứ
thay đổi người THTT. Theo đó, mục đích của Chương 1 là nhằm làm sáng tỏ ba vấn đề
cơ bản: (1) Những khái niệm nào có liên quan đến chế định căn cứ thay đổi người
THTT; (2) Mục đích, ý nghĩa của chế định căn cứ thay đổi người THTT là gì? (3)
Những nguyên tắc nào trong BLTTHS chi phối việc quy định và áp dụng chế định căn
cứ thay đổi người THTT?
1.1. Một số khái niệm liên quan đến chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố
tụng
1.1.1. Khái niệm về người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự
Tố tụng là q trình tồn bộ những hoạt động của các cơ quan THTT, người
THTT, người TGTT, các cơ quan Nhà nước khác và những cơng dân có liên quan
nhằm giải quyết đúng đắn những vụ án theo quy định của pháp luật. Trong quá trình tố
tụng, người THTT giữ vai trị rất quan trọng, họ là những người tìm ra sự thật khách
quan của vụ án.
Người THTT là những người nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động tố
tụng nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cơng dân. Người THTT có trong nhiều lĩnh vực tố tụng khác nhau
như hành chính, dân sự, thương mại, lao động, … trong đó có cả hình sự. Tuy nhiên,
người THTT trong TTHS khác với người THTT trong lĩnh vực phi hình sự do tính chất
của VAHS liên quan đến chứng minh tội phạm, thu thập, đánh giá chứng cứ, liên quan
đến số phận pháp lý của con người. Do đó, trong TTHS có những người THTT đặc biệt
là Điều tra viên, Kiểm sát viên mà những lĩnh vực tố tụng phi hình sự khác khơng có.

1


Vậy, người THTT trong TTHS là những chủ thể theo quy định của pháp luật
TTHS có quyền hạn và nhiệm vụ áp dụng pháp luật để giải quyết các VAHS theo
những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật XHCN.
BLTTHS không đưa ra khái niệm về người THTT mà chỉ liệt kê những chủ thể là
người THTT tại khoản 2 Điều 33 BLTTHS, bao gồm:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.
BLTTHS 1988 quy định người THTT trong TTHS chỉ bao gồm Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký TA là thiếu sót. Quy định thiếu sót này
đã được BLTTHS 2003 khắc phục bằng cách đưa những chức danh như Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Chánh án, Phó Chánh án
TA vào là người THTT. Những chức danh này tuy là người quản lý, nhưng khi tham
gia vào giải quyết một VAHS cụ thể, họ sẽ tham gia với tư cách là Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán và thủ tục thay đổi những người có chức danh quản lý cũng khác
với những người có chức danh là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đơn thuần.
 Điều tra viên
Điều tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ điều tra VAHS (Điều 29 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004).
Điều tra viên có quyền áp dụng các biện pháp điều tra do pháp luật quy định để
thu thập đầy đủ và toàn diện chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, đưa ra
bản kết luận điều tra làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử tội phạm.
Hoạt động do Điều tra viên thực hiện là hoạt động mở đầu, làm nền tảng cho các
hoạt động tố tụng tiếp theo. Nếu Điều tra viên không vô tư, khách quan mà điều tra sai
lệch, bắt tạm giam người vô tội, sẽ gây khó khăn cho hoạt động truy tố của VKS và
hoạt động xét xử của TA. Khi có một trong những căn cứ thay đổi, Điều tra viên phải
tự mình từ chối hoặc bị thay đổi để đảm bảo cho q trình điều tra được khách quan.
Khi Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT tham gia giải quyết VAHS, họ sẽ tham
gia với tư cách là Điều tra viên, họ cũng có những nhiệm vụ van quyền hạn như trên,
2



do đó, khi có căn cứ cho rằng Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT khơng vơ tư, khách
quan trong q trình thực hiện điều tra thì họ phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi.
 Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (Điều 1 Pháp lệnh về
Kiểm sát viên VKSND 2002).
Chức năng của Kiểm sát viên là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, nếu Kiểm sát viên không khách quan, vơ tư thì khơng thể giám sát các
hoạt động tư pháp, khơng đảm bảo cho tiến trình tố tụng diễn ra mà khơng có sự vi
phạm pháp luật. Nếu Kiểm sát viên không vô tư họ không truy tố bị can, yêu cầu điều
tra lại, điều tra bổ sung hoặc có những hành vi pháp lý làm ảnh hưởng đến việc truy tố
bị can, sẽ ảnh hưởng đến việc xét xử của TA, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
những người TGTT khác. Do đó, khi thuộc một trong những căn cứ thay đổi do
BLTTHS quy định, Kiểm sát viên phải tự mình từ chối hoặc bị đề nghị thay đổi.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS khi tham gia giải quyết một VAHS, họ cũng
tham gia với tư cách là Kiểm sát viên, có chức năng và quyền hạn như trên, hoạt động
của Kiểm sát viên cũng mang tính chất quyết định đến q trình giải quyết VAHS. Do
đó, khi có những căn cứ theo luật định, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS phải từ
chối THTT hoặc bị thay đổi để đảm bảo cho tiến trình tố tụng được đảm bảo.
 Thẩm phán
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ
xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của TA (khoản 1
Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND 2002).
Thẩm phán cùng với Hội thẩm là những người đưa ra phán quyết cuối cùng, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi thiết thân của người TGTT, nếu có căn cứ thay đổi mà
Thẩm phán khơng tự mình từ chối hoặc khơng bị đề nghị thay đổi, họ vẫn được tiếp tục
tiến hành xét xử sẽ gây ra những hậu quả có thể khơng bao giờ khắc phục được vì nó
liên quan đến sinh mạng, đến sự tự do của con người.
Chánh án, Phó Chánh án TA khi tham gia vào giải quyết một VAHS cụ thể, họ sẽ

tham gia với tư cách là Thẩm phán, có những nhiệm vụ, quyền hạn như Thẩm phán,
quyết định của họ cũng ảnh hưởng đến số phận pháp lý của người TGTT. Do đó,
3


Chánh án, Phó Chánh án TA phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi khi có những căn cứ
luật định.
 Hội thẩm, Thư ký Tòa án tham gia xét xử VAHS
Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của TA (khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân 2002). Hội thẩm tham gia xét xử, có quyền nghiên cứu hồ
sơ vụ án, có quyền đưa ra quyết định cuối cùng để phán xét bị cáo là có tội hay không,
nếu Hội thẩm không vô tư sẽ đưa ra quyết định sai lệch, làm ảnh hưởng đến quyền của
bị cáo, quyền và lợi ích của những người TGTT khác. Do đó, khi có căn cứ thay đổi,
Hội thẩm phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi.
Thư ký Tòa án là người giúp việc cho Thẩm phán và là một trong những người
THTT. Thư ký TA khi tham gia THTT không phải là người đưa ra phán xét quyết
cùng, nhưng hoạt động ghi biên bản một cách trung thực, đúng với thực tế diễn biến
của phiên tòa là một trong những chứng cứ quan trọng nếu vụ án được đưa ra xét xử
hoặc xem xét lại. Nếu có yếu tố khách quan hoặc chủ quan tác động lên Thư ký làm
cho Thư ký không ghi biên bản một cách trung thực, cố ý ghi sai lệch diến biến phiên
tịa thì Thư ký cần phải từ chối THTT hoặc bị thay đổi.
Từ những phân tích ở trên cho thấy, người THTT có vai trò rất quan trọng trong
việc giải quyết VAHS. Người THTT mang tính chất quyết định đối với q trình giải
quyết một VAHS. Do đó, khi có những căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách quan
theo quy định của BLTTHS thì chính những người THTT phải từ chối THTT hoặc bị
đề nghị thay đổi để đảm bảo cho quá trình giải quyết VAHS một cách khách quan.
1.1.2. Khái niệm căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng
1.1.2.1. Khái niệm thay đổi người tiến hành tố tụng
Quá trình giải quyết VAHS là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau

nên cần có sự phối hợp giữa các chủ thể THTT với nhau. Người THTT chịu trách
nhiệm chính trong việc giải quyết vụ án theo nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy
định. Để đảm bảo cho VAHS được giải quyết một cách chính xác, khách quan, đảm
bảo cho quyền lợi của bị can, bị cáo và những người TGTT khác thì người THTT cần
phải vơ tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá vấn đề để đưa ra một quyết định đúng

4


đắn nhất. Trong những trường hợp luật định, nếu người THTT không đảm bảo được sự
vô tư, khách quan làm ảnh hưởng đến việc tìm ra sự thật của vụ án thì phải bị thay đổi.
Thay đổi người THTT là đưa một người THTT này vào “thay thế” cho một người
THTT khác nhằm làm “khác đi” tình trạng có khả năng khơng vơ tư của người THTT
trước đó và người thay thế phải đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp
luật Hình sự và TTHS, người THTT thay thế phải đảm bảo nguyên tắc xác đinh sự thật
vụ án, đảm bảo vô tư khách quan trong suốt q trình THTT giải quyết VAHS. Điều đó
có nghĩa là khi phát hiện Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký
TA không đảm bảo để tiến hành các hoạt động tố tụng một cách vô tư, khách quan thì
phải thay đổi họ trong bất kì giai đoạn nào của quá trình tố tụng.
Như vậy, thay đổi người THTT để đảm bảo mục đích chung của TTHS, để củng
cố niềm tin trong nhân dân về sự công minh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tin
tưởng vào những người bảo vệ chân lý. Tất cả mọi hoạt động của người THTT đều liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người TGTT, đặc biệt là bị can, bị
cáo, để đảm bảo pháp chế XHCN trong TTHS cần có các căn cứ thay đổi người THTT.
1.1.2.2. Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng
Như đã phân tích ở trên, người THTT là cán bộ Nhà nước với những chức danh
khác nhau thực hiện nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan THTT nhằm bảo vệ chế độ
XHCN, phát triển nền dân chủ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội.
Trong q trình THTT, nếu có một lý do cho rằng người THTT có khả năng làm

ảnh hưởng đến việc bảo đảm giải quyết VAHS một cách đúng đắn, tồn diện, khách
quan thì buộc phải thay đổi ngay. Người THTT thuộc những trường hợp, có thể bị tác
động từ những yếu tố bên ngồi, khiến họ có thể có những hành vi làm sai lệch đi sự
thật vụ án thì buộc họ phải thay đổi.
Người THTT khơng bị thay đổi một cách ngẫu nhiên mà cần phải có những căn
cứ cụ thể, rõ ràng. Căn cứ thay đổi người THTT là cơ sở để người THTT phải tự mình
từ chối THTT hoặc là cơ sở để đề nghị thay đổi người THTT của những chủ thể có
quyền đề nghị theo quy định của pháp luật.
Điều 42, 44, 45, 46, 47 BLTTHS đã liệt kê các căn cứ làm cơ sở cho việc thay đổi
người THTT, theo đó, người THTT sẽ bị thay đổi khi có những căn cứ sau:
5


Thứ nhất, họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân
thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;
Thứ hai, họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch trong vụ án đó;
Thứ ba, đã THTT trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký Tòa án. Đối với Thẩm phán và Hội thẩm cùng
trong một HĐXX và là người thân thích với nhau hoặc đã tham gia xét xử sơ thẩm
hoặc phúc thẩm hoặc THTT trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thư ký TA.
Thứ tư, có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể khơng vơ tư trong khi làm
nhiệm vụ.
Đây là những căn cứ thay đổi người THTT được quy định trong BLTTHS, trong
phạm vi Chương 1 tác giả giới thiệu sơ bộ các căn cứ thay đổi, việc đi sâu vào phân
tích các căn cứ trên sẽ được thực hiện tại Chương 2.
Khi người THTT thuộc vào một trong những căn cứ trên trước tiên họ phải tự
mình từ chối THTT để đảm bảo giữ uy tín, sự thanh liêm của người thực hiện nhiệm vụ

công. Nếu họ không tự mình từ chối thì khi có u cầu của những chủ thể quy định tại
Điều 43 BLTTHS, người THTT phải bị thay đổi.
Như vậy, khi người THTT thuộc một trong các căn cứ thay đổi người THTT thì
việc thay đổi người THTT trong trường hợp này là cần thiết, một mặt nhằm đảm bảo
sự khách quan, vô tư của người THTT, nhằm đảm bảo cho nguyên tắc xác định sự thật
khách quan của vụ án được tôn trọng và bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS. Mặt
khác, việc xây dựng các căn cứ thay đổi người THTT là một bước dự liệu phòng ngừa
những hành vi vi phạm pháp luật của người thực hiện quyền lực Nhà nước, tạo môi
trường pháp lý trong sạch, củng cố niềm tin của nhân dân vào các cơ quan bảo vệ pháp
luật, vào chế độ XHCN.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng
Quá trình THTT giải quyết VAHS địi hỏi sự vơ tư, khách quan của những chủ
thể THTT nhằm đánh giá, nhận xét và đưa ra những quyết định phù hợp với sự thật của
vụ án, phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, do những tác động
6


khách quan hoặc chủ quan, có thể ảnh hưởng đến người THTT khi ra quyết định.
Chính vì vậy, pháp luật buộc các chủ thể THTT phải từ chối THTT hoặc bị đề nghị
thay đổi khi có những căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách quan khi tiến hành nhiệm
vụ, một mặt nhằm ngăn chặn những vi phạm pháp luật của những chủ thể THTT, mặt
khác góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án một cách nhanh chóng và chính xác. Vì
vậy, việc tìm hiểu mục đích cũng như ý nghĩa của chế định căn cứ thay đổi người
THTT sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận của chế định này trong BLTTHS.
1.2.1. Mục đích của chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng
Thông qua chức năng tố tụng, người THTT thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn
nhằm đảm bảo cho lợi ích cơng cũng như lợi ích của cơng dân. Người THTT giữ vai
trị chủ động trong q trình giải quyết VAHS, mọi quyết định của người THTT đều
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người TGTT. Nên những quy định bảo
đảm sự vô tư khách quan của người THTT được chú trọng hàng đầu, không chỉ thể

hiện ở những ngun tắc của TTHS mà cịn được cụ thể hóa vào một số quy phạm
pháp luật trong BLTTHS.
BLTTHS đã dành hẳn một chương để quy định về cơ quan THTT, người THTT
và các căn cứ thay đổi người THTT giúp cho cơ quan THTT, người THTT có đầy đủ
cơ sở pháp lý thực hiện các hoạt động tố tụng, thực hiện chức năng nhiệm vụ Nhà nước
giao.
Nội dung của những điều luật trong chế định căn cứ thay đổi người THTT nhằm
loại bỏ những điều kiện khách quan và chủ quan tác động tiêu cực đến người THTT,
góp phần tạo điều kiện cho người THTT thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình
theo quy định của pháp luật. Nếu người THTT có những biểu hiện khơng vơ tư, khách
quan, bị chi phối bởi những lợi ích cá nhân mà làm sai lệch sự thật vụ án thì buộc phải
thay đổi, khơng thể để họ có điều kiện thực hiện hành vi vi phạm, giúp họ giữ được
danh dự, uy tín, phẩm chất đạo đức và nâng cao chất lượng công tác từ những hoạt
động đúng đắn của họ.
Thay đổi người THTT là điều kiện đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS để họ có thể lựa chọn những người đáng
tin tiến hành các hoạt động TTHS để xác định sự thật khách quan của vụ án. Người có
quyền đề nghị thay đổi người THTT có thể đề nghị thay đổi bất cứ người THTT nào
7


khi họ cho rằng người THTT đó khơng vơ tư, khách quan, gây thiệt hại đến lợi ích của
người TGTT ở bất kì giai đoạn tố tụng nào.
Như vậy, các nhà làm luật xây dựng chế định căn cứ thay đổi người THTT nhằm
cụ thể hóa, chi tiết hóa một số nguyên tắc cơ bản của luật TTHS. Đảm bảo cho nguyên
tắc xác định sự thật khách quan của vụ án được tôn trọng trong TTHS và đảm bảo sự
vô tư của những người THTT trong khi làm nhiệm vụ.
1.2.2. Ý nghĩa của chế định căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng
Ý nghĩa của chế định căn cứ thay đổi người THTT được thể hiện ở những khía
cạnh sau:

Việc xây dựng chế định căn cứ thay đổi người THTT tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật của người thực hiện quyền lực
Nhà nước, tạo môi trường pháp lý trong sạch, tránh hiện tượng tiêu cực trong hoạt
động tư pháp do khơng có quy phạm pháp luật điều chỉnh, tạo điều kiện cho việc giải
quyết vụ án được khách quan toàn diện.
Việc quy định các căn cứ thay đổi người THTT sẽ là hành lang pháp lý cho việc
thực hiện dân chủ, tôn trọng và đảm bảo quyền của công dân đã được Hiến pháp và
pháp luật quy định. Cụ thể tại Điều 3 BLTTHS quy định: tôn trọng và bảo vệ những
quyền cơ bản của công dân trong hoạt động TTHS. Do đó, khi có sự xung đột giữa lợi
ích cá nhân của người THTT và lợi ích của người TGTT, pháp luật cho phép áp dụng
việc thay đổi người THTT để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người
TGTT.
Tội phạm là những hành vi mang tính nguy hiểm cao cho xã hội nên bất kì hành
vi phạm tội nào cũng phải chịu hình phạt mà khơng có ngoại lệ. Việc thay đổi người
THTT cũng khơng khơng có ngoại lệ khi có căn cứ cho rằng họ khơng vơ tư, khách
quan nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật không chỉ đối với tội phạm mà đối
với cả những người được Nhà nước giao nhiệm vụ. Khi tội phạm được đưa ra xét xử
công khai, ngồi tội phạm và những người THTT thì cịn có sự tham gia đơng đảo của
quần chúng nhân dân. Người THTT thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tuân
theo quy định pháp luật trong hoạt động TTHS sẽ có ý nghĩa tun truyền rất lớn,
nhằm mục đích giáo dục nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong quần chúng nhân
dân.
8


Tóm lại, việc quy định các căn cứ thay đổi người THTT trong BLTTHS là rất cần
thiết. Các căn cứ thay đổi người THTT đảm bảo cho việc xác định sự thật của vụ án,
phát hiện, xử lý chính xác, kịp thời người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm. Từ đó, góp
phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp
luật, tăng cường pháp chế XHCN, đồng thời cịn góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của cơng dân.
1.3. Các nguyên tắc tố tụng hình sự chi phối việc quy định và áp dụng chế định
căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng
Ở khía cạnh chung nhất “nguyên tắc là cơ sở đầu tiên, là tư tưởng chủ đạo, quy
tắc cơ bản, yêu cầu cơ bản đối với hoạt động và hành vi”[30-tr.12]. Như vậy, nguyên
tắc được coi là cái không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người, đảm bảo cho những hoạt động đó đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao. TTHS với
tư cách là hoạt động pháp luật của các cơ quan Nhà nước được giao nhiệm vụ đấu
tranh phòng chống tội phạm phải tuân theo những nguyên tắc nhất định là điều tất yếu.
Trong khoa học luật TTHS, nguyên tắc của luật TTHS được hiểu là những phương
châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số hoạt động TTHS và được các văn bản
pháp luật TTHS ghi nhận. Những nguyên tắc của luật TTHS là “kim chỉ nam cho mọi
hoạt động tố tụng và được quy định trực tiếp trong BLTTHS”[32-tr.58]. Những nguyên
tắc này không chỉ định hướng cho hoạt động TTHS mà còn cho hoạt động xây dựng
pháp luật TTHS trong thực tiễn.
Trong quá trình xây dựng cũng như áp dụng chế định căn cứ thay đổi người
THTT, nhà lập pháp và người THTT chịu sự chi phối của rất nhiều nguyên tắc trong
BLTTHS, trong đó các nguyên tắc như: Nguyên tắc pháp chế XHCN; nguyên tắc xác
định sự thật vụ án; nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người THTT; nguyên tắc
xác định trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT; nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là những nguyên tắc trực tiếp chi phối,
ảnh hưởng, định hướng hành vi của người THTT. Do đó, trong phạm nghi nghiên cứu
của đề tài, tác giả phân tích các nguyên tắc trên để thấy được sự chi phối, ảnh hưởng
của các nguyên tắc trên đến việc xây dựng cũng như áp dụng chế định căn cứ thay đổi
người THTT.

9


1.3.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc pháp chế XHCN là một trong những nguyên tắc Hiến định, bao trùm
lên tất cả các ngành luật trong đó có luật TTHS. Đây là nguyên tắc pháp lý cơ bản,
chung nhất trong mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân
được Điều 12 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Trong TTHS, nguyên tắc pháp chế được
thể hiện trong tất cả các giai đoạn, từ những quy định chung cho đến những quy định
cụ thể và được quy định tại Điều 3 BLTTHS: “mọi hoạt động TTHS của cơ quan
THTT, người THTT và người TGTT phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật
này”. Có thể nói, nguyên tắc pháp chế XHCN là cơ sở cho các nguyên tắc khác của
TTHS và được áp dụng một cách thống nhất trong công tác điều tra, xử lý tất cả các
VAHS trên tồn lãnh thổ nước Cộng hịa XHCN Việt Nam.
Yêu cầu của nguyên tắc pháp chế đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật hồn
chỉnh và đồng bộ vì khơng thể nói đến pháp chế nếu khơng có pháp luật. Pháp luật là
điều kiện vật chất, là nền tảng của pháp chế. Chỉ khi pháp luật hoàn thiện, các quy định
của pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, đầy đủ, khoa học và khách quan thì việc tuân thủ pháp
luật mới có ý nghĩa và mới mang lại hiệu quả cao cho cơng tác đấu tranh phịng chống
tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Khi đã có hệ thống pháp luật hồn chỉnh và đồng bộ thì q trình giải quyết
VAHS phải tuân theo các quy định của pháp luật nói chung và luật TTHS nói riêng về
cách thức và trình tự tiến hành. Luật TTHS quy định chặt chẽ trình tự, cách thức, thủ
tục nhằm giải quyết các VAHS được nhanh chóng, chính xác, khách quan. Bất cứ sự vi
phạm nào về các quy định này đều ảnh hưởng đến kết quả vụ án và có tác động xấu về
mặt xã hội, làm giảm hiệu lực của Nhà nước và tùy tiện xâm phạm quyền tự do của
cơng dân. Vì vậy, để tăng cường pháp chế XHCN đòi hỏi trước hết người THTT phải
tuân thủ nghiêm ngặt các căn cứ thay đổi người THTT theo quy định tại Điều 42
BLTTHS. Người THTT phải tự mình từ chối THTT vì nhận thấy rằng bản thân không
thể vô tư, khách quan trong quá trình thi hành nhiệm vụ. Nếu người THTT cố tình che
giấu, khơng tự mình từ chối THTT thì những người TGTT, Kiểm sát viên có quyền đề
nghị chủ thể có thẩm quyền ra quyết định thay đổi người THTT khi họ biết được
những căn cứ nêu trên theo quy định tại Điều 43 BLTTHS.

10


Tội phạm hình sự với những hình phạt mang tính nghiêm khắc nhất thì những
người THTT phải đảm bảo “chí cơng vơ tư” để giải quyết VAHS một cách nhanh
chóng, chính xác, khách quan để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người
TGTT. Nên những người THTT chỉ tham gia quá trình tố tụng giải quyết VAHS khi
“cái tâm phải sáng”, hồn tồn khơng bị chi phối bởi bất kì mối quan hệ nào về tình
cảm, vật chất chất hay quyền lực từ bên ngoài để đảm bảo tuân thủ tuyệt đối nguyên
tắc pháp chế XHCN.
Như vậy, việc bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong việc áp dụng chế định căn cứ
thay đổi người THTT có một vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm sự thượng tôn
của pháp luật. Việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế vừa đảm bảo cho việc áp dụng pháp
luật thống nhất trên toàn quốc, vừa đảm bảo việc giải quyết vụ án được nhanh chóng,
chính xác. Có thể nói: “Làm trái pháp luật tức là không tôn trọng pháp chế. Dù với một
động cơ nào đó đầy thiện chí thì điều đó đều làm phát sinh ra khả năng tùy tiện, lộng
hành, vô pháp cho mỗi người tự quyết định tuân thủ hay không tuân thủ pháp luật”[47tr.24].
1.3.2. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Nguyên tắc xác định sự thật vụ án khách quan là một trong những nguyên tắc
trung tâm của TTHS, vừa là nội dung bản chất của của hoạt động tố tụng đồng thời lại
vừa là cái đích mà hoạt động đó hướng tới. Ngun tắc xác định sự thật của vụ án đảm
bảo cho các hoạt động và quyết định tố tụng phù hợp với thực tế và diễn biến của vụ
án. Đảm bảo xác định sự thật vụ án là đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác và
khách quan, khơng bỏ lọt tội phạm cũng như không làm oan người vô tội. Việc xác
định sự thật vụ án là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo cơ sở thực tế tái hiện lại chính
xác những sự kiện đã xảy ra mà từ đó có những quyết định đúng đắn trong quá trình
THTT giải quyết VAHS.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc xác định sự thật vụ án một cách triệt để trong
lĩnh vực TTHS, BLTTHS quy định cụ thể nguyên tắc này tại Điều 10: “Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật

của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
11


Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có
quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội”.
u cầu của ngun tắc xác định sự thật vụ án đặt ra là sự thật của vụ án phải
được xác định một cách khách quan, tồn diện và đầy đủ. Tính khách quan, tồn diện
và đầy đủ là những địi hỏi mang tính chỉ đạo từ việc thu thập, kiểm tra đến đánh giá
chứng cứ và các tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Vụ án phải được đánh giá dựa
trên những chứng cứ có thật, có liên quan đến vụ án mà không được dựa trên những
suy luận chủ quan. Đồng thời, vụ án phải được xem xét một cách đầy đủ, toàn diện:
xem xét tất cả những chứng cứ buộc tội cũng như những chứng cứ gỡ tội, tất cả những
tình tiết tăng nặng lẫn những tình tiết giảm nhẹ, tất cả những tình tiết về nhân thân
người phạm tội, …
Để đảm bảo xác định được sự thật khách quan của vụ án địi hỏi những người có
thẩm quyền THTT cần phải vô tư khi làm nhiệm vụ, không để lợi ích và tình cảm riêng
tư xen vào cơng việc. Khi người THTT khơng vơ tư hoặc để tình cảm riêng tư xen vào
thì sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án một cách phiến diện, thiếu chính xác, thiếu khách
quan. Nếu có những căn cứ theo Điều 42 BLTTHS để cho rằng họ không vô tư trong
khi làm nhiệm vụ thì trước hết địi hỏi họ phải tự giác từ chối THTT, trong trường hợp
khơng từ chối thì họ sẽ bị đề nghị thay đổi.
Như vậy, sự thật khách quan của vụ án sẽ nhanh chóng được làm rõ khi những
người THTT tuân thủ đúng các quy định của pháp luật TTHS kết hợp với khả năng về
chuyên mơn, nghiệp vụ, hết lịng thực hiện nhiệm phục vụ lợi ích chung của xã hội.
1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham
gia tố tụng
TTHS là một lĩnh vực tư pháp mà khi thực hiện có mối quan hệ chặt chẽ tới

quyền con người. Mọi hành vi tố tụng đều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích thiết thân
nhất như quyền nhân thân, tự do, thậm chí là quyền sống của con người. Giá trị cuộc
sống của con người là vô giá, mỗi một sai lầm xảy ra đều để lại hậu quả mà có khi là
những hậu quả khơng thể khắc phục được. Cố Tổng bí thư Lê Duẩn từng nhắc nhở
“Một người bị tội oan chẳng những người ấy bị đau khổ mà gia đình, con cái họ cịn
đau khổ hơn”. Vì vậy, cách tốt nhất để hạn chế sai lầm là phải luôn cẩn thận, luôn đặt

12


giá trị của con người lên hàng đầu để trong một hành vi tố tụng đều phải cân nhắc tính
chính xác và hợp lí của nó.
Để đảm bảo VAHS được xử lý chính xác, khách quan, góp phần vào cuộc đấu
tranh phịng chống tội phạm có hiệu quả cũng như bảo vệ tốt các quyền tự do, dân chủ
của công dân thì những chủ thể THTT phải vơ tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ.
Do đó, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người TGTT luôn
được đề cao trong TTHS. Điều 14 BLTTHS quy định: “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, Chánh án, Phó Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tịa án khơng
được THTT …, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể khơng vơ tư trong khi
thực hiện nhiệm vụ của mình”.
Việc xác định sự thật khách quan của vụ án là mục đích của hoạt động tố tụng,
được hiểu là việc xác định đúng đắn tính chất, tình tiết và diễn biến của vụ việc đã xảy
ra phù hợp với thực tế. Từ đó, đi đến xác định sự thật pháp lý của vụ án là có hay
khơng có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay khơng có
lỗi, do cố ý hay vơ ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng, mục đích hoặc động
cơ phạm tội, … Xác định sự thật khách quan là nguyên tắc mà bất kì một VAHS nào
cũng phải được đảm bảo. Hay nói cách khác, sự thật khách quan là mục tiêu của
nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người THTT hoặc người TGTT. Còn bản thân
nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người THTT hoặc người TGTT là điều kiện để đảm

bảo xác định được sự thật khách quan, giúp cho việc xử lý vụ án chính xác, cơng bằng.
Nếu người THTT có những biểu hiện thiên lệch, khơng vơ tư trong TTHS thì sự thật
của vụ án khơng được phản ánh đầy đủ. Một trong những nhân tố có tác động trực tiếp
đến sự vơ tư của người THTT đó là tình cảm, mà cụ thể đó là những tình cảm xuất phát
từ mối quan hệ thân thích. Do mối quan hệ tình cảm nên khi THTT, đánh giá một vấn
đề liên quan đến quyền lợi của những người “thân thích” chắc chắn khơng tránh được
sự thiên lệch, khơng vơ tư. Từ đó, trong các nhận định, phán quyết không phản ánh
được đầy đủ, khách quan sự thật của vụ án và điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật
cũng như các phán quyết của TA sẽ khơng đạt được mục đích.
Ngồi mối quan hệ thân thích giữa người THTT và người TGTT cịn có một số
quan hệ khác chi phối sự độc lập, khách quan của người THTT như sự chịu ơn, sự cho
nhận tài sản… Nếu người THTT thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định pháp luật thì
13


người THTT sẽ mất đi quyền lợi được chu cấp từ phía người TGTT. Người THTT
đứng trước sự lựa chọn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của những người TGTT khác
trong vụ án, họ sẽ khó giữ được sự “thanh bạch” mà có hành vi làm sai lệch vụ án.
Mặt khác, một người không thể tự đưa ra những nhận định, phán xét cho chính
mình hoặc người mà mình đại diện một cách vơ tư, khách quan, cơng bằng. Cho nên
người THTT không thể đồng thời tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS với hai tư
cách tố tụng khác nhau, vừa là người THTT vừa là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp
pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo. Trong trường hợp
này, người THTT phải tự mình từ chối THTT khi thấy rằng mình khơng thể vơ tư khi
giải quyết vụ án hoặc bị đề nghị thay đổi để đảm bảo cho việc xác định sự thật khách
quan của vụ án.
Người THTT cũng phải trung thực xem xét các kết luận của người giám định,
người phiên dịch bằng trình độ hiểu biết của mình, khơng được vì quen biết mà tin
tưởng hồn tồn vào kết quả đó, khơng đối chứng với chứng cứ khác, những tình tiết

có liên quan trong vụ án để làm sáng tỏ sự thật vụ án, sẽ đi đến tình trạng oan sai,
quyền và lợi ích hợp pháp của người TGTT khơng được bảo đảm.
Do đó, khi người THTT rơi vào một trong những căn cứ quy định tại Điều 42
BLTTHS, người THTT không thể đảm bảo sự vô tư khi đưa ra những kết luận đúng
đắn về sự thật khách quan của VAHS thì họ phải tự mình từ chối THTT, hoặc bị đề
nghị thay đổi bởi những chủ thể được quy định tại Điều 43 BLTTHS.
Tóm lại, trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của xử sự vơ tư đối với q
trình TTHS, việc tìm hiểu, nắm bắt và đề ra các quy định nhằm loại trừ những nhân tố
tác động làm sai lệch hoặc giảm thiểu sự vô tư của người THTT là điều tối thiểu cần
thiết trong các quy định pháp luật TTHS. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ loại bỏ
những tác động tiêu cực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và
người TGTT, có ý nghĩa đấu tranh phịng chống tội phạm rất tích cực, tuân thủ quy
định PLHS và TTHS, đảm bảo pháp chế XHCN.

14


1.3.4. Nguyên tắc xác định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng
Để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các chủ thể THTT trong quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, BLTTHS đã ghi nhận trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT tại Điều
12 là một nguyên tắc cơ bản của Luật THTT với nội dung: “Trong quá trình tiến hành
tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện
những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định
của mình.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự”.
Quy định trên đã xác định rõ trách nhiệm của cơ quan THTT và người THTT

trước hết phải tuân thủ và thực hiện những quy định của pháp luật. Trong q trình
THTT, người THTT có quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quyết
định truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, ra bản án quyết định về hình phạt và
những vấn đề liên quan theo quy định của pháp luật, bảo đảm quyền tự do dân chủ,
bình đẳng của cơng dân. Người THTT khơng được lạm dụng quyền hạn mà có hành vi
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của những người TGTT. Nếu người nào có hành
vi, quyết định vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết VAHS thì phải chịu trách
nhiệm về hành vi, quyết định của mình.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hoạt động tư pháp có những vi phạm bỏ
lọt tội phạm, xử oan người vô tội từ phía người THTT là do bản thân họ đã tiến hành
các hoạt động tố tụng không công minh, không đảm bảo tuyệt đối sự tuân thủ pháp
luật, ra những quyết định mang tính chủ quan, bị tình cảm cá nhân chi phối, có căn cứ
để thay đổi người THTT đó nhưng họ đã không từ chối THTT hoặc không bị đề nghị
thay đổi.
Người THTT là người chấp pháp, thay mặt Nhà nước “hành sự”, nếu khơng thật
sự chí cơng vơ tư thì phải tuân theo quy định của pháp luật là từ chối THTT. Người
THTT có sai phạm che đậy sự thật, điều tra, truy tố, xét xử oan sai trong TTHS cần
phải nghiêm trị thích đáng vì “biết luật mà còn phạm luật”. Họ lạm dụng quyền lực
15


Nhà nước trao cho là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà lại gây thiệt
hại cho họ vì lợi ích bản thân mình hoặc những người có quan hệ thân thích với mình.
Để tn thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì khi rơi vào một trong các căn cứ
thay đổi người THTT theo quy định của BLTTHS thì người THTT phải từ chối THTT
hoặc bị đề nghị thay đổi để đảm bảo cho VAHS được giải quyết đúng đắn, khách quan.
Nhìn chung, quy định trên nhằm mục đích đảm bảo sự vơ tư, khách quan của
những người THTT. Đó là hàng rào pháp lý ngăn chặn sự tùy tiện lạm quyền trong quá
trình THTT, có ý nghĩa “cảnh báo” về hậu quả mà người THTT phải gánh chịu khi có
hành vi, quyết định sai trái, giúp họ có ý thức trách nhiệm cao hơn đối với hành vi tố

tụng của mình, chấp hành nghiêm chỉnh quy định PLHS và TTHS.
1.3.5. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Ở nước ta, TA là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét
xử. Các hoạt động xét xử của TA đều do HĐXX thực hiện. Kết quả của hoạt động xét
xử VAHS là ra bản án hoặc quyết định có căn cứ và đúng pháp luật. Quyết định hay
bản án của HĐXX có liên quan trực tiếp đến quyền tự do, lợi ích hợp pháp, tài sản và
thậm chí là cả tính mạng của người bị kết án. Do vậy, bản án hay quyết định của
HĐXX phải chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
Để đảm bảo cho yêu cầu này, pháp luật quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là nguyên tắc cơ bản và quan trọng chi
phối hoạt động xét xử của TA. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 30 Hiến pháp
1992, Điều 16 BLTTHS và Điều 5 Luật tổ chức TAND 2002. “Độc lập và tuân theo
pháp luật là hai yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết
để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là
cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này
là ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà khơng tn theo pháp luật thì thì dễ dẫn đến tình
trạng xét xử tùy tiện, độc đốn” [45-tr.55].
Độc lập khi xét xử có nghĩa là khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá chứng cứ,
tình tiết liên quan và ra phán quyết cuối cùng về vụ án đó, Thẩm phán và Hội thẩm đều
tự mình xét đoán sự việc dựa vào kiến thức pháp luật, kinh nghiệm công tác và niềm
tin nội tâm để tin chắc rằng quyết định của mình là đúng lý, hợp tình mà khơng bị chi
phối, chỉ đạo bởi lãnh đạo TA hoặc TA cấp trên hay phụ thuộc vào quan điểm của
16


×